Các quy định về điều kiện, thủtục xét chọn trọng tài nên đối với trung tâm
trọng tài Quốc tếViệt nam và các trung tâm trọng tài kinh tếtheo Nghị định 116/CP
cũng rất khác nhau, sựkhông thống nhất của môi trường pháp lý này đã làm cho các
trung tâm trọng tài kinh tếthiếu tính thống nhất vềchức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
và cơchếhoạt động có thểdẫn đến những sựhiểu biết khác nhau vềvai trò, vịtrí
của các trung tâm trọng tài Việt Nam. Măc dù theo điều 61 PL/08 UBTVQH11 quy
định các Tổchức trọng tài được thành lập trước ngày pháp lệnh này có hiêu lực phải
sửa đổi bổsung Điều lệ, Quy tắc tốtụng trọng tài cho phù hợp với quy định của
pháp lệnh trong thời hạn 12 tháng. Trong khi chờ đợi Nghị định thông tưvà các văn
bản hướng dẫn thi hành pháp lệnh số08 /PL UBTVQH11 thì những khó khăn trên
vẫn tồn tại nhưmột thực trạng vướng mắc của pháp luật giải quyết tranh chấp kinh
tếbằng con đường trọng tài nước ta hiện nay, những vướng mắc này đã được sửa
đổi, bổsung trong Pháp lệnh trọng tài thương mại số08/PL UBTVQH11 ban hành
ngày 25/3/2003 đểviệc giải quyết tranh chấp kinh tế được phù hợp hơn, thuận lợi
hơn nhằm hoàn thiện hệthống pháp luật vềgiải quyết tranh chấp kinh tếtại các
Trung tâm trọng tài.
28 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2050 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giải quyết tranh chấp kinh tế ở nước ta hiện nay - Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Giải quyết tranh chấp kinh tế ở nước ta hiện nay - thực trạng và giải pháp
- 85 -
hoạt động theo quy tắc trọng tài do Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt nam,
trong đó các trung tâm trọng tài kinh tế khác thì được Chủ tịch UBND cấp Tỉnh cho
phép thành lập và sau đó hoạt động theo các Quy định 116/CP ngày 5/9/1994 của
Chính phủ.
♦ Các quy định về điều kiện, thủ tục xét chọn trọng tài nên đối với trung tâm
trọng tài Quốc tế Việt nam và các trung tâm trọng tài kinh tế theo Nghị định 116/CP
cũng rất khác nhau, sự không thống nhất của môi trường pháp lý này đã làm cho các
trung tâm trọng tài kinh tế thiếu tính thống nhất về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
và cơ chế hoạt động có thể dẫn đến những sự hiểu biết khác nhau về vai trò, vị trí
của các trung tâm trọng tài Việt Nam. Măc dù theo điều 61 PL/08 UBTVQH11 quy
định các Tổ chức trọng tài được thành lập trước ngày pháp lệnh này có hiêu lực phải
sửa đổi bổ sung Điều lệ, Quy tắc tố tụng trọng tài cho phù hợp với quy định của
pháp lệnh trong thời hạn 12 tháng. Trong khi chờ đợi Nghị định thông tư và các văn
bản hướng dẫn thi hành pháp lệnh số 08 /PL UBTVQH11 thì những khó khăn trên
vẫn tồn tại như một thực trạng vướng mắc của pháp luật giải quyết tranh chấp kinh
tế bằng con đường trọng tài nước ta hiện nay, những vướng mắc này đã được sửa
đổi, bổ sung trong Pháp lệnh trọng tài thương mại số 08/PL UBTVQH11 ban hành
ngày 25/3/2003 để việc giải quyết tranh chấp kinh tế được phù hợp hơn, thuận lợi
hơn nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh tế tại các
Trung tâm trọng tài.
Giải quyết tranh chấp kinh tế ở nước ta hiện nay - thực trạng và giải pháp
- 86 -
CHƯƠNG III
NHỮNG GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP Ở NƯỚC TA
I. LỰA CHỌN PHƯƠNG PHÁP GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH TẾ
Khi tham gia vào quan hệ hợp đồng kinh tế (HĐKT), một trong những vấn đề
khó khăn nhất đối với các bên trong hợp đồng là khi có tranh chấp xảy ra thì phải
chọn được cách giải quyết tranh chấp nhanh nhất, tiết kiệm chi phí và đáng tin cậy.
Một phương pháp giải quyết tranh chấp (khiếu nại, hoà giải hay đi kiện ra toà án
hoặc trọng tài) không thể luôn là phương án tối ưu đối với mọi tranh chấp mỗi
phương pháp đều có ưu điểm và nhược điểm riêng. Tuỳ từng trường hợp cụ thể mà
người ta chọn phương pháp giải quyết tranh chấp này hay phương pháp kia.
1. Ưu điểm và nhược điểm của các phương pháp giải quyết tranh chấp trước khi
đi kiện:
Như đã nêu, các phương pháp giải quyết tranh chấp trước khi đi kiện gồm có: khiếu
nại và hoà giải. Các phương pháp này có những ưu điểm sau:
Trước tiên, chúng thoả mãn tâm lý phổ biến của các nhà kinh doanh là không
muốn dựa vào tài phán (Toà án hay Trung tâm trọng tài) để phân xử các tranh chấp
ngay từ ban đầu. Khi tranh chấp phát sinh, các bên muốn mình hoặc thông qua
người thứ 3 để dàn xếp tranh chấp theo con đường hữu nghị.
Các phương pháp này được tiến hành dựa trên cơ sở ý chí tự nguyện của các
bên đương sự, không ai có thể hiểu rõ mọi tình tiết, nguyên nhân tranh chấp bằng
chính các bên tranh chấp, do vậy họ được quyền tự do lựa chọn cách giải quyết hợp
tình hợp lý bằng chính những cố gắng và nỗ lực của bản thân họ. Vì lý do này, các
phương pháp thương lượng trực tiếp có khả năng giải quyết tranh chấp một cách
nhanh chóng.
Giải quyết tranh chấp kinh tế ở nước ta hiện nay - thực trạng và giải pháp
- 87 -
Một ưu điểm nữa của các phương pháp này là những người trung gian (các
hoà giải viên) nếu được lựa chọn thường là những người am hiểu lĩnh vực kinh tế,
thương mại. Họ nắm bắt được nguyện vọng giải quyết tranh chấp nhanh chóng của
các nhà kinh doanh cùng với khả năng thông thạo nghiệp vụ kinh doanh, lại không
bị ràng buộc bởi những quy tắc pháp lý cứng nhắc, vì vậy người trung gian có thể
dành toàn bộ thời gian cần thiết, nhanh chóng tìm ra phương pháp giải quyết tranh
chấp có tính thuyết phục và có tính khả thi.
Bí mật thông tin và bảo toàn uy tín đã trở thành một yêu cầu có tính chất sống
còn của các nhà kinh doanh trên thương trường. Các phương pháp thương lượng
trực tiếp với cách giải quyết kín đáo, không công khai, không ồn ào, không nghi
thức rườm rà đã đáp ứng được nhu cầu của các nhà kinh doanh. Hơn nữa, các thành
viên tham gia đóng vai trò chủ động tích cực trong việc xúc tiến các bước tiến hành
nên họ có điều kiện biến các cuộc thương lượng thành những cuộc đàm phán có ý
nghĩa và sẵn sàng chấm dứt việc thương lượng vô ích. Với tính chất linh hoạt như
vậy, khiếu nại và hoà giải giúp các bên giải quyết tranh chấp một cách nhanh chóng
và thực sự có hiệu quả.
Về khía cạnh pháp lý, các phương pháp này không ép buộc các bên tranh
chấp từ bỏ hoặc trì hoãn việc đi kiện ra Toà án kinh tế hay các trung tâm trọng tài.
Mặt khác, khiếu nại còn là bước bắt buộc khi đi kiện theo quy định của pháp luật
Việt nam và trong quá trình giải quyết tranh chấp ở Toà án kinh tế, trung tâm trọng
tài thì việc đạt được thoả thuận bằng con đường thương lượng được các cơ quan này
rất hoan nghênh.
Các phương pháp giải quyết tranh chấp trước khi đi kiện giúp các bên tranh
chấp tự do lựa chọn phương pháp giải quyết hợp tình, hợp lý phù hợp với thực tiễn
kinh doanh. Tuy nhiên, các phương pháp này cũng bộc lộ một số nhược điểm như
các phương pháp này chỉ nên được áp dụng và có thể mang lại kết quả tốt khi các
bên tranh chấp có thái độ hợp tác, tôn trọng lẫn nhau để cùng nhanh chóng giải
quyết tranh chấp. Nếu một bên thiếu nhiệt tình, không có thiện chí thì việc vận dụng
phương pháp này sẽ tốn thời gian vô ích. Vai trò của người trung gian chỉ dừng lại ở
vai trò của người góp ý kiến, không có thẩm quyền ra quyết định phân xử. Nhược
Giải quyết tranh chấp kinh tế ở nước ta hiện nay - thực trạng và giải pháp
- 88 -
điểm lớn nhất của các phương pháp này là phương án giải quyết tranh chấp được
các bên nhất trí không có giá trị ràng buộc các bên và không được pháp luật cưỡng
chế thi hành.
Các phương pháp giải quyết tranh chấp mang lại cho các nhà kinh doanh cơ
hội lựa chọn phương pháp theo đúng trình tự logic, phù hợp với những đặc trưng cơ
bản của hoạt động kinh doanh. Đó là khi gặp phải tranh chấp, các bên liên quan đầu
tiên nên tự giải quyết tranh chấp. Nếu chưa mang lại kết quả, các bên có thể nhờ
một người thứ 3 đứng ngoài cuộc, sáng suốt góp ý kiến hoặc với nỗ lực của người
thứ ba hoà giải viên mà tranh chấp vẫn chưa được giải quyết thì các bên mới giao
tranh chấp cho cơ quan tài phán (toà án hay các trung tâm trọng tài).
Phổ biến trong kinh doanh hiện nay, các nhà kinh doanh có xu hướng lựa
chọn các phương pháp giải quyết tranh chấp trước khi đi kiện theo trình tự logic
trên, tuỳ thuộc vào mối quan hệ kinh doanh giữa hai bên và tính chất vụ án tranh
chấp. Song các phương pháp giải quyết tranh chấp trước khi đi kiện này chỉ có thể
mang lại một phương pháp giải quyết tranh chấp không có giá trị pháp lý, không
được pháp luật cưỡng chế thi hành và rõ ràng việc chấp hành phương án giải quyết
đó phụ thuộc vào ý chí tự nguyện của các bên. Chính vì vậy, các nhà kinh doanh
vẫn có nhu cầu tìm đến các phương pháp giải quyết tranh chấp có khả năng mang
lại kết quả phân xử có hiệu lực pháp lý, ràng buộc các bên thi hành, về mặt lý
thuyết, cả toà án và trọng tài đều có thể đáp ứng được yêu cầu đó.
2. Nhược điểm của đi kiện ở Toà án so với đi kiện ở các Trung tâm trọng tài:
Toà án và các Tung tâm trọng tài đều là các cơ quan tài phán có thẩm quyền
xét xử các tranh chấp kinh tế, mỗi cơ quan tài phán có một cách thức tổ chức hội
đồng xét xử, cách thức giải quyết tranh chấp và phải tuân theo các quy tắc tố tụng
khác nhau. Vậy toà án hay các Trung tâm trọng tài sẽ là cơ quan tài phán có khả
năng đáp ứng nhu cầu giải quyết tranh chấp nhanh, tiết kiệm chi phí và có độ tin cậy
cao của các nhà kinh doanh. Thực tiễn giải quyết tranh chấp ở toà án kinh tế trong
những năm gần đây (từ 1994 đến nay) đã chứng tỏ các nhà kinh doanh gặp nhiều
bất lợi khi đi kiện tại toà án kinh tế, những bất lợi đó là:
a. Quyền tự do lựa chọn của các bên đương sự bị hạn chế:
Giải quyết tranh chấp kinh tế ở nước ta hiện nay - thực trạng và giải pháp
- 89 -
Thông thường khi kiện ra toà án, nguyên đơn phải tiến hành kiện bị đơn tại
toà án nơi bị đơn có trụ sở kinh doanh hay cư trú. Nguyên đơn không được tự do
chọn Toà án kinh tế Tỉnh này hay toà án kinh tế Tỉnh kia để giải quyết tranh chấp
mà phải tuân theo những quy định về thẩm quyền theo lãnh thổ đối với Toà án các
cấp, ngược lại, khi các bên quyết định giao vụ việc cho trọng tài giải quyết các bên
có quyền quyết định tổ chức trọng tài nào sẽ xử tranh chấp giữa các bên.
Toà án là cơ quan tư pháp của nhà nước, các quy định về Hội đồng xét xử rất
phức tạp, cố định, khó có thể thay đổi được, các bên không được quyền tự do chọn
các Thẩm phán, Hội thẩm, Kiểm sát viên, Thư ký toà án... theo ý của mình. Những
người này đều do toà án chỉnh định. Trong khi đó các trung tâm trọng tài cho phép
các bên đương sự chọn đích danh người mà mình cho là vô tư, có uy tín và am hiểu
chuyên môn làm trọng tài viên. Điều này không thể tìm thấy trong tố tụng toà án.
Hội đồng xét xử tại toà án có thẩm quyền phải tuân thủ các thủ tục cứng nhắc và các
bên đương sự không được phép thay đổi các thủ tục đó. Ngược lại, các bên tham gia
tố tụng trọng tài có thể lựa chọn và hoàn toàn có thể lập nên một quy tắc tố tụng
trọng tài thích hợp cho tình tiết của vụ việc. Phải thừa nhận rằng quyền tự do trong
công việc giải quyết tranh chấp một trong những bộ phận của quyền tự do kinh
doanh được pháp luật bảo đảm lại bị hạm chế khi các bên giao tranh chấp cho toà án
xét xử.
b. Nhu cầu giải quyết tranh chấp nhanh, tiết kiệm chi phí khó được đáp ứng:
Dựa vào phương pháp trọng tài để phân xử tranh chấp các bên tranh chấp
được bảo đảm nguyên tắc tự do lựa chọn, do vậy họ có khả năng kiểm soát trình tự
tiến hành của trọng tài và có thể đẩy nhanh tốc độ giải quyết tranh chấp của trọng
tài nhằm thoả mãn yêu cầu kinh doanh của mình. Nhu cầu giải quyết tranh chấp một
cách nhanh chóng khó có thể đáp ứng được bằng hình thức tố tụng toà án vốn là loại
tố tụng được đặc trưng bởi nhiều cấp xét xử khác nhau từ sơ thẩm, phúc thẩm đến
giám đốc thẩm, quyết định của toà án có thẩm quyền có thể bị kháng án lên ít nhất
một hoặc đôi lần khi hai toà án ở cấp cao hơn, do đó kéo dài thời gian thưa kiện của
các bên tranh chấp. Cũng do phải qua nhiều cấp xét xử trong một vụ kiện nên chi
Giải quyết tranh chấp kinh tế ở nước ta hiện nay - thực trạng và giải pháp
- 90 -
phí cho vụ tranh chấp cũng tăng lên. Về điểm này trọng tài với nguyên tắc xét xử
một lần có thể đáp ứng tốt hơn nhu cầu của các nhà kinh doanh.
c Nhu cầu giải quyết tranh chấp bí mật của doanh nghiệp không được đáp ứng:
Nguyên tắc xét xử công khai trong tố tụng toà án: Phiên họp xét xử tiến hành
công khai, quyết định của toà án được công bố rộng rãi là điều mà các nhà kinh
doanh tối kỵ. Kinh doanh trên thương trường không chỉ đơn giản là việc ký kết giao
dịch trao đổi hàng hoá nhằm thu lợi nhuận mà gần như là tham gia vào chiến trường
thương mại. Đối với các nhà kinh doanh, bí mật thông tin và uy tín kinh doanh là
vấn đề sống còn, nên họ muốn tranh chấp được giải quyết một cách kín đáo không
công khai. Chỉ có trọng tài với tư cách là một cơ quan xét xử không công khai, phán
quyết không được công khai rộng rãi mới đáp ứng được nhu cầu chính đáng này của
các nhà kinh doanh.
d. Kiến thức chuyên môn của các Thẩm phán còn hạn chế:
Việc phân xử các tranh chấp kinh tế do tính chất phức tạp, đa dạng và nhiều
khía cạnh mang tính chất nghiệp vụ kinh doanh đòi hỏi người phân xử phải có trình
độ pháp luật có kiến thức chuyên môn và bề dày kinh nghiệm về lĩnh vực thương
mại và cả những tiêu chuẩn về đạo đức. Trong tố tụng ở toà án, các thẩm phán được
đào tạo và tuyển dụng theo những tiêu chuẩn chặt chẽ có hiểu sâu về pháp luật
nhưng thường bị hạn chế về kiến thức đối với lĩnh vực khác, đặc biệt là các kiến
thức về nghiệp vụ kinh doanh. Điều đó hạn chế phần nào năng lực đánh giá của họ,
nhược điểm này được khắc phục ở tố tụng trọng tài. Trọng tài viên là các chuyên
gia giỏi về tranh chấp được các bên đương sự tín nhiệm, đề cử ra để giải quyết các
vụ tranh chấp cụ thể. Bằng năng lực chuyên môn của mình như: am hiểu về nghiệp
vụ kinh doanh; hiểu biết chuyên sâu về pháp luật các trọng tài viên có khả năng xem
xét, đánh giá sự việc đúng đắn, khách quan hơn.
Trung tâm trọng tài yêu cầu trọng tài viên của mình phải có phẩm chất đạo
đức tốt trung thực, vô tư khách quan có kiến thức và kinh nghiệm trong lĩnh vực
pháp luật, kinh tế và phải được cấp thẻ trọng tài viên theo quy định của Bộ trưởng
Bộ Tư pháp.
Giải quyết tranh chấp kinh tế ở nước ta hiện nay - thực trạng và giải pháp
- 91 -
Bên cạnh những nhược điểm trên, giải quyết tranh chấp bằng toà án còn có
những Ưu điểm nhất định. Ưu điểm lớn nhất của tranh chấp bằng toà án: Toà án là
cơ quan của nhà nước nên các bản án, quyết định của toà án được bảo đảm thi
hành bằng sức mạnh cưỡng chế của pháp luật.
II. CÁC BIỆN PHÁP PHÒNG NGỪA VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP KINH TẾ
1. Các biện pháp phòng ngừa tranh chấp kinh tế:
a. Xây dựng một HĐKT hoàn chỉnh:
Tranh chấp có thể phát sinh ngay trong quá trình đàm phán, ký kết cũng như
trong quá trình thực hiện HĐKT. Các quy định của pháp luật hiện hành là cơ sở
pháp lý ràng buộc các bên tham gia HĐKT. Các bên trong HĐKT chỉ có thể dùng
HĐKT, quy định của pháp luật có liên quan để bảo vệ quyền lợi của mình và buộc
bên kia thực hiện nghĩa vụ quy định trong HĐKT. Đồng thời, khi có tranh chấp
phát sinh, các bên căn cứ trước hết vào HĐKT để giải quuyết tranh chấp, Rõ ràng,
HĐKT có vai trò rất quan trọng trong hoạt động kinh tế.
Tranh chấp phát sinhh trong quan hệ HĐKT là một trong các bên vi phạm
nghĩa vụ HĐKT và gây thiệt hại cho bên kia. Nếu các nghĩa vụ đã được quy định rõ
ràng và cụ thể trong HĐKT mà các bên vẫn vi phạm thì việc quy trách nhiệm không
khó khăn. Song tranh chấp phát sinh sẽ phức tạp và khó giải quyết nếu HĐKT
không quy định cụ thể, rõ ràng những nội dung liên quan. Do đó biện pháp phòng
ngừa tranh chấp tốt nhất là xây dựng một HĐKT hợp pháp, chặt chẽ đầy đủ và rõ
ràng. Một HĐKT hoàn hảo là một HĐKT kết hợp chặt chẽ được cả hai yếu tố, về
mặt nghiệp vụ cũng như pháp luật, bao gồm các yếu tố về hình thức, chủ thể, nội
dung các điều khoản của hợp đồng và chữ ký, con dấu của các bên.
a.1 Về hình thức hợp đồng
HĐKT chỉ có hiệu lực khi nó được thể hiện dưới hình thức văn bản. Do vậy,
việc quy định hình thức văn bản cho HĐKT là cách tốt nhất để tránh phát sinh tranh
chấp. Song có những thương vụ không cho phép soạn thảo đầy đủ mọi thoả thuận
giữa các bên bằng một văn bản. Trong trường hợp này, để tránh tranh chấp các bên
có thể ký kết HĐKT bằng các tài liệu giao dịch mang tính văn bản, có chữ ký của
Giải quyết tranh chấp kinh tế ở nước ta hiện nay - thực trạng và giải pháp
- 92 -
các bên xác nhận nội dung trao đổi, thoả thuận như công văn, đơn chào hàng, đợt
đặt hàng, giấy chấp nhận....
a.2 Về chủ thể hợp đồng
Nội dung về chủ thể hợp đồng là nội dung không thể thiết được trong
HĐKT. Chủ thể HDKT phải hợp pháp, theo quy định của pháp luật, chỉ có pháp
nhân và cá nhân có đăng ký kinh doanh mới được phép ký kết HĐKT. Trước khi ký
kết hợp đồng, các bên phải tìm hiểu kỹ tư cách chủ thể của nhau. Việc không tìm
hiểu kỹ tư cách chủ thể của các bên có thể dẫn đến hậu quả nghiêm trọng. Các bên
có thể tìm hiểu tư cách chủ thể của nhau một cách trực tiếp hoặc thông qua các cơ
quan quản lý. Thông thường, các thông tin về chủ thể được nêu ngay ở phần đầu
của HĐKT, bao gồm tên, địa chỉ, điện tín của các bên. Xác minh rõ những thông tin
này, các bên có thể giảm bớt khả năng xảy ra tranh chấp.
a.3 Về các điều khoản hợp đồng
HĐKT có rất nhiều loại, mỗi loại có những nét đặc đặc thù riêng nên rất khó
có thể đưa ra cách phòng ngừa tranh chấp phù hợp với tất cả các loại. Tuy nhiên, dù
là loại này hay loại kia thì một HĐKT vẫn có những điều khoản bắt buộc, đó là các
điều khoản chủ yếu của HĐKT, những điều khoản này quyết định gía trị pháp lý
của HĐKT. Vì vậy, để tránh tranh chấp xảy ra, trước tiên các bên phải ký kết các
điều khoản chủ yếu một cách hoàn chỉnh.
- Điều khoản về ngày, tháng ký kết và các chủ thể của HĐKT:
Ngày, tháng ký kết hợp đồng là điều khoản rất quan trọng và nhất thiết phải
có trong HĐKT vì nó thường liên quan đến thời hạn hiệu lực của hợp đồng, có
nhiều cách quy định thời hạn hiệu lực của hợp đồng khác nhau nhưng cách tốt nhất
và hay được áp dụng nhất là căn cứ vào thời điểm ký kết hợp đồng. HĐKT có thể
có hiệu lực từ khi ký kết hoặc các bên cũng có thể quy định như sau: HĐKT này bắt
đầu có hiệu lực ngay sau khi ký kết. Do vậy, để hạn chế khả năng xảy ra tranh chấp,
các bên nên ghi rõ ngày, tháng ký kết trong HĐKT.
- Điều khoản về đối tượng HĐKT được tính bằng số lượng, khối lượng hoặc giá trị
quy ước.
Giải quyết tranh chấp kinh tế ở nước ta hiện nay - thực trạng và giải pháp
- 93 -
Đối với điều khoản này, trước hết các bên cần lưu ý đến tên đối tượng, có
nhiều cách xác định tên đối tượng trong hợp đồng, tuỳ vào từng loại đối tượng cụ
thể mà trong hợp đồng có cách ghi phù hợp. Nếu đối tượng trong hợp đồng có nhiều
công dụng, thì các bên nên ghi công dụng hay mục địch sử dụng đính kèm theo tên
của đối tượng. Như vậy, để tránh các tranh chấp về sau, khi quy định tên đối tượng,
các bên ghi tên đối tượng (có thể là tên khoa học, tên thương mại hay tên thông
thường) kèm theo một đặc điểm nào đó gắn với đối tượng như công dụng, nhãn
hiệu, nơi sản xuất, nhà sản xuất (đối với hàng hoá) ... nhằm xác định chính xác đối
tượng mà các bên muốn đề cập tới trong HĐKT.
- Điều khoản về số lượng, khối lượng hoặc giá trị:
Các bên trong quan hệ HĐKT có thể quy định một cách cụ thể số lượng, khối
lượng hoặc giá trị của đối tượng hợp đồng, có nghĩa là, các bên có thể quy định
1000 tấn than hay 10.000 máy bơm... trong một HĐKT. Tuy nhiên, quy định như
vậy thì tranh chấp sẽ xảy ra khi một bên vi phạm thoả thuận này ví dụ: giao thiếu
0,05 tấn than. Các quy định này chỉ phù hợp khi đối tượng hợp đồng có thể tính
được theo cái, chiếc... Khả năng xảy ra tranh chấp sẽ giảm đi khi các bên áp dụng
cách quy định phỏng chứng về số lượng, khối lượng và giá trị của đối tượng hợp
đồng. Các quy định có dung sai như vậy phù hợp với hàng rời, trong thực tiễn ký
kết HĐKT ở Việt Nam, các bên áp dụng cách quy định có dung sai chưa nhiều
nhưng nếu các bên sử dụng phương pháp này, chắc chắn khả năng xảy ra tranh chấp
sẽ giảm đi.
- Điều khoản về chất lượng, chủng loại, quy cách, tính đồng bộ của hàng hoá hoặc
yêu cầu kỹ thuật:
Vấn đề chất lượng là vấn đề tương đối phức tạp, người ta có thể quy định chất
lượng bằng nhiều cách. Trong thực tế, ba phương pháp quy định chất lượng sau đây
được áp dụng phổ biến nhất, đó là:
♦ Căn cứ vào tiêu chuẩn để thoả thuận chất lượng, có thể là tiêu chuẩn nhà
nước hoặc tiêu chuẩn địa phương.
♦ Thoả thuận chất lượng bằng sự mô tả tỉ mỉ;
Giải quyết tranh chấp kinh tế ở nước ta hiện nay - thực trạng và giải pháp
- 94 -
♦ Thoả thuận chất lượng theo mẫu hàng, thường được áp dụng đối với hàng
hoá có chất lượng ổn định.
Chọn phương pháp quy định chất lượng nào là tuỳ thuộc vào các bên và loại
đối tượng trong quan hệ HĐKT, nhưng sự quy định của các bên về chất lượng trong
hợp đồng càng chi tiết bao nhiêu thì khả năng xảy ra tranh chấp càng giảm đi bấy
nhiêu.
- Điều khoản về giá cả:
Khi quy định giá cả trong hợp đồng các bên cần phải nêu rõ đơn vị tính giá và
phương pháp định giá, chọn đơn vị tính giá cần căn cứ vào tính chất của đối tượng
và thông lệ giao dịch đó trên thị trường. Giá trong hợp đồng có thể được quy định
theo đơn vị khối lượng