Vốn luôn là một trong những yếu tố đầu vào cơ bản của quá trình hoạt động kinh doanh của mỗi doanh nghiệp. Chúng ta cần khẳng định rằng không thể thực hiện được các mục tiêu kinh tế xã hội nói chung của Nhà nước, cũng như các mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp nói riêng nếu như không có vốn. Đối với các NHTM với tư cách là một doanh nghiệp, một chế tài trung gian hoạt động trong lĩnh vực tiền tệ thì vốn lại có một vai trò hết sức quan trọng. NHTM là đơn vị chủ yếu cung cấp vốn. Nhưng để cung cấp đủ vốn đáp ứng nhu cầu thị trường, ngân hàng sẽ phải huy động vốn từ các nguồn khác nhau trong xã hội. Bằng lượng vốn huy động được trong xã hội thông qua hoạt động huy động vốn, NHTMCP Đầu tư và Phát triển đã cung cấp một lượng vốn lớn cho mọi hoạt động kinh tế, đáp ứng các nhu cầu vốn một cách nhanh chóng, kịp thời cho quá trình tái sản xuất. Do vậy trong thời gian tới, để phát huy hơn nữa vai trò của mình và đồng thời đáp ứng cho sự phát triển chung của nền kinh tế cũng như cho chính bản thân hệ thống ngân hàng thì việc huy động vốn cho kinh doanh trong tương lai chắc chắn sẽ được đặt lên hàng đầu đối với hệ thống NHTMCP Đầu tư và Phát triển (BIDV).
92 trang |
Chia sẻ: superlens | Lượt xem: 1713 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giải pháp tăng cường huy động vốn tại Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh Gia Lai, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài
Vốn luôn là một trong những yếu tố đầu vào cơ bản của quá trình hoạt động kinh doanh của mỗi doanh nghiệp. Chúng ta cần khẳng định rằng không thể thực hiện được các mục tiêu kinh tế xã hội nói chung của Nhà nước, cũng như các mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp nói riêng nếu như không có vốn. Đối với các NHTM với tư cách là một doanh nghiệp, một chế tài trung gian hoạt động trong lĩnh vực tiền tệ thì vốn lại có một vai trò hết sức quan trọng. NHTM là đơn vị chủ yếu cung cấp vốn. Nhưng để cung cấp đủ vốn đáp ứng nhu cầu thị trường, ngân hàng sẽ phải huy động vốn từ các nguồn khác nhau trong xã hội. Bằng lượng vốn huy động được trong xã hội thông qua hoạt động huy động vốn, NHTMCP Đầu tư và Phát triển đã cung cấp một lượng vốn lớn cho mọi hoạt động kinh tế, đáp ứng các nhu cầu vốn một cách nhanh chóng, kịp thời cho quá trình tái sản xuất. Do vậy trong thời gian tới, để phát huy hơn nữa vai trò của mình và đồng thời đáp ứng cho sự phát triển chung của nền kinh tế cũng như cho chính bản thân hệ thống ngân hàng thì việc huy động vốn cho kinh doanh trong tương lai chắc chắn sẽ được đặt lên hàng đầu đối với hệ thống NHTMCP Đầu tư và Phát triển (BIDV).
BIDV Gia Lai là đơn vị thành viên trực thuộc BIDV đã và đang chú trọng đến chỉ tiêu huy động. Trên địa bàn tỉnh Gia Lai đã có hơn 25 chi nhánh NHTM và hơn 107 phòng giao dịch đã khiến thị trường ngày càng bị thu hẹp điều kiện cạnh tranh đã trở nên gây gắt, thị phần có dấu hiệu giảm sút.
Xuất phát từ những thực tế trên, kết hợp với quá trình thực tập tại NHTMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam- Chi nhánh Gia Lai nên em đã chọn đề tài “Giải pháp tăng cường huy động vốn tại Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam- Chi nhánh Gia Lai” làm đề tài khóa luận của mình.
Mục đích nghiên cứu
- Hệ thống hóa lí thuyết về huy động vốn của Ngân hàng thương mại.
- Phân tích thực trạng công tác huy động vốn qua hình thức nhận tiền gửi tại NHTMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam- Chi nhánh Gia Lai để tìm ra nguyên nhân, hạn chế của những tồn tại từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường kết quả huy động vốn bằng hình thức tiền gửi tại Chi nhánh.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Do hoạt động vốn tại một chi nhánh chịu những giới hạn nhất định và thực tiễn huy động vốn tại BIDV Gia Lai chủ yếu là các hình thức nhận tiền gửi nên đề tài chỉ giới hạn nghiên cứu trong nội dung huy động tiền gửi.
Tình hình huy động vốn tiền gửi tại NHTMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam- Chi nhánh Gia Lai giai đoạn 2011- 2013.
Phương pháp nghiên cứu
Bài khóa luận áp dụng phương pháp luận của duy vật biện chứng, duy vật lịch sử làm cơ sở kết hợp với phương pháp phân tích tổng hợp, thống kê, so sánh kết hợp với sự tìm hiểu thông qua thực tế tại NHTMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam- Chi nhánh Gia Lai.
Kết cấu của đề tài
Khóa luận tốt nghiệp ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về hoạt động huy động vốn của NHTM.
Chương 2: Thực trạng huy động vốn tiền gửi tại Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam- Chi nhánh Gia Lai.
Chương 3: Giải pháp tăng cường huy động vốn tiền gửi tại Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam- Chi nhánh Gia Lai.
Em xin chân thành cảm ơn cô giáo– Th.S Đặng Thị Thơi, cùng các bác, cô chú, anh chị công tác tại Ngân hàng NHTM Đầu tư và Phát triển Việt Nam- Chi nhánh Gia Lai đã tận tình hướng dẫn em trong quá trình thực tập và hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này!
Do chưa có kinh nghiệm thực tế nên bài viết của em còn nhiều thiếu sót rất mong được sự góp ý của các thầy cô, các bác, cô chú, anh chị tại Ngân hàng để bài viết của em được hoàn chỉnh.
Em xin chân thành cảm ơn!
Bình Định, ngày 1 tháng 5 năm 2014.
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Thị Hai
CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Khái quát về huy động vốn của NHTM
1.1.1. Khái niệm huy động vốn
Xuất hiện khá lâu đời và không ngừng phát triển thay đổi cùng với sự phát triển của các ngân hàng thương mại, nội hàm của khái niệm hoạt động huy động vốn đã có những thay đổi rất đáng kể, cả về quy mô và các hình thức thể hiện. Hơn nữa, gần như không tìm được một định nghĩa hoàn thiện về hoạt động này cũng như không có được sự thống nhất hoàn toàn giữa các quan điểm. Đặc biệt, là sự khác biệt trong cách hiểu khi đề cập vấn đề này dưới các khía cạnh khác nhau.
Như vậy, có thể tạm thời đưa ra khái niệm như sau ‘‘Huy động vốn là hoạt động thu hút nguồn tiền nhàn rỗi của các cá nhân, tổ chức kinh tế, xã hội dưới dạng tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi thanh toán, phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu và các giấy tờ có giá khác, tạo nên một nguồn tài chính được ngân hàng sử dụng để kinh doanh sinh lời và trả lại một phần lợi nhuận này cho người gửi thông qua công cụ lãi suất’’
1.1.2. Phân loại huy động vốn
1.1.2.1. Phân loại huy động vốn theo thời gian huy động
Dựa vào thời gian của tiền gửi mà ngân hàng thường chia thành các loại tiền gửi như sau:
Tiền gửi không kì hạn
+ Tiền gửi thanh toán
+ Tiền gửi tiết kiệm không kì hạn
Tiền gửi có kì hạn: (Trả lãi trước, trả lãi sau, trả lãi định kì). Các loại kì hạn thường như sau:
+ Tiền gửi kì hạn 1 tháng
+ Tiền gửi kì hạn 3 tháng
+ Tiền gửi kì hạn 6 tháng
+ Tiền gửi kì hạn 9 tháng
+ Tiền gửi kì hạn 12 tháng
+ Tiền gửi kì hạn 24 tháng
+ Tiền gửi kì hạn 36 tháng
+ Kỳ phiếu 3, 6 ,9 tháng
+ Chứng chỉ tiền gửi
+ Trái phiếu 5, 10 năm
Mục đích của việc phân loại tiền gửi theo kì hạn là phản ánh độ thanh khoản của từng loại tiền nhằm giúp ngân hàng quản lí tốt hơn và đáp ứng nhu cầu để cho vay hiệu quả hơn. Phân loại tiền gửi trên sẽ giúp ngân hàng tiếp cận tốt hơn đối với nhu cầu gửi tiền của khách hàng, thu hút nhiều người có tiền nhàn rỗi hơn đến ngân hàng gửi tiền.
1.1.2.2. Phân loại vốn huy động theo đối tượng huy động
Việc phân loại tiền gửi theo đối tượng khách hàng nhằm giúp cho ngân hàng phục vụ khách hàng tốt hơn, phân đoạn thị trường, đánh giá được tỉ trọng các loại hình khách hàng trong cơ cấu tiền gửi của ngân hàng, qua đó sẽ đề ra được các chính sách đối với từng loại hình khách hàng. Tùy theo từng ngân hàng lại có cách phân loại khác nhau nhưng thường thì các ngân hàng phân loại theo tiền gửi theo đối tượng khách hàng như sau:
+ Tiền gửi TCKT
+ Tiền gửi TCTD
+ Tiền gửi cá nhân
+ Tiền gửi kho bạc
+ Tiền gửi của đối tượng khác
1.1.2.3. Phân loại vốn huy động theo loại tiền
NHTM huy động vốn bằng đồng nội tệ và ngoại tệ. Trong đó đồng nội tệ là chủ yếu (VNĐ), đồng ngoại tệ chủ yếu là đồng ngoại tệ mạnh như USD, EUR, SGD,
Hình thức huy động này có nhiều loại như không kì hạn, có kì hạn, tiền gửi của cá nhân, TCKT, TCTD khác
1.1.3. Tầm quan trọng của nghiệp vụ huy động vốn
1.1.3.1. Đối với nền kinh tế
Ngân hàng là một trung gian tài chính và thông qua hoạt động của mình, ngân hàng đã góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn vốn. Bằng phương thức huy động các nguồn vốn nhỏ lẻ hoặc tạm thời nhàn rỗi của các tầng lớp dân cư để đáp ứng các yêu cầu về sử dụng vốn của các chủ thể có dự án hoặc kế hoạch sử dụng vốn hiệu quả. Sự kết hợp các nghiệp vụ huy động vốn, sử dụng vốn với các dịch vụ trung gian, ngân hàng đã tập hợp và phân bổ các nguồn lực trong nền kinh tế một cách hiệu quả, đồng thời giảm thiểu chi phí vốn cho nền kinh tế. Bởi sự ra đời của ngân hàng đã giảm thiểu chi phí một cách đáng kể, khi ta tưởng tượng không có NHTM nói riêng và các trung gian tài chính nói chung người cho vay sẽ phải tìm gặp người đi vay có nhu cầu vay vốn phù hợp với vốn liếng của mình, sau đó phải thẩm định dự án của người đi vay. Không những thế thông qua kỹ năng hoạt động của ngân hàng cũng đã hạn chế được các vấn đề của thị trường như thông tin không cân xứng, sự lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức.
Mặt khác, thông qua hoạt động huy động vốn của NHTM cũng góp phần hình thành nên tỷ suất lợi nhuận tối thiểu của các doanh nghiệp. Nó buộc các doanh nghiệp phải hoạt động với tỷ suất lợi nhuận lớn hơn so với lãi suất huy động của các ngân hàng; là cơ sở tham chiếu để cá nhân, tổ chức lựa chọn nên tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh hay gửi tiền vào ngân hàng.
Sự phát triển của ngân hàng về quy mô, uy tín, công nghệ, mạng lưới chi nhánh được coi là tấm gương phản ánh sự phát triển kinh tế của một nước. Một nền kinh tế phát triển là ở đó ngành dịch vụ phát triển và một trong những lĩnh vực dịch vụ đi đầu đó là dịch vụ ngân hàng. Huy động vốn là một trong các hoạt động thu hút khách hàng đến với ngân hàng, tạo điều kiện cho khách hàng tiếp xúc, sử dụng các dịch vụ tiện ích của ngân hàng. Điều này không những làm tăng nguồn vốn huy động của ngân hàng mà còn góp phần hình thành nên thói quen, phong cách giao dịch, sử dụng các phương tiện giao dịch, thanh toán hiện đại, nhanh chóng, tiện lợi thông qua các dịch vụ, nghiệp vụ ngân hàng hiện đại.
1.1.3.2. Đối với NHTM
Hoạt động huy động vốn là cơ sở để ngân hàng thực hiện các hoạt động kinh doanh của mình. Nguồn vốn của NHTM bao gồm vốn chủ sở hữu và vốn huy động. Ngân hàng là một trung gian tài chính đi vay để thực hiện kinh doanh thu lợi nhuận. Nguồn vốn huy động là nguồn vốn chủ yếu và quan trọng giúp ngân hàng thực hiện các hoạt động kinh doanh của mình. Quy mô, cơ cấu vốn huy động sẽ trực tiếp quyết định đến quy mô và cơ cấu tín dụng của NHTM. Các ngân hàng không thể cho vay dài hạn với quy mô lớn trong khi vốn huy động nhỏ và thời hạn ngắn.
Thông qua hoạt động huy động vốn cũng thể hiện uy tín, quy mô, sức cạnh tranh của NHTM trên thị trường. Bởi vốn huy động trên tổng nguồn vốn là một trong những chỉ tiêu đánh giá khả năng cạnh tranh của ngân hàng. Một ngân hàng có nguồn vốn ngày càng gia tăng (đặc biệt là vốn dài hạn) khẳng định uy tín và sức cạnh tranh của mình. Khách hàng có tin tưởng mới gửi tiền vào ngân hàng và nguồn vốn gia tăng thể hiện ngân hàng đó có vị thế trên thị trường. Và điều này cũng sẽ tạo điều kiện tốt cho ngân hàng trong các lĩnh vực khác như nghiệp vụ cho vay, phát triển các sản phẩm mới,
Huy động vốn giúp tăng cường mở rộng mối quan hệ giữa ngân hàng với ngân hàng và với các tổ chức tài chính khác trong nền kinh tế. Sự liên kết, điều hòa vay mượn các nguồn vốn lẫn nhau sẽ làm gia tăng vòng quay của đồng tiền, tăng hiệu quả sử dụng vốn trong nền kinh tế. Các ngân hàng dư thừa vốn tạm thời sẽ có cơ hội cho các ngân hàng thiếu vốn tạm thời vay để lấy lãi. Không những thế nhận thức được tầm quan trọng của nghiệp vụ huy động vốn trong hoạt động kinh doanh của mình các ngân hàng có thể liên kết, thỏa thuận với nhau mức lãi suất trần, sàn các phương thức huy động để tránh xảy ra các cuộc chạy đua về lãi suất, các cuộc cạnh tranh gây thiệt hại về kinh tế lẫn nhau.
1.1.3.3. Đối với khách hàng
Nghiệp vụ huy động vốn cung cấp cho khách hàng một kênh tiết kiệm và đầu tư nhằm làm cho tiền của họ sinh lợi, tạo cơ hội cho họ có thể gia tăng tiêu dùng trong tương lai. Nghiệp vụ huy động vốn còn cung cấp cho khách hàng một nơi an toàn để cất trữ và tích lũy nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi. Mặt khác, nghiệp vụ huy động giúp cho khách hàng có cơ hội tiếp cận với các dịch vụ khác của ngân hàng như dịch vụ thanh toán qua ngân hàng, dịch vụ tín dụng khi khách hàng cần vốn cho sản xuất, kinh doanh hoặc cần tiền cho tiêu dùng.
Tóm lại, hoạt động huy động vốn là cơ sở, tiền đề nó tạo ra nguồn vốn cho hoạt động kinh doanh của NHTM. Nó tác động không chỉ cho vay, đầu tư và các nghiệp vụ kinh doanh khác của NHTM mà còn ảnh hưởng sâu sắc đến nền kinh tế quốc dân. Nguồn vốn huy động của NHTM gia tăng thể hiện sự tích lũy tập trung vốn đạt hiệu quả cao tạo điều kiện để phát triển kinh tế đất nước. Nhưng điều này sẽ hạn chế việc phát triển các cơ sở sản xuất, kinh doanh của tư nhân. Lãi suất gia tăng sẽ thúc đẩy nguồn vốn huy động gia tăng nhưng sẽ hạn chế đầu tư dân cư. Như vậy có thể nói huy động vốn phù hợp với mục tiêu kinh doanh của ngân hàng và đáp ứng được nhu cầu phát triển của nền kinh tế thực sự là một vấn đề quan trọng không chỉ đối với các nhà ngân hàng mà còn đối với các nhà hoạch định chính sách phát triển kinh tế của quốc gia.
1.2. Các nghiệp vụ huy động vốn của NHTM
Huy động vốn là nghiệp vụ cơ bản của NHTM nhằm thu hút vốn từ bên ngoài phục vụ cho hoạt động kinh doanh. Thông qua nghiệp vụ này sẽ hình thành nên nguồn vốn kinh doanh cho ngân hàng.
Ngoài lợi nhuận giữ lại, phát hành cổ phiếu Ngân hàng thường huy động những nguồn vốn sau:
1.2.1. Huy động vốn qua tài khoản tiền gửi
Là nguồn vốn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn và có vai trò chủ yếu trong hoạt động kinh doanh của NHTM bao gồm:
Tiền gửi thanh toán
Đây là khoản tiền của khách hàng gửi vào ngân hàng để nhờ ngân hàng giữ và thanh toán hộ. Ngân hàng mở tài khoản tiền gửi thanh toán cho khách hàng. Yêu cầu của ngân hàng là khách hàng phải có tiền và chỉ thanh toán trong phạm vi số dư. Các nhu cầu chi trả hợp pháp của khách hàng đều được ngân hàng thực hiện. Các khoản thu bằng tiền của khách hàng đều có thể được nhập vào tài khoản tiền gửi thanh toán theo yêu cầu. Ngân hàng cung cấp nhiều tiện ích gắn với tiền gửi thanh toán như thu hộ, chi hộ, phát séc, chuyển tiền, phát hành thẻ,
Nhìn chung, lãi suất của khoản tiền này rất thấp (hoặc bằng không) thay vào đó chủ tài khoản có thể được hưởng các dịch vụ ngân hàng với mức phí thấp.
Ngân hàng thu lợi từ phí thanh toán, hoặc rút tiền, phí mở thẻ,Hơn nữa, ngân hàng còn sử dụng số dư tiền gửi thanh toán của khách hàng cho nhu cầu dự trữ của mình và sử dụng một phần số dư tiền gửi thanh toán để cho vay (tạo nên doanh thu từ lãi).
Để huy động được nhiều tiền gửi thanh toán, ngân hàng áp dụng nhiều biện pháp. Quan trọng nhất là khả năng thanh toán nhanh, chính xác, an toàn và rẻ. Mạng lưới rộng cả trong nước và quốc tế, công nghệ hiện đại, kĩ năng của nhân viên là những đòi hỏi nhằm đáp ứng yêu cầu thanh toán của khách hàng. Đó cũng là chi phí lớn mà ngân hàng phải bỏ ra khi cung cấp dịch vụ thanh toán. Bên cạnh đó là khả năng cho vay, cung cấp ngoại tê bởi vì khách hàng (đặt biệt là doanh nghiệp) khi mở tài khoản thanh toán tại ngân hàng đều hướng tới nhu cầu vay mượn, thanh toán quốc tế.
Với khách hàng cá nhân, dịch vụ thanh toán 24/24h, mọi lúc, mọi nơi, an toàn là yêu cầu hàng đầu. Ngân hàng bỏ ra chi phí đầu tư rất lớn để lắp đặt ATM, thuê địa điểm mở phòng giao dịch, phát triển dịch vụ ngân hàng điện tử.
Ngân hàng kết hợp tài khoản tiền gửi thanh toán với tài khoản cho vay (thấu chi- chi trội trên số dư có cả tài khoản tiền gửi thanh toán) đối với một số khách hàng. [1,Tr 38-39]
Tiền gửi có kỳ hạn
Nhiều khoản thu bằng tiền của doanh nghiệp và các tổ chức xã hội sẽ được chi trả sau một thời gian nhất định. Tiền gửi thanh toán tuy rất thuận tiện cho hoạt động thanh toán song lãi suất rất thấp. Để đáp ứng nhu cầu của người gửi tiền, ngân hàng đã đưa ra hình thức tiền gửi có kì hạn. Người gửi không được sử dụng các hình thức thanh toán đối với tiền gửi thanh toán để áp dụng đối với loại tiền gửi này. Nếu cần chi tiêu, người gửi phải đến ngân hàng để rút tiền ra. Tuy không thuận lợi cho tiêu dùng bằng hình thức tiền gửi thanh toán, song tiền gửi có kì hạn được hưởng lãi suất cao hơn tùy theo độ dài của kì hạn. Để mở rộng khoản vốn này, ngoài biện pháp lãi suất ngân hàng có thể thực hiện một số biện pháp nhằm tạo nên tính lỏng cho loại tiền gửi có kỳ hạn như cho phép khách hàng rút trước hạn hoặc xổ số trúng thưởng,...
Song đối với các khoản tiền gửi khách hàng rút ra trước hạn, ngân hàng thường áp dụng lãi suất của kỳ hạn ngắn hơn hoặc lãi suất của tiền gửi không kỳ hạn. Khách hàng gửi tiền có kỳ hạn nhìn chung không được phát hành séc hoặc sử dụng dịch vụ ngân hàng từ tài khoản này. Ngân hàng được toàn quyền sử dụng lượng vốn này trong thời hạn khách hàng gửi tiền nên hiệu quả sử dụng nguồn vốn này là rất cao. Tuy nhiên chi phí huy động của loại vốn này lại khá đắt vì lãi suất huy động cao hơn lãi suất tiền gửi không kỳ hạn. [1,Tr 39-40]
Tiền gửi tiết kiệm
Các tầng lớp dân cư đều có các khoản thu nhập tạm thời chưa sử dụng cho tiêu dùng cá nhân (các khoản tiền tiết kiệm). Các cá nhân đều tìm các cơ hội để bảo toàn và gia tăng sinh lời trên tiền tiết kiệm của mình. Các hình thức đầu tư như gửi tiết kiệm, mua chứng khoán chính phủ hoặc công ty, mua vàng, bất động sản hoặc ngoại tệ mạnh. Một số người sử dụng cho vay trong các hội, cho vay người thân với lãi suất cao hơn gửi vào ngân hàng.
Trong điều kiện có khả năng tiếp cận với ngân hàng, họ đều có thể gửi tiết kiệm nhằm thực hiện các mục tiêu an toàn và sinh lời đối với các khoản tiết kiệm, đặc biệt là nhu cầu bảo toàn. Ngân hàng mở cho mỗi người tiết kiệm nhiều trương mục tiết kiệm (hoặc là sổ tiết kiệm) cho mỗi kì hạn và cho mỗi lần gửi khác nhau. Nhằm thu hút ngày càng nhiều tiền tiết kiệm, các ngân hàng đều cố gắng khuyến khích dân cư thay đổi thói quen giữ vàng và tiền mặt tại nhà bằng cách mở rộng mạng lưới huy động, đưa ra các hình thức huy động đa dạng và lãi suất cạnh tranh hấp dẫn. Sổ tiết kiệm này không được dùng để thanh toán tiền hàng và dịch vụ song có thể cầm cố để vay vốn nếu được ngân hàng chấp nhận.
Ngân hàng thực hiện nhiều biện pháp chăm sóc khách hàng, đặc biệt đối với khách hàng có tiền gửi lớn (khuyến mại, tư vấn đầu tư, kết nối với tài khoản tiền gửi thanh toán,).
Ngân hàng nghiên cứu khả năng tiết kiệm của dân cư của từng vùng, từng thời kì, ảnh hưởng của lạm phát, biến động của tỉ giá, các kênh đầu tư khác ảnh hưởng tới tiết kiệm như đầu tư vào vàng, ngoại tệ, chứng khoán, để đưa ra chính sách huy động tiết kiệm phù hợp. [1,Tr 40-41
Ở Việt Nam hình thức gửi tiền tiết kiệm phổ biến là:
Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn: Là loại mà khách hàng có thể gửi nhiều lần và rút ra bất cứ lúc nào, ngân hàng trả lãi theo số dư bình quân hàng tháng nhân với lãi suất, lãi được nhập gốc hàng tháng.
Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn: Là loại tiền gửi được rút gốc và lãi sau một thời gian nhất định. Tuy nhiên nếu khách hàng có nhu cầu rút trước thời hạn có thể được đáp ứng nhưng phải chịu lãi suất thấp. Nếu đến hạn người gửi không có nhu cầu sử dụng thì ngân hàng tự động nhập lãi vào gốc và tiếp tục được hưởng lãi kỳ tiếp theo.
Tiền gửi tiết kiệm có mục đích: Thường là hình thức tiết kiệm trung và dài hạn, người tham gia ngoài việc được ngân hàng trả lãi còn được ngân hàng cấp tín dụng nhằm mục đích bổ sung thêm vốn để mua sắm các phương tiện phục vụ nhu cầu tiêu dùng.
Tiền gửi của các ngân hàng khác
Nhằm mục đích nhờ thanh toán hộ và một số mục đích khác, NHTM này có thể gửi tiền tại ngân hàng khác. Tuy nhiên, quy mô nguồn tiền này không lớn. [1,Tr 42]
Đặc điểm chung của nguồn tiền gửi là phải được thanh toán khi khách hàng yêu cầu ngay cả khi đó là tiền gửi có kỳ hạn nhưng chưa đến hạn. Quy mô của tiền gửi rất lớn so với các nguồn khác. Thông thường nguồn này chiếm 65 -70% tổng nguồn vốn và được huy động thường xuyên. Là đối tượng phải dự trữ bắt buộc, do vậy chi phí tiền gửi thường cao hơn lãi trả cho tiền gửi. Ở nhiều nước, ngân hàng phải mua bảo hiểm cho tiền gửi. Tiền gửi đặc biệt là tiền gửi ngắn hạn thường nhạy cảm với các biến động về lãi suất, tỷ giá, thu nhập, chu kỳ chi tiêu,Việc huy động tiền gửi chịu sự ảnh hưởng của các yếu tố như địa điểm ngân hàng, mạng lưới chi nhánh và quầy tiết kiệm, phương thức huy động, các dịch vụ tiện ích của ngân hàng,
1.2.2. Huy động vốn qua phát hành giấy tờ có giá
Huy động vốn qua phát hành giấy tờ có giá Ngân hàng chủ động phát hành các loại chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, trái phiếu ngân hàng để huy động vốn nhằm thực hiện các dự án đầu tư đã định. Thông thường đây là những khoản vay không có tài sản đảm bảo. Những ngân hàng có uy tín hoặc trả lãi cao sẽ vay mượn nhiều hơn. Các ngân hàng nhỏ thường khó vay mượn trực tiếp bằng cách này. Khả năng vay mượn còn phụ thuộc vào trình độ phát triển của thị trường tài chính, tạo khả năng chuyển đổi cho các công cụ nợ dài hạn của ngân hàng. Ngân hàng cần nghiên cứu kĩ thị trường để quyết định quy mô, mệnh giá, lãi suất và thời hạn vay mượn thích hợp. Việc huy động vốn dưới hình thức phát hành chứng từ có giá được thực hiện theo ba phương thức: phát hành theo mệnh giá (trả lãi