Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư là mục tiêu phấn đấu lâu dài của
mỗi doanh nghiệp. Hiệu quả sử dụng vốn nói chung và hiệu quả sử dụng tài sản
lưu động nói riêng gắn liền với hiệu quả sản xuất kinh doanh của mỗi doanh
nghiệp. Để đưa ra những giải pháp hữu hiệu, nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả
sử dụng tài sản lưu động, bản thân doanh nghiệp phải biết kết hợp giữa lý luận
với điều kiện thực tế của công ty mình, cũng như điều kiện kinh tế xã hội và các
qui định của nhà nước trong việc quản lývà sử dụng tài sản lưu động.
Đối với các doanh nghiệp nhà nước, ở nước ta hiện nay, vấn đề quản lý và
sử dụng tài sản lưu động đang được đặc biệt quan tâm. Trong tình hình mới,
cùng với việc chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế là quá trình cắt giảm nguồn vốn
ngân sách cấp, mở rộng quyền tự chủ và chuyển giao vốn cho các doanh nghiệp
tự quản lý và sử dụng đã tạo ra một tình hình mới đầy phức tạp và biến động
trong quá trình vận động vốn nói chung. Một số doanh nghiệp đã có phương
thức, phương pháp, biện pháp huy động và sử dụng vốn kinh doanh một cách
năng động và có hiệu quả, phù hợp với những yêu cầu đòi hỏi của cơ chế quản
lý kinh tế mới. Bên cạnh đó đã có không ít những doanh nghiệp lâm vào tình
trạng khó khăn, các doanh nghiệp này chẳng những không huy động, phát triển
tăng thêm nguồn vốn mà còn trong tình trạng mất dần vốn. Do công tác quản lý
sử dụng vốn thiếu chặt chẽ, kém hiệu quả, vi phạm các qui định trong thanh
toán.
78 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 4121 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản lưu động ở Công ty giầy Thượng Đình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Vũ Quang Hoà - TCDN 42A 1
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
KHOA
KINH TẾ TÀI CHÍNH
Đề tài: Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng tài
sản lưu động ở Công ty giầy Thượng Đình
Vũ Quang Hoà - TCDN 42A 2
Lời nói đầu
Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư là mục tiêu phấn đấu lâu dài của
mỗi doanh nghiệp. Hiệu quả sử dụng vốn nói chung và hiệu quả sử dụng tài sản
lưu động nói riêng gắn liền với hiệu quả sản xuất kinh doanh của mỗi doanh
nghiệp. Để đưa ra những giải pháp hữu hiệu, nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả
sử dụng tài sản lưu động, bản thân doanh nghiệp phải biết kết hợp giữa lý luận
với điều kiện thực tế của công ty mình, cũng như điều kiện kinh tế xã hội và các
qui định của nhà nước trong việc quản lý và sử dụng tài sản lưu động.
Đối với các doanh nghiệp nhà nước, ở nước ta hiện nay, vấn đề quản lý và
sử dụng tài sản lưu động đang được đặc biệt quan tâm. Trong tình hình mới,
cùng với việc chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế là quá trình cắt giảm nguồn vốn
ngân sách cấp, mở rộng quyền tự chủ và chuyển giao vốn cho các doanh nghiệp
tự quản lý và sử dụng đã tạo ra một tình hình mới đầy phức tạp và biến động
trong quá trình vận động vốn nói chung. Một số doanh nghiệp đã có phương
thức, phương pháp, biện pháp huy động và sử dụng vốn kinh doanh một cách
năng động và có hiệu quả, phù hợp với những yêu cầu đòi hỏi của cơ chế quản
lý kinh tế mới. Bên cạnh đó đã có không ít những doanh nghiệp lâm vào tình
trạng khó khăn, các doanh nghiệp này chẳng những không huy động, phát triển
tăng thêm nguồn vốn mà còn trong tình trạng mất dần vốn. Do công tác quản lý
sử dụng vốn thiếu chặt chẽ, kém hiệu quả, vi phạm các qui định trong thanh
toán.
Trong bối cảnh chung đó, Công ty giầy Thượng Đình đã có nhiều cố gắng
trong việc tìm hướng khai thác, huy động vốn vào phát triển kinh doanh và đã
đạt được những kết quả nhất định. Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng còn nhiều vấn
đề đặt ra cần được tiếp tục giải quyết như tích luỹ hơn nữa để tăng nguồn vốn
sở hữu, tự chủ trong sản xuất kinh doanh nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả sản
xuất kinh doanh, hiệu quả sử dụng vốn, đặc biệt là vấn đề quản lý và sử dụng
hiệu quả tài sản lưu động. Là một doanh nghiệp thương mại nhà nước hoạt động
đặc thù trong nghành sản xuất kinh doanh da giầy, tài sản lưu động của Công ty
Vũ Quang Hoà - TCDN 42A 3
đòi hỏi lớn, . Kinh doanh các mặt hàng da giầy nên đã đòi hỏi một lượng hàng
hoá lớn trong khâu dự trữ và lưu thông, điều này bắt buộc doanh nghiệp phải có
phương thức quản lý và sử dụng tài sản lưu động một cách hết sức khoa học,
hợp lý nhằm đạt hiệu quả tối ưu nhất của đồng vốn.
Do tầm quan trọng của vấn đề và qua thực tế nghiên cứu, tìm hiểu trong
thời gian thực tập tại Công ty. Đặc biệt là được sự giúp đỡ tận tình của Th.s.
Phạm Hồng Vân và các cô, chú ,anh chị trong phòng Kế toán – Tài chính Em đã
mạnh dạn chọn đề tài chuyên đề tốt nghiệp là: "Giải pháp nhằm nâng cao hiệu
quả sử dụng tài sản lưu động ở Công ty giầy Thượng Đình ".
Song do thời gian có hạn nên bài viết của em không tránh khỏi những thiếu
sót, em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo và các cô,
chú ,anh,chị trong phòng Kế toán –Tài chính để bài viết của em được tốt hơn.
Qua đây em cũng tỏ lòng biết ơn sự giúp đỡ, chỉ bảo tận tình của Cô giáo –
Th.s .Phạm Hồng Vân cùng các cô, chú ,anh chị trong phòng Kế toán –Tài
chính. Em xin chân thành cảm ơn!
Nội dung chính của chuyên đề được trình bày trong các chương sau:
Chương 1: Tài sản lưu động và hiệu quả sử dụng tài sản lưu động trong
doanh nghiệp
Chương 2: Thực trạng sử dụng và hiệu quả sử dụng tài sản lưu động ở
Công ty giầy Thượng Đình
Chương 3: Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản lưu dộng
ở Công ty giầy Thượng Đình
Vũ Quang Hoà - TCDN 42A 4
Chương 1
tài sản lưu động và hiệu quả
sử dụng tài sản lưu động trong doanh nghiệp
1.1. Những vấn đề cơ bản về tài sản lưu động trong của doanh nghiệp.
1.1.1. Khái niệm tài sản lưu động.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986 đã đánh dấu một bước ngoặt
lớn trong lịch sử tồn tại và phát triển của đất nước ta, với việc chuyển đổi nền
kinh tế từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường. Trong điều
kiện đó, các mối quan hệ hàng hoá, tiền tệ ngày càng được mở rộng và phát
triển, trong nền kinh tế xuất hiện nhiều loại hình doanh nghiệp với các hình thức
sở hữu khác nhau, cùng tồn tại, cạnh tranh lẫn nhau và bình đẳng trước pháp
luật. Cho dù có khác nhau về loại hình, về lĩnh vực kinh doanh nhưng các doanh
nghiệp luôn là một bộ phận quan trọng trong nền kinh tế nước ta. Nhiệm vụ chủ
yếu của doanh nghiệp là thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm tạo
ra sản phẩm hàng hoá, lao vụ, dịch vụ cung cấp cho xã hội. Doanh nghiệp có thể
thực hiện một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu từ sản xuất đến
tiêu thụ sản phẩm lao vụ, dịch vụ trên thị trường nhằm mục tiêu tối đa hoá lợi
nhuận.
Để tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh doanh nghiệp cần phải có
3 yếu tố là: đối tượng lao động, tư liệu lao động và sức lao động. Quá trình sản
xuất kinh doanh là quá trình kết hợp các yếu tố đó để tạo ra sản phẩm hàng hoá
lao vụ, dịch vụ. Khác với tư liệu lao động, đối tượng lao động( nhiên nguyên,
nhiên, vật liệu, bán thành phẩm...)chỉ tham gia vào một chu kì sản xuất kinh
doanh và luôn thay đổi hình thái vật chất ban đầu, giá trị của nó được chuyển
dịch toàn bộ một lần vào giá trị sản phẩm và được bù đắp khi giá trị sản phẩm
được thực hiện. Biểu hiện dưới hình thái vật chất của đối tượng lao động gọi là
tài sản lưu động( TSLĐ ). Trong các doanh nghiệp, TSLĐ gồm TSLĐ sản xuất
và TSLĐ lưu thông.
Vũ Quang Hoà - TCDN 42A 5
TSLĐ sản xuất gồm những vật tư dự trữ để chuẩn bị cho quá trình sản
xuất được liên tục, vật tư đang nằm trong quá trình sản xuất chế biến và những t-
ư liệu lao động không đủ tiêu chuẩn là tài sản cố định. Thuộc về TSLĐ sản xuất
gồm: Nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ, nhiên liệu, phụ tùng thay thế, sản
phẩm dở dang, công cụ lao động nhỏ.
TSLĐ lưu thông gồm: sản phẩm hàng hoá chưa tiêu thụ, vốn bằng tiền,
vốn trong thanh toán.
Quá trình sản xuất của doanh nghiệp luôn gắn liền với quá trình lưu
thông. Trong quá trình tham gia vào các hoạt động sản xuất kinh doanh tài sản l-
ưu động sản xuất và tài sản lưu động lưu thông luôn chuyển hoá lẫn nhau, vận
động không ngừng làm cho quá trình sản xuất kinh doanh được liên tục. Để hình
thành nên tài sản lưu động sản xuất và tài sản lưu động lưu thông doanh nghiệp
cần phải có một số vốn tương ứng để đầu tư vào các tài sản ấy, số tiền ứng trước
về những tài sản ấy được gọi là tài sản lưu động( TSLĐ )của doanh nghiệp.
Tài sản lưu động là những tài sản ngắn hạn và thường xuyên luân chuyển
trong quá trình kinh doanh.Trong bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp ,tài sản
lưu động được thể hiện ở các bộ phận tiền mặt ,các chứng khoán thanh khoản
cao,phải thu và dự trữ tồn kho.Gía trị các loại TSLĐ của doanh nghiệp kinh
doanh ,sản xuất thường chiếm tỷ trọng lớn trong tổng giá trị tài sản của
chúng.Quản lý sử dụng hợp lý các loại TSLĐ có ảnh hưởng rất quan trọng đối
với việc hoàn thành nhiệm vụ chung của doanh nghiệp.
1.1.2. Phân loại, kết cấu tài sản lưu động.
1.1.2.1. Phân loại tài sản lưu động
Có thể phân loại TSLĐ theo khả năng chuyển đổi và đặc điểm kinh tế của
từng nhóm:
a, Tiền(Cash)
Tất cả tiền mặt tại quỹ ,tiền trên các tài khoản ngân hàng và tiền đang
chuyển .Lưu ý rằng ,ở đây tiền (hay vốn bằng tiền )không phải chỉ là tiền mặt
.Nhiều người nhầm lẫn khái niệm Cash trong tiếng Anh và cho nó đồng nghía
với khái niệm tiền mặt trong tiếng Việt.Theo ngôn ngữ tiếng Việt Nam ,”tiền
Vũ Quang Hoà - TCDN 42A 6
mặt “ không bao gồm tiền gửi ngân hàng.Khi các doanh nghiệp thanh toán bằng
séc hoặc chuyển khoản thì được gọi là “thanh toán không dùng tiền mặt “.Trong
lĩnh vực tài chính- kế toán ,tài sản bằng tiền “Cash “của một công ty hay doanh
nghiệp bao gồm:
+Tiền mặt(Cash on hand)
+Tiền gửi ngân hàng(Bank accounts)
+Tiền dưới dạng séc các loại (Cheques)
+Tiền trong thanh toán(Floating money,Advanced payment)
+Tiền trong thẻ tín dụng và các loại tài khoản thẻ ATM
b,Vàng,bạc ,đá quý và kim khí quý
Đây là nhóm tài sản đặc biệt ,chủ yếu dùng vào mục đích dự trữ.Tuy
vậy,trong một số nghành như ngân hàng ,tài chính ,bảo hiểm ,trị giá kim cương
,đá qúy ,vàng bạc ,kim khí quý vv..có thể rất lớn
c,Các tài sản tương đương với tiền(cash equivalents)
Nhóm này gồm các tài sản tài chính có khả năng chuyển đổi cao ,tức là dễ
bán ,dễ chuyển đổi thành tiền khi cần thiết.Tuy nhiên, không phải tất cả các loại
chứng khoán đều thuộc nhóm này .Chỉ có các chứng khoán ngắn hạn dễ bán mới
được coi là TSLĐ thuộc nhóm này.Ngoài ra,các giấy tờ thương mại ngắn hạn
,được bảo đảm có độ an toàn cao thì cũng thuộc nhóm này.Ví dụ:hối phiếu ngân
hàng,kỳ phiếu thương mại,bộ chứng từ hoàn chỉnh…
d, Chi phí trả trước(Prepaid expenses)
Chi phí trả trước bao gồm các khoản tiền mà công ty đã trả trước cho
người bán ,nhà cung cấp hoặc các đối tượng khác .Một số khoản trả trước có thể
có mức độ rủi ro cao vì phụ thuộc vào một số yếu tố khó dự đoán trước
e,Các khoản phải thu(Accounts receivable)
Các khoản phải thu là một tài sản rất quan trọng của doanh nghiệp ,đặc
biệt là các công ty kinh doanh thương mại ,mua bán hàng hoá.Hoạt động mua
bán chịu giữa các bên ,phát sinh các khoản tín dụng thương mại.Thực ra ,các
khoản phải thu gồm nhiều khoản mục khác nhau tuỳ theo tính chất của quan hệ
mua bán ,quan hệ hợp đồng
Vũ Quang Hoà - TCDN 42A 7
f,Tiền đặt cọc
Trong nhiều trường hơp ,các bên liên quan đến hợp đồng phải đặt cọc một
số tiền nhất định .Phần lớn các điều khoản về tiền đặt cọc quy định theo 2 cách:
-Số tiền đặt cọc tính theo tỷ lệ phần trăm giá trị hợp đồng hoặc giá trị tài
sản được mua bán
-Số tiền đặt cọc được ấn định bằng một số tiên cụ thể,hoặc một giá trị tối
thiểu cho hợp
Tiền đặt cọc là một tài sản không chắc chắn ,độ tin cậy có thể giao động
lớn,từ 90% đến 30% hay 40%.Do tính chất là một tài sản bảo đảm như vậy nên
mặc dù tiền đặt cọc thuộc TSLĐ nhưng nó không được các ngân hàng tính đến
khi xác định khả năng thanh toán bằng tiền của doanh nghiệp
g, Hàng hoá vật tư(Inventory)
Hàng hoá vật tư được theo dõi trong một tài khoản gọi là hàng tồn
kho.”Hàng tồn kho” trong khái niệm này không có nghĩa là hàng hoá bị ứ
đọng,không bán được ,mà thực chất bao hàm toàn bộ các hàng hoá vật
liệu,nguyên liệu đang tồn tại ở các kho, quầy hàng hoặc trong xưởng.Nó gồm
nhiều chủng loại khác nhau như:NVL chính, NVL phụ ,vật liệu bổ trợ ,nhiên
liệu và các loại dầu mở, thành phẩm…
h, Các chi phí chờ phân bổ
Trong thực tế ,một khối lượng NVL và một số khoản chi phí đã phát sinh
nhưng có thể chưa được phân bổ vào giá thành sản phẩm hay dịch vụ.Những
khoản này sẽ được đưa vào giá thành trong khoảng thời gian thích hợp.
1.1.2.2. Kết cấu tài sản lưu động.
Bên cạnh việc nghiên cứu các cách phân loại TSLĐ theo những tiêu thức
khác nhau, doanh nghiệp còn phải đánh giá, nắm bắt được kết cấu TSLĐ ở từng
cách phân loại đó. Kết cấu TSLĐ phản ánh các thành phần và mối quan hệ tỷ lệ
giữa thành phần trong tổng số TSLĐ của doanh nghiệp. ở các doanh nghiệp
khác nhau thì kết cấu TSLĐ cũng không giống nhau. Việc phân tích kết cấu
TSLĐ của doanh nghiệp theo các tiêu thức phân loại khác nhau sẽ giúp doanh
nghiệp hiểu rõ hơn những đặc điểm riêng về TSLĐ mà mình đang quản lý, sử
Vũ Quang Hoà - TCDN 42A 8
dụng từ đó xác định đúng các trọng điểm và biện pháp quản lý TSLĐ có hiệu
quả hơn phù hợp với điều kiện cụ thể của doanh nghiệp. Mặt khác, thông qua
việc đánh giá, tìm hiểu sự thay đổi kết cấu TSLĐ trong những thời kỳ khác nhau
có thể thấy được những biến đổi tích cực cũng như những mặt còn hạn chế trong
công tác quản lý TSLĐ của từng doanh nghiệp.
Kết cấu TSLĐ của doanh nghiệp luôn thay đổi và chịu tác động của nhiều
yếu tố khác nhau. Có thể phân ra thành ba nhóm chính sau:
- Các nhân tố về mặt cung ứng vật tư như: khoảng cách giữa doanh
nghiệp với nơi cung cấp; khả năng cung cấp của thị trường; kỳ hạn giao hàng và
khối lượng vật tư được cung cấp mỗi lần giao hàng; đặc điểm thời vụ của chủng
loại vật tư cung cấp, giá cả của vật tư...
- Các nhân tố về mặt sản xuất như: đặc điểm, kỹ thuật, công nghệ sản xuất
của doanh nghiệp; mức độ phức tạp của sản phẩm chế tạo; độ dài của chu kỳ sản
xuất; trình độ tổ chức quá trình sản xuất...
- Các nhân tố về mặt thanh toán như phương thức thanh toán được lựa
chọn theo các hợp đồng bán hàng; thủ tục thanh toán; việc chấp hanh kỷ luật
thanh toán giữa các doanh nghiệp.
1.1.3. Nguồn hình thành tài sản lưu động của doanh nghiệp.
Trong doanh nghiệp, TSLĐ được hình thành từ nhiều nguồn vốn khác
nhau, do đó mỗi một loại nguồn vốn sẽ có tính chất, đặc điểm, chi phí sử dụng
khác nhau. Vấn đề đặt ra là các doanh nghiệp phải cân nhắc lựa chọn cho mình
một cơ cấu nguồn vốn tối ưu vừa giảm được chi phí sử dụng vốn, vừa đảm bảo
sự an toàn cho tình hình tài chính của doanh nghiệp. Căn cứ vào các tiêu thức
phân loại khác nhau thì TSLĐ của doanh nghiệp được hình thành từ các loại
nguồn vốn như :
* TSLĐ hình thành theo quan hệ sở hữu về vốn: gồm
- Vốn chủ sở hữu: Là số vốn thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp. Tuỳ
từng loại hình doanh nghiệp mà vốn chủ sở hữu có nội dung cụ thể riêng như:
vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước, vốn do chủ doanh nghiệp tự bỏ ra, vốn góp
Vũ Quang Hoà - TCDN 42A 9
cổ phần, vốn góp liên doanh, vốn tự bổ sung từ lợi nhuận để lại.Vốn chủ sở hữu
thể hiện khả năng tự chủ về tài chính của doanh nghiệp. Tỷ trọng vốn chủ sở
hữu trong tổng vốn càng lớn thì sự độc lập về tài chính của doanh nghiệp càng
cao.
- Các khoản nợ: Là các khoản TSLĐ được hình thành từ các khoản vay
của các ngân hàng thương mại hay các tổ chức tài chính, vốn vay qua phát hành
trái phiếu, các khoản nợ khách hàng chưa thanh toán...
* TSLĐ hình thành căn cứ vào thời gian huy động và sử dụng vốn: Nguồn
vốn của doanh nghiệp chia thành hai loại :
- Nguồn vốn thường xuyên: Là nguồn vốn mang tính chất ổn định và dài
hạn, bao gồm vốn chủ sở hữu và các khoản vay dài hạn để tài trợ cho nhu cầu
TSLĐ thường xuyên cần thiết của doanh nghiệp
Nguồn vốn thường xuyên = Tổng nguồn vốn - Nợ ngắn hạn
- Nguồn vốn tạm thời: Là nguồn vốn có tính chất ngắn hạn, gồm các
khoản vay ngắn hạn ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác, các khoản nợ ngắn
hạn, được dùng để đáp ứng nhu cầu TSLĐ có tính chất tạm thời, bất thường phát
sinh trong quá trình kinh doanh của doanh nghiệp
Nguồn vốn tạm thời = Vốn vay ngắn hạn + Vốn chiếm dụng hợp pháp
*TSLĐ hình thành theo phạm vi huy động vốn: TSLĐ được hình thành từ
hai nguồn
- Nguồn vốn bên trong doanh nghiệp: Là nguồn vốn có thể huy động đ-
ược từ bản thân doanh nghiệp. Bao gồm: vốn từ lợi nhuận để lại trong quá trình
kinh doanh, các quĩ của doanh nghiệp, các khoản thu từ nhượng bán, thanh lý tài
sản... Sử dụng triệt để nguồn vốn bên trong doanh nghiệp tức là doanh nghiệp đã
phát huy được tính chủ động trong quản lý và sử dụng TSLĐ của mình.
- Nguồn vốn bên ngoài doanh nghiệp: là nguồn vốn doanh nghiệp có thể
huy động từ bên ngoài, gồm: vốn của bên liên doanh, vốn vay các ngân hàng
thương mại, tổ chức tín dụng, vốn vay thông qua phát hành trái phiếu, nợ người
cung cấp, nợ khách hàng và các khoản nợ khác.., qua việc vay vốn từ bên ngoài
tạo cho doanh nghiệp có một cơ cấu tài chính linh hoạt, mặt khác có thể làm gia
Vũ Quang Hoà - TCDN 42A 10
tăng doanh lợi vốn chủ sở hữu nhanh nếu mức doanh lợi tổng vốn đạt được cao
hơn chi phí sử dụng vốn .
1.2. hiệu quả sử dụng tài sản lưu động ở doanh nghiệp trong nền kinh tế thị
trường.
1.2.1. Quan điểm về hiệu quả sử dụng tài sản lưu động ở doanh nghiệp
Hiện nay có rất nhiều quan điểm về hiệu quả sử dụng tài sản lưu động
trong doanh nghiệp. Trong khuôn khổ chuyên đề này chúng ta đứng trên quan
điểm nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản lưu động tức là làm sao để chỉ phải bỏ ra
một lượng tài sản nhỏ nhất mà thu về được lợi nhuận lớn nhất.
Trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển thì
vấn đề sống còn doanh nghiệp cần quan tâm là tính hiệu quả. Chỉ khi hoạt động
sản xuất kinh doanh có hiệu quả doanh nghiệp mới có thể tự trang trải chi phí đã
bỏ ra, làm nghĩa vụ với ngân sách Nhà nước và quan trọng hơn là duy trì và phát
triển quy mô hoạt động sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp. Hiệu quả kinh
tế là kết quả tổng hợp của một loạt các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả của các yếu tố
bộ phận. Trong đó, hiệu quả sử dụng tài sản lưu động gắn liền với lợi ích của
doanh nghiệp cũng như hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Do đó
các doanh nghiệp phải luôn tìm mọi biện pháp để nâng cao hiệu quả sử dụng tài
sản lưu động.
Hiệu quả sử dụng tài sản lưu động có vai trò quan trọng trong việc đánh
giá hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp, bởi khác với tài sản cố định, tài sản
lưu động cần các biện pháp linh hoạt, kịp thời phù hợp với từng thời điểm thì
mới đem lại hiệu quả cao. Hiệu quả sử dụng tài sản lưu động là một trong những
căn cứ đánh giá năng lực sản xuất, chính sách dự trữ tiêu thụ sản phẩm của
doanh nghiệp và nó cũng có ảnh hưởng lớn đến kết quả kinh doanh cuối cùng
của doanh nghiệp.
Có thể nói rằng mục tiêu lâu dài của mỗi doanh nghiệp là tối đa hoá lợi
nhuận. Việc quản lý sử dụng tốt tài sản lưu động sẽ góp phần giúp doanh nghiệp
Vũ Quang Hoà - TCDN 42A 11
thực hiện được mục tiêu đã đề ra. Bởi vì quản lý tài sản lưu động không những
đảm bảo sử dụng tài sản lưu động hợp lý, tiết kiệm mà còn có ý nghĩa đối với
việc hạ thấp chi phí sản xuất, thúc đẩy việc tiêu thụ sản phẩm và thu tiền bán
hàng, từ đó sẽ làm tăng doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp.
Tóm lại, hiệu quả sử dụng tài sản lưu động của doanh nghiệp có thể hiểu
là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ khai thác và quản lý tài sản lưu động
của doanh nghiệp, đảm bảo lợi nhuận tối đa với số lượng tài sản lưu động sử
dụng với chi phí thấp nhất. Nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản lưu động là yêu
cầu tất yếu khách quan của mỗi doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Mặc
dù hầu hết các vụ phá sản trong kinh doanh là hệ quả của nhiều yếu tố, chứ
không phải chỉ đơn thuần do quản trị tài sản lưu động tồi. Nhưng cũng cần thấy
rằng sự bất lực của một số doanh nghiệp trong việc hoạch định và kiểm soát một
cách chặt chẽ các loại tài sản lưu động hầu như là một nguyên nhân dẫn đến thất
bại cuối cùng của họ.
1.2.2. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản lưu động ở
doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường
Để có thể tiến hành sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp cần phải có
một lượng tài sản nhất định và nguồn tài trợ tương ứng, không có tài sản sẽ
không có bất kỳ hoạt động sản xuất kinh doanh nào. Song việc sử dụng tài sản
như thế nào cho có hiệu quả cao mới là nhân tố quyết định cho sự tăng trưởng và
phát triển của doanh nghiệp.Với ý nghĩa đó, việc quản lý, sử dụng và nâng cao
hiệu quả sử dụng tài sản nói chung và TSLĐ nói riêng là một nội dung rất quan
trọng của công tác quản lý tài chính doanh nghiệp. Quan niệm về tính hiệu quả
của việc sử dụng TSLĐ phải được hiểu trên hai khía cạnh:
+ Một là, với số tài sản hiện có có thể sản xuất thêm một số lượng sản
phẩm với chất lượng tốt, giá thành hạ để tăng thêm lợi nhuận cho doanh nghiệp.
+ Hai là, đầu tư thêm tài sản một cách hợp lý nhằm mở rộng quy mô sản
xuất để tăng doanh thu tiêu thụ với yêu cầu đảm bảo tốc độ tăng lợi nhuận phải
lớn hơn tốc độ tăng tài sản.
Vũ Quang Hoà - TCDN 42A 12
Hai khía cạnh này chính là mục tiêu cần đạt được trong công tác tổ chức
quản lý và sử dụng tài sản nói chung và TSLĐ nói riêng .
Trước đây, khi nền kinh tế nước ta còn trong thời kỳ bao cấp, mọi nhu cầu
vốn,tài sản cho sản xuất kinh doanh củ