Sau 20 tiếp nhận nguồn vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài, nền kinh tế Việt
Nam đã có những bước đi khởi sắc. Cơ cấu các ngành kinh tế đã có những sự
chuyển dịch tích cực mang tính thị trường. Từ khi nguồn vốn FDI được thu
hút đầu tư Việt Nam các ngành kinh tế đã được đầu tư thích đáng, thúc đẩy
nhanh công cuộc Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá. Thuỷ sản cũng là một trong
số ngành đó. Sau những năm đổi mới. Thuỷ sản Việt Nam đã có những bước
đi khẳng định mình trong nền kinh tế Việt Nam cũng như trong nền kinh tế
thế giới. Tuy còn nhiều bất cập và yếu kém về nhiều mặt nhưng Thuỷ sản
Việt Nam cũng đã vươn lên đứng vị trí thứ 10 trong các nước xuất khẩu Thuỷ
sản.
Và đặc biệt hơn sau khi Việt Nam ra nhập WTO thì cơ hội cho ngành Thuỷ
sản càng được nâng cao hơn. Khi các nhà đầu tư liên tục đăng ký vốn đầu tư
vào Việt Nam. Mặc dù vậy, ngành Thuỷ sản hầu như vẫn chưa được quan tâm
tương xứng với tiềm năng sẵn có, lượng vốn đầu tư vào ngành chiếm một tỷ
lệ rất nhở so với lượng vốn đầu tư cho Nông nghiệp.
Với tính cần thiết và cấp bách của vấn đề, Tôi đã chọn đề tài : “ Giải pháp
thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực Thuỷ sản của Việt
Nam thời kỳ hậu WTO” làm đề tài cho chuyên đề thực tập của mình.
65 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 1917 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giải pháp thu hút vốn đầu tưtrực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực Thuỷ sản của Việt Nam thời kỳ hậu WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Giải pháp thu hút vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài vào lĩnh vực Thuỷ
sản của Việt Nam thời kỳ hậu WTO
A-LỜI MỞ ĐẦU
Sau 20 tiếp nhận nguồn vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài, nền kinh tế Việt
Nam đã có những bước đi khởi sắc. Cơ cấu các ngành kinh tế đã có những sự
chuyển dịch tích cực mang tính thị trường. Từ khi nguồn vốn FDI được thu
hút đầu tư Việt Nam các ngành kinh tế đã được đầu tư thích đáng, thúc đẩy
nhanh công cuộc Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá. Thuỷ sản cũng là một trong
số ngành đó. Sau những năm đổi mới. Thuỷ sản Việt Nam đã có những bước
đi khẳng định mình trong nền kinh tế Việt Nam cũng như trong nền kinh tế
thế giới. Tuy còn nhiều bất cập và yếu kém về nhiều mặt nhưng Thuỷ sản
Việt Nam cũng đã vươn lên đứng vị trí thứ 10 trong các nước xuất khẩu Thuỷ
sản.
Và đặc biệt hơn sau khi Việt Nam ra nhập WTO thì cơ hội cho ngành Thuỷ
sản càng được nâng cao hơn. Khi các nhà đầu tư liên tục đăng ký vốn đầu tư
vào Việt Nam. Mặc dù vậy, ngành Thuỷ sản hầu như vẫn chưa được quan tâm
tương xứng với tiềm năng sẵn có, lượng vốn đầu tư vào ngành chiếm một tỷ
lệ rất nhở so với lượng vốn đầu tư cho Nông nghiệp.
Với tính cần thiết và cấp bách của vấn đề, Tôi đã chọn đề tài : “ Giải pháp
thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực Thuỷ sản của Việt
Nam thời kỳ hậu WTO” làm đề tài cho chuyên đề thực tập của mình.
Do hạn chế về kiến thức, thời gian và số liệu nên bài viết này Tôi không tránh
khỏi những thiếu sót. Mong được sự góp ý của Thày giáo TS. Nguyễn Ngọc
Sơn và các bạn để hoàn thiện chuyên đề thực tập của Tôi.
Tôi xin chân thành cảm ơn TS. Nguyễn Ngọc Sơn và các cán bộ phòng Nông
– Lâm – Ngư nghiệp Cục đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã giúp
đỡ Tôi hoàn thành chuyên đề thực tập này.
B - NỘI DUNG
CHƯƠNG I : CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ FDI VÀ SỰ CẦN THIẾT
THU HÚT FDI VÀO NGÀNH THUỶ SẢN.
I : CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ FDI
1. Khái niệm về FDI.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI = Foreign Direct Investment) là hình thức
đầu tư dài hạn của cá nhân hay công ty nước này vào nước khác bằng cách
thiết lập cơ sở sản xuất, kinh doanh. Cá nhân hay công ty nước ngoài đó sẽ
nắm quyền quản lý cơ sở sản xuất kinh doanh này.
Theo quỹ tiền tệ quốc tế IMF, FDI được định nghĩa là “một khoản đầu tư với
những quan hệ lâu dài, theo đó một tổ chứ trong một nền kinh thế (nhà đầu tư
trực tiếp) thu được lợi ích lâu dài từ một doanh nghiệp đặt tại một nền kinh tế
khác. Mục đích của nhà đầu tư trực tiếp là muốn có nhiều ảnh hưởng trong
việc quản lý doanh nghiệp đặt tại nền kinh tế khác đó. Hội nghị Liên Hợp
Quốc về TM và Phát triển UNCTAD cũng đưa ra một doanh nghiệp về FDI.
Theo đó, luồng vốn FDI bao gồm vốn được cung cấp (trực tiếp hoặc thông
qua các công ty liên quan khác) bởi nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài cho các
doanh nghiệp FDI, hoặc vốn mà nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài nhận được từ
doanh nghiệp FDI. FDI gồm có ba bộ phận : vốn cổ phần, thu nhập tái đầu tư
và các khoản vay nợ trong nội bộ công ty. Các nhà kinh tế quốc tế định nghĩa
: đầu tư trực tiếp nước ngoài là người sở hữu tại nước này mua hoặc kiểm soát
một thực thể kinh tế của nước khác. Đó là một khoản tiền mà nhà đầu tư trả
cho một thực thể kinh tế của nước ngoài để có ảnh hưởng quyết định đổi với
thực thể kinh tế ấy hoặc tăng thêm quyền kiểm soát trong thực thể kinh tế ấy.
Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987 đưa ra khái niệm: “Đầu tư
trực tiếp nước ngoài là việc tổ chức, cá nhân nước ngoài đưa vào Việt Nam
vốn bằng tiền nước ngoái hoặc bất kì tài sản nào được chính phủ Việt Nam
chấp thuận để hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hoặc thành lập xí
nghiệp liên doanh hoặc doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài theo quy định
của luật này.
Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) đưa ra khái niệm: “ một doanh
nghiệp đầu tư trực tiếp là một DN có tư cách pháp nhân hoặc không có tư
cách pháp nhân trong đó nhà đầu tư trực tiếp sở hữu ít nhất 10% cổ phiếu
thường hoặc có quyền biểu quyết. Điểm mấu chốt của đầu tư trực tiếp là chủ
định thực hiện quyền kiểm soát công ty”. Tuy nhiên không phải tất cả các QG
nào đều sử dụng mức 10% làm mốc xác định FDI. Trong thực tế có những
trường hợp tỷ lệ sở hữu tài sản trong doanh nghiệp của chủ đầu tư nhỏ hơn
10% nhưng họ vẫn được quyền điều hành quản lý doanh nghiệp, trong khi
nhiều lúc lớn hơn nhưng vẫn chỉ là người đầu tư gián tiếp
Tổ chức Thương mại Thế giới đưa ra Định nghĩa như sau về FDI :Đầu tư trực
tiếp nước ngoài (FDI) xảy ra khi một nhà đầu tư từ một nước (nước chủ đầu
tư) có được một tài sản ở một nước khác (nước thu hút đầu tư) cùng với
quyền quản lý tài sản đó. Phương diện quản lý là thứ để phân biệt FDI với
các công cụ tài chính khác. Trong phần lớn trường hợp, cả nhà đầu tư lẫn tài
sản mà người đó quản lý ở nước ngoài là các cơ sở kinh doanh. Trong những
trường hợp đó, nhà đầu tư thường hay được gọi là "công ty mẹ" và các tài
sản được gọi là “ công ty con hay chi nhánh công ty”. ( Nguồn Cục đầu tư
nước ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư)
Từ những khái niệm trên có thể hiểu một cách khái quát về đầu tư trực tiếp
nước ngoài như sau: “đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI tại một quốc gia là việc
nhà đầu tư ở một nước khác đưa vốn bằng tiền hoặc bất kì tài sản nào vào
quốc gia đó để có được quyền sở hữu và quản lý hoặc quyền kiểm soát một
thực thể kinh tế tại quốc gia đó, với mục tiên tối đa hoá lợi ích của mình”.
Tài sản trong khái niệm này, theo thông lệ quốc tế, có thể là tài sản hữu hình
(máy móc, thiết bị, quy trình công nghệ, bất động sản, các loại hợp đồng và
giấy phép có giá trị …), tài sản vô hình (quyền sở hữu tí tuệ, bí quyết và kinh
nghiệm quản lý…) hoặc tài sản tài chính (cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu, giấy
ghi nợ…). Như vậy FDI bao giờ cũng là một dạng quan hệ kinh tế có nhân tố
nước ngoài. Hai đặc điểm cơ bản của FDI là: có sự dịch chuyển tư bản trong
phạm vi quốc tế và chủ đầu tư (pháp nhân, thể nhân) trực tiếp tham gia vào
hoạt động sử dụng vốn và quản lý đối tượng đầu tư.
2. Các hình thức FDI.
2.1. Doanh nghiệp liên doanh :
Doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài gọi tắt là liên doanh là hình thức
được sử dụng rộng rãi nhất của đầu tư trực tiếp nước ngoài trên thế giới từ
trước đến nay. Nó công cụ để thâm nhập vào thị trường nước ngoài một cách
hợp pháp và có hiệu quả thông qua hoạt động hợp tác.
Khái niệm liên doanh là một hình thức tổ chức kinh doanh có tính chất quốc
tế, hình thành từ những sự khác biệt giữa các bên về quốc tịch, quản lý, hệ
thống tài chính, luật pháp và bản sắc văn hoá; hoạt động trên cơ sở sự đóng
góp của các bên về vốn, quản lí lao động và cùng chịu trách nhiệm về lợi
nhuận cũng như rủi ro có thể xảy ra; hoạt động của liên doanh rất rộng, gồm
cả hoạt động sản xuất kinh doanh, cung ứng dịch vụ, hoạt động nghiên cứu cơ
bản và nghiên cứu triển khai.
Đối với nước tiếp nhận đầu tư :
Ưu điểm : giúp giải quyết tình trạng thiếu vốn, giúp đa dạng hoá sản phẩm,
đổi mới Công nghệ, tạo ra thị trường mới và tạo cơ hội cho người lao động
làm việc và học tập kinh nghiệm quản lý của nước ngoài.
Nhược điểm: mất nhiều thời gian thương thảo vác vấn đề liên quan đến dự án
đầu tư, thường xuất hiện mẫu thuẫn trong quản lý điều hành doanh nghiệp;
đối tác nước ngoài thương quan tâm đến lợi ích toàn cầu, vì vậy đôi với liên
doanh phải chịu thua thiệt vì lợi ích ở nơi khác.; thay đổi nhân sự ở công ty
mẹ có ảnh hưởng tới tương lai phát triển của liên doanh.
Đối với nhà đầu tư nước ngoài :
Ưu điểm: tận dụng được hệ thống phân phối có sẵn của đối tác nước sở tại;
được đầu tư vào những lĩnh vực kinh doanh dễ thu lời, lình vực bị cấm hoặc
hạn chế đối với hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài; thâm nhập
được những thị trường truyền thống của nước chủ nhà. Không mất thời gian
và chi phí cho việc nghiên cứu thị trường mới và xây dựng các mối quan hệ.
Chia sẻ được chi phí và rủi ro đầu tư.
Nhược điểm: khác biệt về nhìn nhận chi phí đầu tư giữa hai bên đối tác; mất
nhiều thời gian thương thảo mọi vấn đề liên quan đến dự án đầu tư, định giá
tài sản góp vốn giải quyết việc làm cho người lao động của đối tác trong
nước; không chủ động trong quản lý điều hành doanh nghiệp, dễ bị mất cơ hội
kinh doanh khó giải quyết khác biệt về tập quán, văn hóa.
2.2. Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài cũng là một hình thức doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài nhưng ít phổ biến hơn hình thức liên doanh trong hoạt
động đầu tư quốc tế.
Khái niệm doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là một thực thể kinh doanh có
tư cách pháp nhân, được thành lập dựa trên các mục đích của chủ đầu tư và
nước sở tại.
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài hoạt động theo sự điều hành quản lý của
chủ đầu tư nước ngoài nhưng vẫn phải tuỳ thuộc vào các điều kiện về môi
trường kinh doanh của nước sở tại, đó là các điều kiện về chính trị, kinh tế,
luật pháp, văn hóa, mức độ cạnh tranh…
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài có tư cách pháp nhân là 1 thự thể pháp
lý độc lập hoạt động theo luật pháp nước sở tại. Thành lập dưới dạng công ty
trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần.
Đối với nước tiếp nhận :
Ưu điểm: Nhà nước thu được ngay tiền thuê đất, tiền thuế mặc dù DN bị lỗ;
giải quyết được công ăn việc làm mà không cần bỏ vốn đầu tư; tập trung thu
hút vốn và công nghệ của nước ngoài vào những linh vực khuyến khích xuất
khẩu; tiếp nhận được thị trường nước ngoài.
Nhược điểm : Khó tiếp thu kinh nghiệm quản lý và công nghệ nước ngoài đê
nâng cao trình độ cán bộ quản lý, cán bộ kĩ thuật ở các doanh nghiệp trong
nước.
Đối với nhà đầu tư nước ngoài :
Ưu điểm: chủ động trong quản lý điều hành doanh nghiệp thực hiện được
chiến lược toàn cầu của tập đoàn; triển khai nhanh dự án đầu tư; được quyền
chủ động tuyển chọn và đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển
chung của tập đoàn.
Nhược điểm: chủ đầu tư phải chịu toàn bộ rủi ro trong đầu tư; phải chi phí
nhiều hơn cho nghiên cứu tiếp cận thị trường mới; không xâm nhập được vào
những lĩnh vực có nhiều lợi nhuận thị trường trong nước lớn, khó quan hệ với
các cơ quan quản lý Nhà nước sở tại.
2.3. Hình thức hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đòng hợp tắc kinh
doanh.
Hình thức này là hình thức đầu tư trong đó các bên quy trách nhiệm và phân
hia kết quả kinh doanh cho mỗi bên để tiến hành đầu tư kinh doanh mà không
thành lập pháp nhân mới.
Hợp đồng hợp tác kinh doanh là văn bản được kí kết giữa đại diện có thẩm
quyền của các bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh, quy định rõ việc
thực hiện phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên
Đặc điểm là các bên kí kết hợp đồng hợp tác kinh doanh, trong quá trình kinh
doanh các bên hợp doanh có thể thành lập ban điều phối để theo dõi, giám sát
việc thực hiện hợp đồng hợp tác kinh doanh. Phân chia kết quả kinh doanh:
hình thức hợp doanh không phân phối lợi nhuận và chia sẻ rủi ro mà phân
chia kết quả kinh doanh chung theo tỷ lệ góp vốn hoặc theo thoả thuận giữa
các bên. Các bên hợp doanh thực hiện nghĩa vụ tài chính đối với nhà nước sở
tại một cách riêng rẽ. Pháp lý hợp doanh là một thực thể kinh doanh hoạt
động theo luật pháp nước sở tại chịu sự điều chỉnh của pháp luật nước sở tại.
quyền lợi và nghĩa vụ của các bên hợp doanh được ghi trong hợp đồng hợp
tắc kinh doanh.
Đối với nước tiếp nhận :
Ưu điểm: giúp giải quyết tình trạng thiếu vốn, thiếu nghệ, tạo ra thị trường
mới nhưng vấn đảm bảo được an ninh quốc gia và nắm được quyền điều hành
dự án.
Nhược điểm: khó thu hút đầu tư ,chỉ thực hiện được đối với một số ít lĩnh
vực dễ sinh lời.
Đối với nước nhận đầu tư :
Ưu điểm: tận dụng được hệ thống phân phối có sẵn của dối tác nước sở tại
vào được những linh vực hạn chế đầu tư thâm nhập được nhưng thị trường
truyền thống của nước chủ nhà; không mất thời gian và chi phí cho việc
nghiên cứu thị trường mới và xây dựng các mối quan hệ; không bị tác động
lớn do khác biệt về văn hoá; chia sẻ được chi phí và rủi ro đầu tư.
-Nhược điểm: không được trực tiếp quản lý điều hành dự án, quan hệ hợp tác
với đối tá nước sở tại thiếu tính chắc chắn làm các nhà đầu tư e ngại.
2.4. Đầu tư theo hợp đồng BOT.
BOT (xây dựng - vận hành - chuyển giao) là một thuật ngữ để chỉ một số mô
hình hay một cấu trúc sử dụng đầu tư tư nhan để thực hiện xây dựng cơ sở hạ
tầng vẫn được dành riêng cho khu vực nhà nước. Trong một dự án xây dựng
BOT, một doanh nhân tư nhân được đặc quyền xây dựng và vận hành một
công trình mà thường do chính phủ thực hiện. Công trình này có thể là nhà
máy điện, sân bay, cầu, cầu đường… Vào cuối giai đoạn vận hành doanh
nghiệp tư nhân sẽ chuyển quyền sở hữu dự án về cho chính phủ.
Hợp đồng BOT là văn bản kí kết giữa các nhà đầu tư nước ngoài với cơ quan
có thẩm quyền của nước chủ nhà để đầu tư xây dựng công trình kết cấu hạ
tầng (kể cả mở rộng, nâng cấp, hiện đại hoá công trình) và kinh doanh trong
một thời gian nhất định để thu hồi vốn và có lợi nhuận hợp lý, sau đó chuyển
giao không bồi hoàn toàn bộ công trình cho nước chủ nhà.
Hợp đồng xây dựng chuyển giao kinh doanh BTO và hợp đồng xây dựng
chuyển giao BT, được hình thành tương tự như hợp đồng BOT nhưng có điểm
khác là: đối với hợp đồng BTO sau khi xây dựng xong công trình nhà đầu tư
nước ngoài chuyển giao lại cho nước chủ nhà và được chinh phủ nước chủ
nhà dành cho quyền kinh doanh công trình đó hoặc công trình khác trong một
thời gian đủ để hoàn lại toàn bộ vốn đầu tư và có lợi nhuận thoả đáng về công
trình đã xây dựng và chuyển giao.
Đối với hợp đồng BT, sau khi xây dựng xong công trình nhà đầu tư nước
ngoài chuyển giao lại cho nước chủ nhà và được chính phủ nước chủ nhà
thanh toán bằng tiền hoặc bằng tài sản nào đó tương xứng với vốn đầu tư đã
bỏ ra và tỉ lệ lợi nhuận hợp lý.
Doanh nghiệp được thành lập thực hiện hợp đồng BOT, BTO, BT mặc dù hợp
đồng dưới hình thức doanh nghiệp liên doanh hoặc doanh nghiệp 100% vốn
nước ngoài nhưng đối tác cùng thực hiện hợp đồng là các cơ quan quản lí nhà
nước ở nước sở tại. Lĩnh vực hợp đồng hẹp hơn các doanh nghiệp FDI khác,
chủ yếu áp dụng cho các dự án phát triển cơ sở hạ tầng; được hưởng các ưu
đãi đầu tư cao hơn sơ với các hình thức đầu tư khác và điểm đặc biệt là khi
hết hạn hoạt động, phải chuyển giao không bồi hoàn cơ sở hạ tầng đã được
xây dựng và khai thác cho nước sở tại.
Đối với nước chủ nhà :
Ưu điểm: thu hút được vốn đầu tư vào những dự án có sở hạ tầng đòi hỏi vốn
đầu tư lớn, do đó giảm được sức ép cho ngân sách nhà nước, đồng thời nhanh
chóng có được công trình kết cấu hạ tầng hoàn chỉnh giúp khơi dậy các nguồn
lực trong nước và thu hút thêm FDI để phát triển kinh tế.
Nhược điểm: khó tiếp nhận kinh nghiệm quản lí và khó kiểm soát công trình.
Mặt khác, nhà nước phải chịu mọi rủi ro ngoài khả năng kiểm soát của nhà
đầu tư.
Đối với đầu tư nước ngoài :
Ưu điểm: hiệu quả sử dụng vốn được bảo đảm; chủ động quản lí, điều hành
và tự chủ kinh doanh lợi nhuận, hông bị chia sẻ và được nhà nước sở tại đảm
bảo, tránh những rủi ro bất thường ngoài khả năng kiểm soát.
Nhược điểm: việc đàm phán và thực thi hợp đồng BOT thường gặp nhiều khó
khăn tốn kém nhiều thời gian và công sức.
2.5. Đầu tư thông qua mô hình công ty mẹ và con (Holding company).
Holding company là một trong những mô hình tổ chức quản lí được thừa nhận
rộng rãi ở hầu hết các nước có nền kinh tế thị trường phát triển.
Holding company là một công ty sở hữu vốn trong một công ty khác ở mức
đủ để kiểm soát hoạt động quản lí và điều hành công ty đó thông qua việc gây
ảnh hưởng hoặc lựa chọn thành viên hợp đồng quản trị.
Holding company được thành lập dưới dạng công ty cổ phần và chỉ giới hạn
hoạt động của mình trong việc sở hữu vốn, quyết định chiến lược và giám sát
hoạt động quản lí của các công ty con, các công ty con vẫn duy trì quyền kiểm
soát hoạt động kinh doanh của mình một cách độc lập, tạo rất nhiều thuận lợi.
Cho phép các nhà đầu tư huy động vốn để triển khai nhiều dự án đầu tư khác
nhau mà còn tạo điểu kiện thuận lợi cho họ điều phối hoạt động và hỗ trợ các
công ty trực thuộc trong việc tiếp thị, tiêu thụ hàng hoá, điều tiết chi phí thu
nhập và các nghiệp vụ tài chính.
Quản lí các khoản vốn góp của mình trong công ty khác như một thể thống
nhất và chịu trách nhiệm về việc ra quyết định và lập kế hoạch chiến lược
điều phối các hoạt động và tài chính của cả nhóm công ty.
Lập kế hoạch, chỉ đạo, kiểm soát các luồng lưu chuyển vốn trong danh mục
đầu tư. Holding company có thể thực hiện cả hoạt động tài trợ đầu tư cho các
công ty con và cung cấp dịch vụ tài chính nội bộ cho các công ty này.
Cấp cho các công ty con các dịch vụ như kiểm toán nội bộ, quan hệ đối ngoại,
phát triển thị trường, lập kế hoạch, nghiên cứu và phát triển
2.6. Hình thức công ty cổ phần :
Công ty cổ phần (công ty cổ phần trách nhiệm hữu hạn)là doanh nghiệp trong
đó vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần các cổ
đông chỉ chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh
nghiệp trong phạm vi vốn đã góp vào doanh nghiệp cổ đông có thể là tổ chức
cá nhân với số lượng tối đa không hạn chế, nhưng phải đáp ứng yêu cầu về số
cổ đông tối thiểu. Đặc trưng của công ty cổ phần là nó có quyền phát hành
chứng khoán ra công chúng và các cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ
phần của mình cho người khác.
Cơ cấu tổ chức, công ty cổ phần phải có đại hội cổ đông, hội đồng quản trị và
giám đốc. Thông thường ở nhiều nước trên thế giới, cổ đông hoặc nhóm cổ
đông sở hữu trên 10% số cổ phiếu thường có quyền tham gia giám sát quản lý
hoạt động của công ty cổ phần. Đại hội cổ đông gồm tất cả cổ đông có quyền
biểu quyết là co quan quyết định cao nhất của công ty cổ phần
Ở một số nước khác, công ty cổ phần hữu hạn có vốn đầu nước ngoài được
thành lập theo cách: thành lập mới, cổ phần hoá doanh nghiệp FDI (doanh
nghiệp liên doanh và doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài) đang hoạt động,
mua lại cổ phần của doanh nghiệp trong nước và cổ phần hoá.
2.7. Hình thức chi nhánh công ty nước ngoài :
Hình thức này được phân biệt với hình thức công ty con 100% vốn nước
ngoài ở chỗ chi nhánh không được coi là một pháp nhân độc lập trong khi
công ty con thường là một pháp nhân độc lập. Trách nhiệm của công ty con
thường giới hạn trong phạm vi tài sản ở nước sở tại, trong khi trách nhiệm của
chi nhánh theo quy định của 1 ố nước, không chỉ giới hạn trong phạm vi tài
sản của chi nhánh, mà còn được mở rộng đến cả phần tài sản của công ty mẹ
ở nước ngoài.
Chi nhánh được phép khấu trừ các khoản lỗ ở nước sở tại và các khoản chi
phí thành lập ban đầu vào các khoản thu nhập của công ty mẹ tại nước ngoài.
Ngoài ra chi nhánh còn được khấu trừ một phần các chi phí quản lý của công
ty mẹ ở nước ngoài vào phàn thu nhập chịu thuế ở nước sở tại
Việc thành lập chi nhánh thường đơn giản hơn so với việc thành lập công ty
con. Do không thành lập 1 pháp nhân độc lập, việc thành lập chi nhánh không
phải tuân thủ theo các quy định về thành lập công ty, thường chỉ thông qua
việc đăng kí tại các cơ quan có thẩm quyền của nước chủ nhà.
2.8. Hình thức công ty hợp danh :
Công ty hợp danh là doanh nghiệp phải có ít nhất hai thành viên hợp danh,
ngoài các thành viên hợp danh có thể có thành viên góp vốn. Thành viên hợp
danh phải là cá nhân có trình độ chuyên môn, có uy tín nghề nghiệp và phải
chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về nghĩa vụ của công ty;
thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong
phạm vi số vốn đã góp vào công ty. Công ty hợp danh không được phát hành
bất kì loại chứng khoán nào. Các thành viên hợp danh có quyền ngang nhau
khi quyết định các vấn đề quản lý công ty, còn thành viên góp vốn có quyền
được chia lợi nhuận theo tỷ lệ quy định tại điều lệ công ty nhưng không được
tham gia quản lý công ty và hoạt động kinh doanh nhân danh công ty.
Khác với doanh nghiệ