Thời đại ngày nay, trong bối cảnh và điều kiện hội nhập kinh tếquốc tế, sựkết 
hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là là động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
và sựphát triển toàn diện của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc. Tính phụthuộc lẫn nhau vềkinh 
tếcũng nhưvềcác lĩnh vực khác là nét phổbiến của thếgiới hiện đại. Khi trình độkhoa 
học phát triển nhanh với tốc độchưa từng cóvà đã vượt ra khỏi phạm vi của mỗi quốc 
gia, đầu tưphát triển kinh tếtrởthành một yêu cầuphát triển khách quan mang tính quy 
luật. Đó cũng là vấn đềtrọng tâm trong chiến lược phát triển kinh tếcủa nước ta và nhiều 
nước khác trên thếgiới. 
Thực hiện đường lối xây dựng nền kinh tếxã hội chủnghĩa của Đảng với đặc 
điểm và khảnăng của nền kinh tếnước ta trong chặng đường đầu tiên của chặng đường 
quá độlên chủnghĩa xã hộ, nhằm mởrộng hợp tá kinh tếvới nước ngoài, phát triển kinh 
tếquốc dân, đẩy mạnh xuất khẩu trên cơsởkhai thác có hiệu quảtài nguyên, lao động và 
các tiềm năng của đất nước. Việc khuyến khích và bảo đảm dầu tưtrong và ngoài nước là 
một vấn đềquan trọng góp phần thúc đẩy nhanh tốc độtăng trưởng của nền kinh tếnước 
ta hiện nay, đặc biệt là việc công nhận và thừa nhận các hình thức đầu tưnước ngoài. 
Trên thếgiới, đầu tưnước ngoài không phải là vấn đềmới mẻ, đặc biệt là ở
những nước có nền kinh tếthịtrường đang phát triển. Ởnước ta, đầu tưnước ngoài đến 
nay vẫn được coi là mới mẻcảvềhình thức và nội dung. 
Về đầu tư, trước đây chúng ta phân chia thành hai loại đầu tư: đầu tưtrong nước 
và đầu tưnước ngoài. Đầu tưtrong nước được điều chỉnh bằng Luật khuyến khích và đầu 
tưtrong nước. Đầu tưnước ngoài được điều chỉnh bằng Luật đầu tưnước ngoài tại Việt 
nam. Hiện nay, Quốc hội đã ban hành Luật Đầu tưnăm 2005, văn bản Luật này áp dụng 
chung cho các hoạt động đầu tưtrong và ngoài nước (gọi là Luật đầu tưchung). 
Luật Đầu tưchung (ĐTC) là một trong hai đạo luật kinh doanh quan trọng (cùng với Luật 
Doanh nghiệp thống nhất) để đẩy nhanh tốc độphát triển khu vực kinh tếtưnhân cũng 
như đầu tưnước ngoài và góp phần kích thích tăng trưởng kinh tế. Luật Đầu tưnăm 2005
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 69 trang
69 trang | 
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 4440 | Lượt tải: 5 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giáo trình Luật đầu tư, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 Giáo trình Pháp luật về đầu tư  
PHẦN I 
GIỚI THIỆU LUẬT ĐẦU TƯ VÀ NỘI DUNG 
CƠ BẢN CỦA LUẬT ĐẦU TƯ 
CHƯƠNG 1 
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐẦU TƯ VÀ LUẬT ĐẦU TƯ 
 I. Khái quát chung về đầu tư 
1. Vai trò, mục đích của đầu tư 
 Thời đại ngày nay, trong bối cảnh và điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, sự kết 
hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là là động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế 
và sự phát triển toàn diện của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc. Tính phụ thuộc lẫn nhau về kinh 
tế cũng như về các lĩnh vực khác là nét phổ biến của thế giới hiện đại. Khi trình độ khoa 
học phát triển nhanh với tốc độ chưa từng cóvà đã vượt ra khỏi phạm vi của mỗi quốc 
gia, đầu tư phát triển kinh tế trở thành một yêu cầuphát triển khách quan mang tính quy 
luật. Đó cũng là vấn đề trọng tâm trong chiến lược phát triển kinh tế của nước ta và nhiều 
nước khác trên thế giới. 
 Thực hiện đường lối xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa của Đảng với đặc 
điểm và khả năng của nền kinh tế nước ta trong chặng đường đầu tiên của chặng đường 
quá độ lên chủ nghĩa xã hộ, nhằm mở rộng hợp tá kinh tế với nước ngoài, phát triển kinh 
tế quốc dân, đẩy mạnh xuất khẩu trên cơ sở khai thác có hiệu quả tài nguyên, lao động và 
các tiềm năng của đất nước. Việc khuyến khích và bảo đảm dầu tư trong và ngoài nước là 
một vấn đề quan trọng góp phần thúc đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế nước 
ta hiện nay, đặc biệt là việc công nhận và thừa nhận các hình thức đầu tư nước ngoài. 
 Trên thế giới, đầu tư nước ngoài không phải là vấn đề mới mẻ, đặc biệt là ở 
những nước có nền kinh tế thị trường đang phát triển. Ở nước ta, đầu tư nước ngoài đến 
nay vẫn được coi là mới mẻ cả về hình thức và nội dung. 
 Về đầu tư, trước đây chúng ta phân chia thành hai loại đầu tư: đầu tư trong nước 
và đầu tư nước ngoài. Đầu tư trong nước được điều chỉnh bằng Luật khuyến khích và đầu 
tư trong nước. Đầu tư nước ngoài được điều chỉnh bằng Luật đầu tư nước ngoài tại Việt 
nam. Hiện nay, Quốc hội đã ban hành Luật Đầu tư năm 2005, văn bản Luật này áp dụng 
chung cho các hoạt động đầu tư trong và ngoài nước (gọi là Luật đầu tư chung). 
Luật Đầu tư chung (ĐTC) là một trong hai đạo luật kinh doanh quan trọng (cùng với Luật 
Doanh nghiệp thống nhất) để đẩy nhanh tốc độ phát triển khu vực kinh tế tư nhân cũng 
như đầu tư nước ngoài và góp phần kích thích tăng trưởng kinh tế. Luật Đầu tư năm 2005 
 Giáo trình Pháp luật về đầu tư  
được ban hành đã thay thế Luật Khuyến khích đầu tư trong nước và Luật Đầu tư nước 
ngoài. 
 Quốc hội ban hành Luật Đầu tư và các văn bản hướng dẫn thi hành thực hiện các mục 
đích sau: 
 1. Thu hút nguồn vốn đầu tư trong nước nhằm thúc đẩy tốc độ phát triển kinh tế 
khu vực kinh tế tư nhân cũng như đầu tư ra nước ngoài, góp phần kích thích tăng trưởng 
kinh tế. 
 2. Góp phần tạo khuôn khổ pháp lý thống nhất và phù hợp với thông lệ quốc tế 
cho các hoạt động đầu tư ở Việt Nam và từ Việt Nam ra nước ngoài. 
3. Khai thác có hiệu quả tài nguyen của đất nước, tạo thêm công ăn việc làm, đẩy mạnh 
hoạt động đầu tư, tăng tích luỹ cho sự nghiệp công nghiệp hoá đất nước. 
 4. Nhanh chóng tạo được chỗ đứng vững chắc của nước ta trong phân công lao 
động quốc tế, tạo được thế mạnh trên thị trường quốc tế. 
 2. Khái niệm đầu tư 
Khoản1 Điều 3 Luật đầu tư năm 2005 quy định: 
 Đầu tư là việc nhà đầu tư bỏ vốn bằng các loại tài sản hữu hình hoặc vô hình để hình 
thành tài sản tiến hành các hoạt động đầu tư theo quy định của Luật này và các quy định 
khác của pháp luật có liên quan. 
Hoạt động đầu tư là hoạt động của nhà đầu tư trong quá trình đầu tư bao gồm các khâu 
chuẩn bị đầu tư, thực hiện và quản lý dự án đầu tư. 
Có hai loại đầu tư: là đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp. 
 Đầu tư trực tiếp là hình thức đầu tư do nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư và tham gia quản lý hoạt 
động đầu tư. 
 Đầu tư gián tiếp là hình thức đầu tư thông qua việc mua cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu, 
các giấy tờ có giá khác, quỹ đầu tư chứng khoán và thông qua các định chế tài chính 
trung gian khác mà nhà đầu tư không trực tiếp tham gia quản lý hoạt động đầu tư. 
 3. Các hình thức đầu tư. 
Theo Điều 21 Luật Đầu tư năm 2005 có các hình thức đầu tư: đầu tư trực tiếp và đầu tư 
gián tiếp. 
 Giáo trình Pháp luật về đầu tư  
a. Đầu tư trực tiếp 
Theo Khoản 2 Luật đầu tư, là hình thức đầu tư do nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư và tham gia 
quản lý hoạt động đầu tư. 
Điều 21 Luật đầu tư quy định, Đầu tư trực tiếp bao gồm các hình thức cụ thể sau: 
1. Thành lập tổ chức kinh tế 100% vốn của nhà đầu tư trong nước hoặc 100% vốn của 
nhà đầu tư nước ngoài. 
Căn cứ vào các hình thức đầu tư quy định tại Điều 21 của Luật này, nhà đầu tư được đầu 
tư để thành lập các tổ chức kinh tế sau đây: 
a) Doanh nghiệp tổ chức và hoạt động theo Luật doanh nghiệp; 
b) Tổ chức tín dụng, doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm, quỹ đầu tư và các tổ chức tài 
chính khác theo quy định của pháp luật; 
c) Cơ sở dịch vụ y tế, giáo dục, khoa học, văn hóa, thể thao và các cơ sở dịch vụ khác có 
hoạt động đầu tư sinh lợi; 
d) Các tổ chức kinh tế khác theo quy định của pháp luật. 
 Ngoài các tổ chức kinh tế quy định tại khoản 1 Điều này, nhà đầu tư trong nước được 
đầu tư để thành lập hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã tổ chức và hoạt động theo Luật hợp 
tác xã; hộ kinh doanh theo quy định của pháp luật. 
2. Thành lập tổ chức kinh tế liên doanh giữa các nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư 
nước ngoài. 
Nhà đầu tư nước ngoài liên kết với nhà đầu tư trong nước, bao gồm các doanh nghiệp nhà 
nước, doanh nghiệp tư nhân, các loại hình công ty như công ty trách nhiệm hữu hạn (một 
thành viên và hai thành viên trở lên), công ty cổ phần… 
Việc liên kết đó đã tạo ra các tổ chức kinh tế liên doanh giữa một bên là doanh nghiệp 
trong nước và một bên là nhà đầu tư nước ngoài. 
3. Đầu tư theo hình thức hợp đồng BCC (Hợp đồng hợp tác kinh doanh), hợp đồng BOT ( 
Hợp đồng xây dựng- kinh doanh - chuyển giao), hợp đồng BTO (Hợp đồng xây dựng - 
chuyển giao – kinh doanh), hợp đồng BT (Hợp đồng xây dựng - chuyển giao). 
- Hợp đồng BCC (Hợp đồng hợp tác kinh doanh): Hợp đồng hợp tác kinh doanh (sau đây 
gọi tắt là hợp đồng BCC) là hình thức đầu tư được ký giữa các nhà đầu tư nhằm hợp tác 
kinh doanh phân chia lợi nhuận, phân chia sản phẩm mà không thành lập pháp nhân. 
 Giáo trình Pháp luật về đầu tư  
- Hợp đồng BOT ( Hợp đồng xây dựng- kinh doanh - chuyển giao): Hợp đồng hợp tác 
kinh doanh (sau đây gọi tắt là hợp đồng BCC) là hình thức đầu tư được ký giữa các nhà 
đầu tư nhằm hợp tác kinh doanh phân chia lợi nhuận, phân chia sản phẩm mà không 
thành lập pháp nhân 
- Hợp đồng BTO (Hợp đồng xây dựng - chuyển giao – kinh doanh):Hợp đồng xây dựng - 
chuyển giao - kinh doanh (sau đây gọi tắt là hợp đồng BTO) là hình thức đầu tư được ký 
giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư để xây dựng công trình kết cấu hạ 
tầng; sau khi xây dựng xong, nhà đầu tư chuyển giao công trình đó cho Nhà nước Việt 
Nam; Chính phủ dành cho nhà đầu tư quyền kinh doanh công trình đó trong một thời hạn 
nhất định để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận. 
- Hợp đồng BT (Hợp đồng xây dựng - chuyển giao):Hợp đồng xây dựng - chuyển giao 
(sau đây gọi tắt là hợp đồng BT) là hình thức đầu tư được ký giữa cơ quan nhà nước có 
thẩm quyền và nhà đầu tư để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng; sau khi xây dựng 
xong, nhà đầu tư chuyển giao công trình đó cho Nhà nước Việt Nam; Chính phủ tạo điều 
kiện cho nhà đầu tư thực hiện dự án khác để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận hoặc thanh 
toán cho nhà đầu tư theo thoả thuận trong hợp đồng BT. 
Điều 23 Luật Đầu tư quy định: Nhà đầu tư được ký kết hợp đồng BCC để hợp tác sản 
xuất phân chia lợi nhuận, phân chia sản phẩm và các hình thức hợp tác kinh doanh khác. 
Đối tượng, nội dung hợp tác, thời hạn kinh doanh, quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm của 
mỗi bên, quan hệ hợp tác giữa các bên và tổ chức quản lý do các bên thỏa thuận và ghi 
trong hợp đồng. 
Hợp đồng BCC trong lĩnh vực tìm kiếm, thăm dò, khai thác dầu khí và một số tài nguyên 
khác dưới hình thức hợp đồng phân chia sản phẩm được thực hiện theo quy định của Luật 
này và các quy định khác của pháp luật có liên quan. 
Nhà đầu tư ký kết hợp đồng BOT, hợp đồng BTO và hợp đồng BT với cơ quan nhà nước 
có thẩm quyền để thực hiện các dự án xây dựng mới, mở rộng, hiện đại hóa và vận hành 
các dự án kết cấu hạ tầng trong lĩnh vực giao thông, sản xuất và kinh doanh điện, cấp 
thoát nước, xử lý chất thải và các lĩnh vực khác do Thủ tướng Chính phủ quy định. 
Chính phủ quy định lĩnh vực đầu tư, điều kiện, trình tự, thủ tục và phương thức thực hiện 
dự án đầu tư; quyền và nghĩa vụ của các bên thực hiện dự án đầu tư theo hình thức hợp 
đồng BOT, hợp đồng BTO và hợp đồng BT. 
4. Đầu tư phát triển kinh doanh. 
Nhà đầu tư được đầu tư phát triển kinh doanh thông qua các hình thức sau đây: 
- Mở rộng quy mô, nâng cao công suất, năng lực kinh doanh; 
- Đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm ô nhiễm môi trường. 
 Giáo trình Pháp luật về đầu tư  
5. Mua cổ phần hoặc góp vốn để tham gia quản lý hoạt động đầu tư. 
Nhà đầu tư được góp vốn, mua cổ phần của các công ty, chi nhánh tại Việt Nam . Tỷ lệ 
góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài đối với một số lĩnh vực, ngành, nghề do 
Chính phủ quy định. 
6. Đầu tư thực hiện việc sáp nhập và mua lại doanh nghiệp. 
Nhà đầu tư được quyền sáp nhập, mua lại công ty, chi nhánh. 
Điều kiện sáp nhập, mua lại công ty, chi nhánh theo quy định của Luật này, pháp luật về 
cạnh tranh và các quy định khác của pháp luật có liên quan. 
7. Các hình thức đầu tư trực tiếp khác. 
b. Đầu tư gián tiếp 
Theo Khoản 3 Điều 3 Luật Đầu tư Đầu tư gián tiếp là hình thức đầu tư thông qua việc 
mua cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu, các giấy tờ có giá khác, quỹ đầu tư chứng khoán và 
thông qua các định chế tài chính trung gian khác mà nhà đầu tư không trực tiếp tham gia 
quản lý hoạt động đầu tư. 
Theo quy định của Luật đầu tư, nhà đầu tư thực hiện đầu tư gián tiếp tại Việt Nam theo 
các hình thức sau đây: 
Thứ nhất, Mua cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu và các giấy tờ có giá khác; 
Thứ hai, Thông qua quỹ đầu tư chứng khoán; 
Thứ ba, Thông qua các định chế tài chính trung gian khác. 
Đầu tư thông qua mua, bán cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu và giấy tờ có giá khác của tổ 
chức, cá nhân và thủ tục thực hiện hoạt động đầu tư gián tiếp theo quy định của pháp luật 
về chứng khoán và các quy định khác của pháp luật có liên quan. 
Bên cạnh đó, Luật đầu tư năm 2005 đã quy định cụ thể vấn đề đầu tư ra nước ngoài. 
Đầu tư ra nước ngoài là việc nhà đầu tư đưa vốn bằng tiền và các tài sản hợp pháp khác 
từ Việt Nam ra nước ngoài để tiến hành hoạt động đầu tư. 
Luật đầu tư quy định: Nhà đầu tư được đầu tư ra nước ngoài theo quy định của pháp luật 
Việt Nam và của nước tiếp nhận đầu tư. Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động 
đầu tư ra nước ngoài và bảo vệ lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư Việt Nam ở nước ngoài 
theo điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên. Nhà nước 
tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư được tiếp cận các nguồn vốn tín dụng trên cơ sở 
 Giáo trình Pháp luật về đầu tư  
bình đẳng, không phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế; bảo lãnh vay vốn đối với 
các dự án đầu tư ra nước ngoài trong các lĩnh vực đặc biệt khuyến khích đầu tư. 
Luật đầu tư quy định cụ thể lĩnh vực khuyến khích, cấm đầu tư ra nước ngoài. Đó là: Nhà 
nước Việt Nam khuyến khích các tổ chức kinh tế tại Việt Nam đầu tư ra nước ngoài đối 
với những lĩnh vực xuất khẩu nhiều lao động; phát huy có hiệu quả các ngành, nghề 
truyền thống của Việt Nam; mở rộng thị trường, khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên 
tại nước đầu tư; tăng khả năng xuất khẩu, thu ngoại tệ. Nhà nước Việt Nam không cấp 
phép đầu tư ra nước ngoài đối với những dự án gây phương hại đến bí mật, an ninh quốc 
gia, quốc phòng, lịch sử, văn hoá, thuần phong mỹ tục của Việt Nam. 
Để được đầu tư ra nước ngoài theo hình thức đầu tư trực tiếp, nhà đầu tư phải có các điều 
kiện sau đây: 
 a) Có dự án đầu tư ra nước ngoài; 
b) Thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước Việt Nam ; 
c) Được cơ quan nhà nước quản lý đầu tư cấp Giấy chứng nhận đầu tư. 
Việc đầu tư ra nước ngoài theo hình thức đầu tư gián tiếp phải tuân thủ các quy định của 
pháp luật về ngân hàng, chứng khoán và các quy định khác của pháp luật có liên quan. 
Việc sử dụng vốn nhà nước để đầu tư ra nước ngoài phải tuân thủ quy định của pháp luật 
về quản lý, sử dụng vốn nhà nước. 
 Về thủ tục đầu tư ra nước ngoài, Luật đầu tư căn cứ vào từng dự án cụ thể để quy 
định thủ tục đầu tư . 
 Dự án đầu tư ra nước ngoài được phân loại như sau: 
a) Dự án đăng ký đầu tư: là dự án có quy mô vốn đầu tư dưới mười lăm tỷ đồng Việt 
Nam ; 
b) Dự án thẩm tra đầu tư: là dự án có quy mô vốn đầu tư từ mười lăm tỷ đồng Việt Nam 
trở lên. 
Thủ tục đăng ký và thẩm tra đầu tư được quy định cụ thể như sau: 
Đối với dự án đăng ký đầu tư, nhà đầu tư đăng ký theo mẫu tại cơ quan nhà nước quản lý 
đầu tư để được cấp Giấy chứng nhận đầu tư; 
 Đối với dự án thẩm tra đầu tư, nhà đầu tư nộp hồ sơ theo mẫu tại cơ quan nhà nước quản 
lý đầu tư để thẩm tra cấp Giấy chứng nhận đầu tư. 
 Giáo trình Pháp luật về đầu tư  
Chính phủ quy định cụ thể lĩnh vực khuyến khích, cấm, hạn chế đầu tư ra nước ngoài; 
điều kiện đầu tư, chính sách ưu đãi đối với dự án đầu tư ra nước ngoài; trình tự, thủ tục và 
quản lý hoạt động đầu tư ra nước ngoài. 
II. Khái quát chung về Luật Đầu tư và những nội dung cơ bản của Luật đầu tư. 
 1. Lịch sử ra đời Luật đầu tư. 
 Sau khi đất nước ta thống nhất năm 1975, nhu cầu khôi phục và xây dựng nề knh 
tế bị chiến tranh tàn phá nghiêm trọng đã được Đảng và Nhầ nước ta đặc biệt quan tâm. 
 Về chính sách đầu tư, đặc biệt là vấn đề đầu tư nước ngoài, các văn kiện Đại hội 
Đảng lần thứ IV và Nghị quyết Trung ương lần thứ 24 nhấn mạnh chủ trương phát triển 
kinh tế đất nước, thiết lập và mở rộng quan hhệ giữa nước ta với các nước khác trên thế 
giới trên cơ sở tôn trọng chủ quyền độc lập, bình đẳng và cùng có lợi, tích cực tranh thủ 
điều kiện quốc tế thuận lợi để nhanh chóng xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ 
nghĩa xã hội; tranh thủ vốn và kỹ thuật để tận dụng cho khả năng tiềm tàng về tài nguyên 
và sức lao động của nước ta nhằm nhanh chóng đưa nước ta tiến lên trình độ tiên tiến trên 
thế giới. 
 Từ năm 1984, chính sách phát triển kinh tế trong nước và đầu tư nước ngoài đã có 
những bước tiến rõ rệt tạo tiền đề cho một giai đoạn mới: giai đoạn mở rộng các thành 
phần kinh tế và mở rộng chính sách kinh tế đối ngoại đối với các nước trên thế giới. 
 Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã đổi mới cơ chế kinh tế của Việt Nam, đặc 
biệt đối với đầu tư nước ngoài đã được ghi nhận trong Nghị quyết Đại hội Đảng toàn 
quuốc lần thứVI: “Công bos chính sách khuyến khích đầu tư nước ngoài vào nước ta 
dưới nhiều hình thức, nhất là đối với các ngành và cơ sở đòi hỏi kỹ thuật cao, làm hàng 
xuất khẩu ”. 
 Bước sang thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Đảng và Nhà nước ta nhận thức 
rằng, muốn có sự tăng trưởng kinh tế nhanh chóng thì cần phải tích cực tham gia vào 
phân công lao động quốc tế và gia nhập thị trườg thế giới. Để thực hiện được tiến trình 
này, chúng ta chủ trương mở rộng các chính sách kinh tế đối ngoại, coi phát triển kinh tế 
đối ngoại là tiền đề của sự phát triển, đồng thời là đồn bẩy thúc đẩy quá trình phát triển 
kinh tế-xã hội, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. 
 Bên cạnh mục tiêu tận dụng khai thác các yếu tố bên ngoài nhằm phát huy có hiệu 
quả nguồn lực trong nước đáp ứng phát triển kinh tế, thực hiện chính sách mở cửa một 
cách đồng bộ, phù hợp với hệ thôngd kinh tế mở, mục tiêu đa dạng hoá các hoạt động 
quan hệ đối ngoại, đa phương hoá các quan hệ đối ngoại đang ngày càng được Đảng và 
Nhà nước quan tâm và đưa ra những đường lối, chủ trương đúng đắn là: “tận lực khai 
thác với hiệu quả cao những lợi thế và nguồn lực của đất nước, những điều kiện thuận lợi 
ở trong nước và trong quan hệ đối ngoại, chủ động mở rộngcác hoạt động kinh tế đối 
ngoại đối với các kinh tế quốc dân nhằm góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội 
đã xác định” 
 Giáo trình Pháp luật về đầu tư  
 Một trong những hoạt động kinh tế đối ngọai được coi là trọng điểm đó là hoạt 
động đầu tư trực tiếp nước ngoài. Trong điều kiện tích luỹ từ nền kinh tế còn hạnc hế, 
khả năng tạo ra nguồn hàng xuất khẩu bằng các nguồn lực trong nước còn hạn chế, không 
thông thạo thị trường thế giới, thì việc mở rộng hợp tác kinh doanh với nước ngoài, thu 
hút vốn nước ngoài để khai thác có hiệu quả nguồn lực trong nước, góp phần thực hiện 
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước dưới cac shình thức đầu tư trực tiếp là một tất yếu 
khách quan. 
 Trong nền kinh tế của nước ta, bên cạnh việc khai thác khả năng của các thành 
phần kinh tế tham gia kinh doanh theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo 
định hướng Xã hộiu chủ nghĩa thì việc thu hút đầu tư nước ngoài có ý nghĩa và tầm quan 
trọng chiến lược, là mũi nhọn của kinh tế đối ngoại trong một thời kỳ dài. 
 Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII đã khẳng định nền kinh tế nước ta, về cơ bản 
đã bước ra khỏi khủng hoảng và bước vào thời kỳ phát triển mới: thời kỳ đẩy mạnh công 
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Con đường để thực hiện thành công chủ trương này là 
là khai thác tối đa nguồn lực trong và ngoài nước. Đảng và nhà nước ta đều khẳng định 
coi vốn trong nước là quyết định, vốn ngoài là quan trọng. 
 Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã khẳng định: kinh tế 
có đầu tư nước ngoài là một bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường có 
định hướng Xã hội chỉu nghĩa ở nước ta, được phát triển lâu dài, bình đẳng với các thành 
phần kinh tế khác. Thu hút đầu tư nước ngoìa là vấn đề quan trọng góp phần khai thác 
các nguồn lực trong nước, mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế, tạo nên sức mạnh tổng hợp 
phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước phát triển đất nước. 
 Trong những năm qua, kể từ khi ban hành Luật đầu tư nước ngoài ở Việt Nam 
năm 1987, hoạt động đầu tư nước ngoài ở nước ta đã đạt được những kết quản đáng kể, 
góp phần tích cực vào việc thực hiện những mục tiêu kinh tế - xã hội vào thắng lợi của 
công cuộc đổi mới, đưa nước ta ra khỏi khủng hoảng kinh tế, tăng cường thế và lực của 
Việt Nam trên trường quốc tế. Đầu tư trực tiếp nước ngoài đã trở thành một trong những 
nguồn vốn quan trọng cho đầu tư phát triển, có tác dụng thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu 
theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, mở ra nhiều ngành nghề, sản phẩm mới; nâng 
cao năng lực quản lý và trình độ công nghệ, mở rộng thị trường xuất khẩu; tạo thêm 
nhiều việc làm mới, góp phần mở rộng quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế 
thế giới. 
 Tuy nhiên, hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài những năm qua cũng đã bộc lộ 
những mặt yếu kém, hạn chế. Cụ thể: 
- Nhận thức, quan điểm về đầu tư nước ngoài chưa thống nhất và chưa quán triệt đầy đủ ở 
các cấp, các ngành; c 
- Cơ cấu đầu tư trực tiếp nước ngoài có mặt còn bất hợp lý và hiệu quả tổng thể về kinh 
tế-xã hội của hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài chưa cao; 
 Giáo trình Pháp luật về đầu tư  
- Môi trường đầu tư chưa hấp dẫn; môi trường kinh tế và pháp ký còn đang trong quá 
trình hoàn thiện nên chưa đồng bộ; 
- Công tác về quản lý đầu tư nước ngoài còn nhiều mặt yếu kém; 
- Thủ tục hành chính còn phiền hà; 
- Công tác cán bộ còn n hiều bất cập. 
Từ những hạn chế đó cho thấy kết quả là nhịp độ tăng trưởng đầu tư trực tiếp nước ngoài 
từ năm 1997 liên tục giảm sút; tuy từ năm 2000 có dấu hiệu phục hồi nhưng chưa vững 
chắc, nếu không có biện pháp khắc phục sẽ ảnh hưởng đến nguồn vốn đầu tư phát triển 
những năm tới. Trong khi đó, cạnh tranh thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trên thế 
giới và khu vực diễn ra ngày càng gay gắt, nhất là sau khủng hoảng kinh tế khu vực. 
Nhằm tiếp