Giáo trình Kinh tế chính trị
1. Chủ nghĩa trọng thương Là hình thái đầu tiên của hệ tư tưởng tư sản trong lĩnh vực KTCT xuất hiện từ giữa thế kỷ XV đến giữa thế kỷ XVII. Đối tượng nghiên cứu của chủ nghĩa trọng thương là lĩnh vữc lưu thông; lấy tiền là nội dung căn bản của của cải, là tài sản thật sự của một quốc gia. Chủ nghĩa trọng thương coi trọng chủ yếu là thương nghiệp vì vậy họ chưa đi sâu nghiên những lĩnh vực khác, vì vậy khi sự phát triển cao hơn của chủ nghĩa tư bản đã dần dần làm cho luận điểm của chủ nghĩa trọng thương trở lên lỗi thời nhường cho học thuyết kinh tế mới. 2. Chủ nghĩa trọng nông. Do những hạn chế của tư tưởng trọng thương vào giữa thế kỷ XVIII một trường phái tư tưởng mới xuất hiện (chủ yếu ở Pháp) đó là chủ nghĩa trọng nông Chủ nghĩa trọng nông đã chuyển đổi đối tượng nghiên cứu từ lĩnh vực lưu thông sang lĩnh vực sản xuất tìm nguồn gốc của của cải và giàu có của xã hội từ lĩnh vực sản xuất (lĩnh vực sản xuất nông nghiệp). Coi sản phẩm thặng dư là phần chênh lệch giữa tổng sản phẩm và chi phí sản xuất, còn lưu thông và trao đổi không tạo ra giá trị. Tuy nhiên, chủ nghĩa trọng nông còn nhiều hạn chế, chỉ coi nông nghiệp là ngành sản xuất duy nhất, chưa thấy được vai trò quan trọng của công nghiệp, chưa thấy được mối quan hệ thống nhất giữa sản xuất và lưu thông. 3. Kinh tế chính trị tư sản cổ điển - KTCT cổ điển ở Anh mà đại biểu là: Uyliam Pétti, Ađam Xmít, Đavít Ricácđô. Các nhà KTCT tư sản cổ điển đã chuyển đối tượng nghiên cứu từ lĩnh vực lưu thông sang lĩnh vực sản xuất, (nhưng khác với tư tưởng trọng nông chủ yếu nghiên cứu ở lĩnh vực nông nghiệp). Họ cho rằng: "lao động làm thuê của những người nghèo là nguồn gốc làm giàu vô tận cho những người giàu". Đặc biệt Ricácđô đã nhận rõ: Lợi nhuận bắt nguồn từ lao động không được trả công. Đây là lần đầu tiên các nhà KTCT tư sản cổ điển đã áp dụng phương pháp trứu tượng hóa khoa học để nghiên cứu KTCT Tuy nhiên họ có những hạn chế nhất định coi quy luật kinh tế của chủ nghĩa tư bản là quy luật tự nhiên tuyệt đối vĩnh viễn KT học hiện đại ở các nước tư bản: lại tách chính trị khỏi kinh tế, biến KT học chính trị thành kinh tế học đơn thuần, che đậy quan hệ sản xuất và muân thuẫn giai cấp.