Giáo trình Chương VI : thiết chế xã hội

Theo Robertsons : thiết chế là một tập hợp bền vững các giá trị, chuẩn mực, vị thế, vai trò và nhóm vận động xung quanh một nhu cầu cơ bản của xã hội. Ông cho rằng, một xã hội muốn tồn tại và phát triển bình thường, phải được hình thành trên những mô hình hành vi, những khuôn mẫu, khuôn phép chung để từ đó mỗi thành viên trong xã hội có thể soi vào đó mà hành động cho phù hợp. Không thể nói sự tồn tại và phát triển của một xã hội mà lại không có thiết chế, tức là một xã hội không có kỷ cương, quy tắc hành động, không có hệ thống chuẩn mực, giá trị và sự duy trì, kiểm soát việc thực hiện các kỷ cương , quy tắc đó. Ông còn cho rằng, thiết chế xã hội, hay những mô hình hành vi của con người được “ thiết chế hóa” do những nhu cầu khách quan của các lĩnh vực hoạt động xã hội khác nhau quy định.[2;54] Theo G.V. Oxipop : Thiết chế xã hội là tổ chức nhất định của hoạt động xã hội và các quan hệ xã hội, được thực thi bằng hệ thống phối hợp của những quy chuẩn về hành vi, chuẩn mực và giá trị, được định hướng một cách hợp lý.[2;55] Theo quan niệm của V.A. Cruglicop : Thiết chế xã hội là sự biểu hiện vật chất của các chuẩn mực xã hội và là cơ quan điều hòa việc tuân theo các chuẩn mực đó. Thiết chế xã hội là sự tổ chức các hoạt động xã hội và các quan hệ xã hội nhất định, làm cho các quan hệ xã hội có thể có được tính ổn định và tính kế thừa. Thiết chế xã hội biểu hiện ra dưới hình thức các cơ quan khác nhau 2 thực hiện chức năng điều hòa những lĩnh vực nào đó của các quan hệ xã hội.[2;55] Theo xã hội học : Thiết chế xã hội không phải một nhóm người cụ thể, cũng không phải một tổ chức hay hội đoàn cụ thể. Thiết chế xã hội là một hệ thống các quan hệ xã hội đã được xác lập ổn định trong xã hội, được định hình theo thời gian. Trong các mối quan hệ tương tác giữa các vai trò, một số ứng xử nào đó của con người được lặp đi lặp lại, rồi dần dần thành tập quán, và cuối cùng trở thành những chuẩn mực mà mọi thành viên đều thừa nhận và tuân thủ.[1;153] Hay hiểu theo một cách khác “ Thiết chế xã hội là kết cấu các vị trí xã hội ít nhiều có tính cách ổn định, nhằm đáp ứng những nhu cầu cơ bản của con người trong xã hội [3;110] Để hiểu được khái niệm thiết chế xã hội cần phải hiểu khái niệm giá trị xã hội và chuẩn mực xã hội : - Theo Bách khoa toàn thư quốc tế về xã hội học “ giá trị là những tiêu chuẩn đánh giá thế nào là tốt hay xấu, phải hay trái, đẹp đẽ hay xấu xa”. Còn theo V.A.Crug licop, giá trị xã hội là những hiện tượng của đời sống xã hội được xét trên góc độ ý nghĩa mà xã hội nói chung, một giai cấp hay một tập đoàn xã hội gán cho nó. Những giá trị xã hội là những yếu tố điều hòa hành vi, lợi ích và quan hệ của cá nhân. Đó là những tố chất quan trọng trong cơ cấu của tập đoàn xã hội, tạo ra ở cá nhân và tập đoàn những tố chất cho các hành vi nhất định và những cơ sở để đánh giá những hành vi đó. Giá trị luôn gắn với những tiêu chuẩn chung cảu hành vi như : tính trung thực, lòng tự trọng, tình yêu chung thủy, tính kỷ luật. - Chuẩn mực là những khuôn mẫu chung của hành vi, được mọi người trong xã hội cho là đúng, là cần thiết để điều hòa hành vi của con người. TheoCruglicop, chuẩn mực là những “vật” điều hòa hoạt động của xã hội nói chung, của tập đoàn xã hội và cá nhân. Chuẩn mực xã hội do xã hội thiết lập và thay đổi, xã hội cũng tạo ra những phương tiện kiểm soát xã hội khác nhau để bảo đảm việc thực hiện những chuẩn mực ấy

pdf25 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 13635 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giáo trình Chương VI : thiết chế xã hội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ----------------------------- 1.Tập giáo trình xã hội học đại cương – K52 XHH. 2. Cơ cấu xã hội và sự phân tầng xã hội – PTS. Nguyễn Đình Tấn. 3. Tập bài giảng xã hội học đại cương – TS. Hoàng Thu Hương. 4. Trang tìm kiếm : www.google.com. 5. Xã hội học – John J. Macionis – NXB thống kê – năm 2004. CHƯƠNG VI : THIẾT CHẾ XÃ HỘI I. Khái niệm : Theo Robertsons : thiết chế là một tập hợp bền vững các giá trị, chuẩn mực, vị thế, vai trò và nhóm vận động xung quanh một nhu cầu cơ bản của xã hội. Ông cho rằng, một xã hội muốn tồn tại và phát triển bình thường, phải được hình thành trên những mô hình hành vi, những khuôn mẫu, khuôn phép chung để từ đó mỗi thành viên trong xã hội có thể soi vào đó mà hành động cho phù hợp. Không thể nói sự tồn tại và phát triển của một xã hội mà lại không có thiết chế, tức là một xã hội không có kỷ cương, quy tắc hành động, không có hệ thống chuẩn mực, giá trị và sự duy trì, kiểm soát việc thực hiện các kỷ cương , quy tắc đó. Ông còn cho rằng, thiết chế xã hội, hay những mô hình hành vi của con người được “ thiết chế hóa” do những nhu cầu khách quan của các lĩnh vực hoạt động xã hội khác nhau quy định.[2;54] Theo G.V. Oxipop : Thiết chế xã hội là tổ chức nhất định của hoạt động xã hội và các quan hệ xã hội, được thực thi bằng hệ thống phối hợp của những quy chuẩn về hành vi, chuẩn mực và giá trị, được định hướng một cách hợp lý.[2;55] Theo quan niệm của V.A. Cruglicop : Thiết chế xã hội là sự biểu hiện vật chất của các chuẩn mực xã hội và là cơ quan điều hòa việc tuân theo các chuẩn mực đó. Thiết chế xã hội là sự tổ chức các hoạt động xã hội và các quan hệ xã hội nhất định, làm cho các quan hệ xã hội có thể có được tính ổn định và tính kế thừa. Thiết chế xã hội biểu hiện ra dưới hình thức các cơ quan khác nhau 1 thực hiện chức năng điều hòa những lĩnh vực nào đó của các quan hệ xã hội.[2;55] Theo xã hội học : Thiết chế xã hội không phải một nhóm người cụ thể, cũng không phải một tổ chức hay hội đoàn cụ thể. Thiết chế xã hội là một hệ thống các quan hệ xã hội đã được xác lập ổn định trong xã hội, được định hình theo thời gian. Trong các mối quan hệ tương tác giữa các vai trò, một số ứng xử nào đó của con người được lặp đi lặp lại, rồi dần dần thành tập quán, và cuối cùng trở thành những chuẩn mực mà mọi thành viên đều thừa nhận và tuân thủ.[1;153] Hay hiểu theo một cách khác “ Thiết chế xã hội là kết cấu các vị trí xã hội ít nhiều có tính cách ổn định, nhằm đáp ứng những nhu cầu cơ bản của con người trong xã hội [3;110] Để hiểu được khái niệm thiết chế xã hội cần phải hiểu khái niệm giá trị xã hội và chuẩn mực xã hội : - Theo Bách khoa toàn thư quốc tế về xã hội học “ giá trị là những tiêu chuẩn đánh giá thế nào là tốt hay xấu, phải hay trái, đẹp đẽ hay xấu xa”. Còn theo V.A.Crug licop, giá trị xã hội là những hiện tượng của đời sống xã hội được xét trên góc độ ý nghĩa mà xã hội nói chung, một giai cấp hay một tập đoàn xã hội gán cho nó... Những giá trị xã hội là những yếu tố điều hòa hành vi, lợi ích và quan hệ của cá nhân. Đó là những tố chất quan trọng trong cơ cấu của tập đoàn xã hội, tạo ra ở cá nhân và tập đoàn những tố chất cho các hành vi nhất định và những cơ sở để đánh giá những hành vi đó. Giá trị luôn gắn với những tiêu chuẩn chung cảu hành vi như : tính trung thực, lòng tự trọng, tình yêu chung thủy, tính kỷ luật.... - Chuẩn mực là những khuôn mẫu chung của hành vi, được mọi người trong xã hội cho là đúng, là cần thiết để điều hòa hành vi của con người. TheoCruglicop, chuẩn mực là những “vật” điều hòa hoạt động của xã hội nói chung, của tập đoàn xã hội và cá nhân. Chuẩn mực xã hội do xã hội thiết lập và thay đổi, xã hội cũng tạo ra những phương tiện kiểm soát xã hội khác nhau để bảo đảm việc thực hiện những chuẩn mực ấy. Thiết chế xã hội có thể được xem xét theo cơ cấu bên ngoài ( hình thức vật chất của thiết chế), cũng như cơ cấu bên trong ( nội dung hành động của thiết chế). +, Về cơ cấu bên ngoài : biểu hiện nhu một tổng thể những người, những cơ quan chức năng được trang bị những phương tiện vật chất nhất định và thực hiện những chức năng xã hội nhất định. +, Về cơ cấu bên trong : bao gồm tập hợp nhất định những tiêu chuẩn được định hướng theo mục tiêu về hành vi của những người nhất định, trong hoàn cảnh nhất định. VD : trong ngành tư pháp : nếu xét nó với tính cách là một thiết chế xã hội, về mặt bên ngoài thì đó là một tổng thể những người, những cơ quan và những phương tiện vật chất để thực hiện công tác xét xử. Còn theo quan điểm cơ cấu bên trong thì đó là nội dung hoạt động của những khuôn mẫu tiêu chuẩn hóa của 2 hành vi ở những người có thẩm quyền nhất định. Những tiêu chuẩn đó của hành vi được thể hiện thông qua các vai trò xã hội đặc trưng cho hệ thống tư pháp ( vai trò của chánh án, thẩm phán, ủy viên công tố, luật sư). Từ những định nghĩa và sự phân tích trên, có thể rút ra một số khía cạnh sau : - Thiết chế xã hội là tổ chức của hoạt động xã hội và các quan hệ xã hội, là mô hình hành vi chung cho mọi thành viên trong những lĩnh vực khác nhau của một xã hội nhất định. - Các thiết chế là những nhân tố đặc thù đảm bảo tính kế thừa và tính ổn định nhất định của những mối liên hệ và những mối quan hệ trong khuôn khổ của một tổ chức xã hội nhất định, là biểu hiện vật chất của các giá trị và chuẩn mực xã hội, là cơ quan điều hòa việc tuân theo các chuẩn mực xã hội của các thành viên. - Thiết chế là một cấu trúc và một chức năng. Thiết chế xã hội được hình thành và thiết lập là do những nhu cầu khách quan của xã hội. Thiết chế xã hội không chỉ là những mô hình của hành vi, mà còn là công cụ để kiểm soát và quản lý xã hội. Chính những mâu thuẫn hành động cùng với những quy tắc, “điều luật” hệ thống giá trị, chuẩn mực mà thiết chế dựa vào và thiết lập, là những “vật chuẩn” để điều chỉnh mọi hành vi của con người, khuyến khích cá đáng có, cái nên làm, đồng thời điều chỉnh những hành vi sai lệch với thiết chế. Nhờ đó mà con người có thể soi vào để thường xuyên điều chỉnh hành vi của mình, làm cho hành vi đó luôn luôn phù hợp với những yêu cầu mà thiết chế đòi hỏi, đồng thời tìm mọi cách để tránh khỏi những lệch lạc, gây phương hại đến trật tự xã hội mà thiết chế phải duy trì. Như vậy không thể đồng nhất thiết chế xã hội với cơ chế, quy chế, thể chế xã hội. Theo từ đển Tiếng Việt xuất bản năm 1996 thì cơ chế là cách thức, theo đó một quá trình nào đó được thực hiện ( cơ chế tập trung quan liêu, cơ chế thị trường.... Quy chế là tổng thể nói chung những quy định thành chế độ để mọi người thực hiện trong những hoạt động nhất định. Thể chế là là những quy định luật lệ của một chế độ xã hội, buộc mọi người phải tuân theo. Theo một ý nghĩa nào đó thể chế có nội dung gần trùng với thiết chế. Tuy nhiên, theo góc độ tiếp cận xã hội học, thiết chế là một khái niệm rộng hơn. Ngoài những thiết chế hình thức ( như thiết chế chính trị, thiết chế kinh tế, thiết chế pháp luật...) còn có sự hiện diện của cả những thiết chế phi hình thức (như thiết chế đạo đức, thiết chế dư luận xã hội). Ở những thiết chế này, cơ sở nội dung của nó không phải là những điều luật chính thức mà lại là những chuẩn mực, giá trị có sẵn lưu truyền trong văn hóa, truyền thống. Lịch sử đã từng biết đến sức mạnh to lớn của những phong tục tập quán, những thiết chế xã hội phi hình thức trong việc điều chỉnh và kiểm soát hành vi của con người trong các xã hội tiền đề pháp luật cũng như trong xã hội có sự đan xen giữa xã hội truyền thống và xã hội hiện đại. 3 II. Các đặc điểm cơ bản của thiết chế : 1. Đối tượng nghiên cứu để thoả mãn nhu cầu của thiết chế. Khi các thiết chế được hình thành thì có nghĩa nó được đại đa số các cá nhân trong xã hội thừa nhận, cho dù mức độ của cá nhân đó tham gia đến mức độ nào. Tuy nhiên, những cá nhân đó không thể không thừa nhận sự cần thiết của thiết chế nhà nước trong xã hội. Thiết chế liên quan đến khuôn mẫu,tác phong, hệ vai trò của các cá nhân.Từ đó ta có thể thấy đối tượng nghiên cứu thoả mãn nhu cầu của thiết chế là tập hợp những khuôn mẫu, những chuẩn mực được đại đa số mọi người thừa nhận và coi đó như một khuôn mẫu định hướng cho hành động. Hay nói một cách khác, đối tượng để thoả mãn nhu cầu của thể chế là các vị thế vai trò có chủ đích nhằm thoả mãn nhu cầu của xã hội. Nhìn chung chúng ta đều thấy, thiết chế nảy sinh và tồn tại là do nó đáp ứng nhu cầu của xã hội. Nhu cầu của xã hội chính là lý do hình thành và cũng chính là động lực thúc đẩy sự phát triển của nó. Theo Lenski trong xã hội có những nhu cầu cơ bản như: 1 - Giao tiếp giữa những thành viên 2 - Sản xuất và sản phẩm dịch vụ 3 - Phân phối các sản phẩm và dịch vụ hàng 4 - Bảo vệ các thành viên khỏi sự tác động của thiên nhiên như các thảm hoạ của tụ nhiên các loại dịch bệnh. 5 - Thay thế các thành viên : cả sự tái sinh sản sinh học và thay thế văn hóa thông qua quá trình xã hội hóa. 6 - Kiểm soát hành vi của các thành viên. 2.Hệ thống những giá trị chung của thiết chế. Các thiết chế bao gồm các giá trị cơ bản mà chính các giá trị này được hầu hết các cá nhân thừa nhận. Chúng ta có thể coi giá trị là những quan niệm về cái đúng, cái chuẩn mực mong muốn ảnh hưởng tới hành vi lựa chọn, hay giá trị là cái mà cá nhân muốn hướng tới. Con người đã tiếp nhận những hệ thống giá trị từ khi còn nhỏ thông qua gia đình, nhà trường, các mối quan hệ bạn bè, các phương tiện truyền thông hay tự bản thân mình tìm hiểu và học hỏi. Chính những giá trị mà con người đã tích góp và học hỏi đó đã một phần giúp hình thành nhân cách của mình. Tuy nhiên do hoàn cảnh sống, môi trường giáo dục do ảnh hưởng của các nền văn hoá khác nhau mà mỗi cá nhân lại có những hệ giá trị riêng. Những giá trị ấy có thể phù hợp và được xã hội chấp nhận nhưng cũng có thể ngược lại. Thông qua những hệ thống giá trị mà con người có thể hoà nhập với xã hội, với cộng đồng. Nhưng chúng ta vẫn cần chú ý đến sự phân biệt của chuẩn mực và giá trị. Nếu giá trị là 4 cái quan trọng nhất thì chuẩn mực là các tiêu chuẩn hướng dẫn và sự mong đợi đối với hành vi của con người. Hệ thống những giá trị chung trong thiết chế gồm có: - Giá trị của toàn xã hội - Giá trị của hệ thống xã hội nhỏ như: nhóm, tổ chức... - Giá trị của từng địa vị xã hội. 3.Mô hình văn hoá và sự ổn định của các quan hệ xã hội Các quan hệ được thiết lập trong thiết chế đó tỏ ra khá bền vững, các khuôn mẫu hành vi được hình thành trong thiết chế trở thành một phần truyền thống văn hoá của một cộng đồng xã hội. VD: dấu ấn của gia đình truyền thống ảnh hưởng sâu sắc đến gia đình hiện đại ở các xã hội phương Đông Mỗi một thiết chế đều sử dụng biểu tượng như một dấu hiệu để nhắc nhở về sự hiện hữu của mình.Các biểu tượng đó có thể là vật chất hoặc tinh thần nhu : quốc kỳ, quốc ca, nhà thờ... Ta cũng có thể thấy tính vĩnh cửu của các thiết chế qua vai trò tương quan mà con người thể hiện trong nền văn hoá, qua các truyền thống. Tuy nhiên khi xã hội phát triển hay khi trong xã hội có những cải cách thì tất nhiên thiết chế cũng sẽ phải thay đổi để phù hợp cùng sự phát triển đó nhưng nó sẽ diễn ra chậm chạp hơn so với các yếu tố khác. Mỗi một thiết chế khi hình thành và phát triển thì đều mang một mục đích là nhằm thoả mãn những nhu cầu của xã hội. Bản thân thiết chế có sự độc lập tương đối và có tác động trở lại với cơ sở kinh tế-xã hội, các thiết chế vẫn ổn định và mang tính bền vững. Mỗi thiết chế lại có một đối tượng nghiên cứu riêng để hướng đến phục vụ nhằm đáp ứng những nhu cầu xã hội chuyên biệt liên quan đến đối tượng. Để làm được điều đó mỗi thiết chế lại có một loại chức năng riêng biệt. 4.Loại hình chủ đạo của thiết chế. Thiết chế xã hội bao gồm nhiều loại thiết chế khác như thiết chế văn hoá, thiết chế gia đình, thiết chế giáo dục, thiết chế kinh tế… Mỗi loại thiết chế lại đảm nhiệm những chức năng và mang tính đặc trưng của từng loại thiết chế Trong hệ thống xã hội mỗi loại thiết chế lại có những vai trò và vị trí riêng và nó hoạt động ở các phương diện khác nhau trong các lĩnh vực của xã hội. VD : thiết chế văn hoá có trong nhiều lĩnh vực như trong văn hoá kinh tế, văn hoá giáo dục, văn hóa pháp luật, văn hoá ứng xử,… Hiện nay ở các cơ sở có 6 loại hình hệ thống thiết chế văn hoá đang tham gia tích cực công cuộc tuyên truyền phổ biến pháp luật như: hệ thống nhà văn hoá xã, phường, thị trấn, hệ 5 thống các trạm phát thanh, mạng lưới loa phát thanh công cộng, hệ thống thư viện cộng đồng, tủ sách pháp luật, hệ thống các câu lạc bộ như câu lạc bộ phụ nữ, câu lạc bộ cựu chiến binh…, hệ thống cụm cổ động chính trị, như các hội chiếu bóng của Bộ Văn hoá đang thực hiện chương trình “đưa văn hoá về cơ sở ” 5.Tính chủ đạo cao của thiết chế : Như chúng ta biết các thiết chế xã hội được tổ chức thành các cơ cấu, những yếu tố hình thành nên kết cấu co xu hướng gắn kết lại với nhau bổ sung cho nhau. Khi các thiết chế càng phức tạp thì xã hội càng phát triển và qua đó nó xác định vai trò của cá nhân một cách rõ ràng hơn. Mỗi thiết chế tự nó được cấu trúc ở mức cao và được tổ chức xung quanh hệ thống các giá trị chuẩn mực quy tắc các khuôn mẫu đã được xã hội thừa nhận. Mỗi một thiết chế có tầm bao quát rộng đến mức các hoạt động của nó chiếm một vị trí trung tâm trong xã hội. Khi có sự thay đổi trong thiết chế có thể dẫn đến sự thay đổi đáng kể trong các lĩnh vực khác. Các thiết chế thường liên kết chặt chẽ với nhau, thâm nhập vào nhau, nhưng chúng vẫn có tính tách biệt tương đối với nhau, điều đó cũng có thể hiểu các định chế thường liên kết với nhau tạo thành cơ cấu. Thông qua vai trò xã hội và các quan hệ xã hội mà nó đã tạo ra các tác phong và một loạt những chuẩn mực mà mọi người hướng theo nó để hoạt động. Mỗi một thiết chế ra đời là nhằm thoả mãn nhu cầu của xã hội, và trong một điều kiện nhất định con người tuân theo nó mà hành động - những hành động được xã hội chấp nhận. 6.Hệ tư tưởng của thiết chế. Mỗi thiết chế đều có chuẩn mực để quy định các thành viên trong thiết chế phải ứng xử như thế nào. Mặt khác, thiết chế có hệ tư tưởng riêng để giải thích tại sao phải hành động như thế. Hệ tư tưởng là hệ thống các tư tưởng liên kết lại với nhau để giải thích cho sự tồn tại hợp lý của đạo đức, quyền lợi kinh tế, chính trị của một nhóm xã hội đặc thù như hệ tư tưởng chính trị bao giờ cũng bênh vực cho giai cấp cầm quyền, hệ tư tưởng tôn giáo luôn ủng hộ cho niềm tin vào thần linh, tôn giáo… Hệ tư tưởng của các thiết chế xã hội luôn luôn chi phối, liên kết với nhau và đảm bảo tốt cho sự phát triển của cả hệ thống xã hội. Thông qua tư tưởng thiết chế mà mỗi cá nhân có thể tham gia vào các nhóm, các tổ chức, thích nghi với sự phát triển của xã hội một cách nhanh chóng. Trong xã hội tuỳ thuộc vào địa vị xã hội hay giai cấp mà mỗi cá nhân có thể tin vào một hay nhiều hệ thống tư tưởng, tôn giáo, hoặc tuỳ thuộc vào từng hoàn cảnh mà có thể hành xử theo một tác động của một học thuyết tư tưởng, tôn giáo nào đó. Khi một quan niệm, một niềm tin được duy trì và trở thành thói quen, thành tập tục thì nó có sức sống riêng khó thay đổi. Các học thuyết tư tưởng tôn giáo có một sức sống dai dẳng bền bỉ cũng chính là vì lý do đó. Một khi các hệ thống quan niệm, tư tưởng đã ăn sâu vào tiềm thức của con 6 người thì nó sẽ quay lại tác động vào môi trường. Qua đó, nó là cơ sở cho hành động, nhận thức, tác động vào thế giới xung quanh, đồng thời nó cũng là cơ sở để mỗi cá nhân yêu cầu người khác biểu hiện hành động theo cách suy nghĩ của chính họ. Mỗi người khi đó trở thành một lực lượng tác động trở lại các hệ tư tưởng để thay đổi hình thức biểu hiện, hay tính linh hoạt của những hệ tư tưởng trong cuộc sống. Tuy thế các hệ tư tưởng muốn có sức sống lâu bền thì chúng cần tác động trực tiếp đến nhận thức của con người, phải đi được vào lòng người, và nó phải có giá trị trong thực tiễn cuộc sống và trong nhận thức của mỗi con người. 7. Xu hướng trở thành tiêu điểm của những vấn đề xã hội. Các thiết chế được thiết lập trên cơ sở của những nhu cầu xã hội cơ bản, bởi vậy, bất kỳ sự đổ vỡ nào của một thiết chế xã hội nào cũng đều trở thành những vấn đề xã hội nghiêm trọng. VD : nạn thất nghiệp là vấn đề của thiết chế kinh tế, nạn bỏ học giữa chừng là vấn đề của thiết chế giáo dục, tỷ lệ tội phạm tăng là vấn đề của thiết chế pháp luật, sự suy sụp hay tan vỡ của hôn nhân là vấn đề của thiết chế gia đình... III. Chức năng của thiết chế : a. Điều hòa và kiểm soát : Sự kiểm soát nhằm đưa các hành vi của các cá nhân, các nhóm vào các khuôn mẫu đã được xã hội thừa nhận là đúng, dùng các chế tài để đẩy lùi các hành vi lệch chuẩn vào khuôn phép hay trật tự. Chức năng kiểm soát xã hội là tạo ra những điều kiện cho sự bền vững, ổn định và trật tự xã hội, mặt khác tạo ra những thay đổi mang tính hợp lý và tích cực (thay đổi trong khuôn khổ được phép, không ảnh hưởng đến độ bền vững và tính ổn định của hệ thống xã hội). Kiểm soát xã hội cần phải có tính mềm dẻo, linh hoạt, như vậy mới có thể nhận biết được ý nghĩa của những sai lệch chuẩn mực. Những sai lệch nào có tính tiêu cực, đe dọa phá hoại sự ổn định và trật tự xã hội, còn những sai lệch nào là mầm mống của sự tiến bộ, của sự phát triển. Nếu như kiểm soát xã hội không thể kiểm soát và phân định được vấn đề này thì nó sẽ triệt tiêu mọi nhân tố tích cực của sự phát triển xã hội. Thông qua quá trình xã hội hóa để các cá nhân tiếp nhận cơ chế kiểm soát xã hội. Trong quá trình này, các cá nhân, một mặt tiếp nhận cách hành động, cách nhận thức như thế nào là chuẩn, là đúng, mặt khác các cá nhân có thể thực hiện sự tự kiểm soát xã hội (điều chỉnh hành vi của mình bằng cách so sánh, đối chiếu hành vi của mình với các giá trị chuẩn mực đã tiếp nhận). Nhờ đó, các cá nhân có thể thực hiện tốt những yêu cầu của xã hội với các vai trò mà họ đảm nhận. Kiểm soát xã hội biểu hiện trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội để các cá nhân tiếp nhận cơ chế kiểm soát xã hội dưới dạng kiểm soát chính thức và kiểm soát không chính thức. Trong đó: 7 - Kiểm soát chính thức gắn với hoạt động của một số tổ chức chính thức, với các quy định và luật lệ để ép buộc các tổ chức phải tuân theo. Những tổ chức này là những tổ chức thi hành pháp luật như công an, tòa án, viện kiểm sát, trại giam… - Kiểm soát phi chính thức thường gắn liền với các tổ chức xã hội không chính thức và các nhóm sơ cấp, gắn liền với phản ứng xã hội (thái độ tán thành, ủng hộ hay chê trách, phản đối) không công khai và chỉ phổ biến trong các nhóm nhỏ. Trường hợp thiết chế xã hội thực hiện các chức năng điều hòa và kiểm soát xã hội không đúng cách thức có thể dẫn đến các tác động tiêu cực đối với xã hội. Khi sự điều hòa và kiểm soát quá mạnh sẽ triệt tiêu mọi sáng tạo của cá nhân, đồng thời thiết chế sẽ mang tính bảo thủ. Tính bảo thủ này thể hiện ở chỗ nó cố gắng duy trì những khuôn mẫu tác phong đã lạc hậu, lỗi thời. Những thiết chế này sẽ cản trở sự tiến bộ của xã hội.[1;160] Sự kiểm soát và điều chỉnh quá mạnh của thiết chế xã hội khiến cho cá nhân đôi khi cảm thấy mất đi bản tính của mình. Những người chống lại sự kiểm soát của thiết chế đều bị coi là lệch lạc. Tuy nhiên khi thiết chế biến đổi thì những con người này có thể không còn là lệch lạc nữa. Đơn cử ở trong xã hội phong kiến việc tái giá của phụ nữ góa chồng bị coi là sai trái, không được phép. Nhưng trong xã hội ngày nay lại là bình thường, không bị phê phán.[1;161] Sự kiểm soát và điều chỉnh quá yếu của thiết chế có thể dẫn đến tình trạng các cá nhân, nhóm xã hội không thực hiện tốt vai trò, thậm chí trốn tránh trách nhiệm của mình. Kết quả hoạt động của từng phần hoặc