Giáo trình Lý luận dạy học vật lí ở trường phổ thông

Cuốn giáo trình này được viết theo tinh thần của chương trình khung giáo dục đại học khối ngành Sưphạm do BộGiáo dục và Đào tạo ban hành. Nội dung của giáo trình đã kếthừa những ưu điểm của những cuốn giáo trình về"Phương pháp giảng dạy Vật lí ớtrường phổthông" đã xuất bản. Các tác giả đã cốgắng cập nhật những vấn đềmới nhằm giúp sinh viên tiếp cận được những vân đề đổi mới của giáo dục phổ thông hiện nay. Đối tượng sửdụng cuốn giáo trình này là sinh viên Đại học Sưphạm ngành Vật lí. Tuy nhiên, giáo trình này cũng là tài liệu tham khảo bổích cho các học viên cao học, sinh viên Cao đẳng Sưphạm vá các giáo viên đang giảng dạy Vật lí ởtrường phổ thông cũng như ởcác trường chuyên nghiệp. Giáo trinh cũng không tránh khỏi những thiếu sót, các tác giảrất mong nhận được sự đóng góp của đồng nghiệp vá bạn đọc chúng tôi xin chân thành cảm ơn!

pdf168 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 10294 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giáo trình Lý luận dạy học vật lí ở trường phổ thông, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NGUYỄN VĂN KHẢI (Chủ biên) NGUYỄN DUY CHIẾN - PHẠM THỊ MAI LÝ LUẬN DẠY HỌC VẬT LÍ Ở TRƯỜNG PHỔ THÔNG NHÀ XUẤT BẢN GIÁO DỤC 1 LỜI NÓI ĐẦU Cuốn giáo trình này được viết theo tinh thần của chương trình khung giáo dục đại học khối ngành Sư phạm do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành. Nội dung của giáo trình đã kế thừa những ưu điểm của những cuốn giáo trình về "Phương pháp giảng dạy Vật lí ớ trường phổ thông" đã xuất bản. Các tác giả đã cố gắng cập nhật những vấn đề mới nhằm giúp sinh viên tiếp cận được những vân đề đổi mới của giáo dục phổ thông hiện nay. Đối tượng sử dụng cuốn giáo trình này là sinh viên Đại học Sư phạm ngành Vật lí. Tuy nhiên, giáo trình này cũng là tài liệu tham khảo bổ ích cho các học viên cao học, sinh viên Cao đẳng Sư phạm vá các giáo viên đang giảng dạy Vật lí ở trường phổ thông cũng như ở các trường chuyên nghiệp. Giáo trinh cũng không tránh khỏi những thiếu sót, các tác giả rất mong nhận được sự đóng góp của đồng nghiệp vá bạn đọc chúng tôi xin chân thành cảm ơn! CÁC TÁC GIẢ 2 CHƯƠNG 1 ĐỐI TƯỢNG, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ CỦA MÔN LÍ LUẬN DẠY HỌC VẬT LÍ Ở TRƯỜNG PHỔ THÔNG 1.1. ĐỐI TƯỢNG VÀ NHIỆM VỤ CỦA MÔN LÝ LUẬN DẠY HỌC VẬT LÍ. Môn "Lý luận dạy học Vật lí ở trường phổ thông" là một chuyên ngành của khoa học giáo dục, nghiên cứu lí thuyết và thực hành về dạy học Vật lí ở trường phổ thông, nhằm mục đích đảm bảo cho việc dạy học môn học này đạt dược kết quả mà mục tiêu giáo dục phổ thông đặt ra. Sự phát triển mạnh mẽ của Vật lí học và ảnh hưởng của nó đối với dời sống xã hội đã dẫn đến sự cần thiết đưa môn Vật lí vào chương trình giáo dục phổ thông và sự hình thành và phát triển của bộ môn tí luận dạy học Vật lí. Đối tượng nghiên cứu của bộ môn Lý luận dạy học Vật lí là quá trình dạy học bộ môn Vật lí ở trường phổ thông. Trong nhà trường Xã hội chủ nghĩa Việt Nam dạy học Vật lí thực hiện ba chức năng chính: Chức năng giáo dưỡng, chức năng phát triển và chức năng giáo dục. Chức năng giáo dưỡng là chức năng chính và quyết định của bộ môn. Khi thực hiện chức năng này học sinh nhận được kiến thức về cơ sở của Vật lí học, thu được kĩ năng và thói quen ứng dụng kiến thức Vật lí vào thực tiễn. Chức năng phát triển đòi hỏi phát triển ở học sinh năng lực nhận thức, năng lực sáng tạo và trau dồi cho họ kĩ năng và thói quen tự lực học tập không ngừng để làm giàu kiến thức và năng lực của mình. Chức năng giáo dục là thành phần không thể thiếu được của việc dạy học Vật lí. Đặc trưng giáo dục của hoạt động dạy học là một quy luật của mọi thời đại. Chính mục đích, nội dung và phương pháp dạy học là các kênh truyền đạt tư tưởng của xã hội cho thế hệ trẻ. Đối với bộ môn Vật lí, đó là việc hình thành thế giới quan duy vật biện chứng, các phẩm chất của người lao động mới, giáo dục vô thần... Quá trình dạy học Vật lí là tập hợp các hành động có trình tự và tác động lẫn nhau của giáo viên và học sinh nhằm làm cho học sinh nắm vững chắc và có ý thức các cơ sở của Vật lí học, nắm dược các kiến thức và thói quen ứng dụng kiến thức vào đời sống, hướng tới sự phát triển tư duy sáng tạo của học sinh, nhằm giáo dục tư tưởng và giáo dục lao động cho học sinh. 1. Quá trình dạy học Vật lý được đặc trưng bởi sự tương tác của các thành phần sau: a) Nội dung dạy học tức là các cơ sở của Vật lí học 3 b) Hoạt động dạy: Các hoạt động của giáo viên để kích thích động cơ học tập của học sinh, tổ chức quá trình dạy học có sử dụng thí nghiệm Vật lí và các phương tiện kỹ thuật dạy học, điều khiển hoạt động tự lực của học sinh và kiểm tra, đánh giá kiến thức và kĩ năng. c) Hoạt động học: Là các hoạt động học tập của học sinh, bao gồm các hành động thể lực và trí tuệ của họ. d) Các phương tiện kĩ thuật dạy học: Các loại sách giáo khoa, sách bài tập và các tài liệu giáo khoa tham khảo, dụng cụ thí nghiệm, thiết bị dạy học Vật lí, máy vi tính và phương tiện công nghệ thống tin... 2. Môn Lí luận dạy học Vật lí có nhiệm vụ nghiên cứu những vấn đề cơ bản sau a) Căn cứ vào nhiệm vụ chung của nhà trường phổ thông và đặc điềm của môn Vật lí xác định những nhiệm vụ và yêu cầu của việc dạy học Vật lí và đề ra đường lối thực hiện những nhiệm vụ ấy. b) Xác định và hoàn thiện một cách có hệ thống nội dung và cấu trúc của chương trình Vật lí phổ thông nhằm đáp ứng những yêu cầu đào tạo học sinh thành những người lao động mới, phát triển toàn diện phù hợp với đặc điểm lứa tuổi của học sinh ở từng lớp, từng cấp học. c) Nghiên cứu, kiểm tra thực nghiệm và đưa vào thực tiễn dạy học những phương pháp hiệu quả nhất, các biện pháp giáo dục và phát triển học sinh, các thiết bị thí nghiệm hoặc thiết bị kĩ thuật cho dạy học Vật lí... Thực chất những nhiệm vụ trên nhằm trả lời cho các câu hỏi: Dạy Vật lí để làm gì? Dạy những gì trong môn Vật lí và dạy Vật lí như thế nào ở nhà trường phổ thông? d) Bản thân môn Lý luận dạy học Vật lí còn có nhiệm vụ nghiên cứu để tự hoàn thiện mình như một khoa học giáo dục cho phù hợp với thực tiễn Việt Nam và đáp ứng sự phát triển ngày càng nhanh của khoa học Vật lí cũng như lí luận dạy học trên thế giới. Trên cơ sở những phân tích trên, người ta đưa ra một định nghĩa khác của bộ môn Lí luận dạy học Vật lí: Đó là bộ môn Khoa học giáo dục nghiên cứu các quy luật cách thức, phương pháp và phương tiện dạy học, giáo dục và phát triển học sinh trong quá trình dạy học Vật lí. Ở mức độ hiện nay của sự phát triển bộ môn Lý luận dạy học Vật lí chưa thể mô tả một cách định lượng quan hệ giữa các phương pháp dạy học và chất lượng kiến thức của học sinh, nhưng chắc chắn có một quy luật về mối quan hệ đó và mục đích của bộ môn là phải phát hiện, nhận thức và làm rõ bản chất các quy luật này. Các quy luật của khoa học giáo dục mang đặc trưng thống kê, vì vậy trong những năm gần đây người ta đã sử dụng rộng rãi các phương pháp thống kê trong nghiên cứu khoa học giáo dục, trong đó có bộ môn Lý luận dạy học Vật lí. Trong nhà trường Sư phạm, bộ môn Lý luận dạy học Vật lí nhằm trang bị cho sinh 4 viên những kiến thức và kĩ năng nghề nghiệp ban đầu quan trọng nhất. Như vậy bên cạnh việc nắm vững kiến thức, phương pháp và lịch sử phát triển của Vật lí học, người giáo viên Vật lí còn phải nắm vững lí thuyết và thực hành giảng dạy Vật lí ở trường phổ thông, trước hết thông qua bộ môn Lý luận dạy học Vật lí. 1.2. CÁC PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC THUỘC LĨNH VỰC LÝ LUẬN DẠY HỌC VẬT LÍ Môn Lý luận dạy học Vật lí thuộc số các bộ môn khoa học giáo dục nên người ta thường vặn dụng các phương pháp chung của khoa học giáo dục vào lĩnh vực nghiên cứu lí luận và phương pháp dạy học Vật lí. 1. Những quan điểm cơ bản Cơ sở phương pháp luận chung của các khoa học giáo dục là triết học duy vật biện chứng, nó cung cấp cho ta những quan điểm cơ bản về con đường nhận thức thế giới, nhận thức chân lí. Những quan điểm đó là: a) Xem xét các quá trình và hiện tượng trong mối quan hệ nhiều mặt và tác động qua lại lẫn nhau; b) Xem xét các quá trình và hiện tượng trong sự vận động và phát triển, sự chuyển hoá từ sự biến đổi về lượng sang sự biến đổi về chất; c) Phát hiện những mâu thuẫn nội tại và sự đấu tranh giữa các mặt đối lập để tìm ra những động lực phát triển; d) Coi thực tiễn là nguồn gốc nhận thức và là tiêu chuẩn của chân lí. 2. Các phương pháp nghiên cứu khoa học Căn cứ cách thức và phương tiện tác động lên đối tượng nghiên cứu người ta tạm thời phân chia các phương pháp nghiên cứu khoa học như sau: a) Quan sát Sư phạm: Quan sát trong nghiên cứu khoa học giáo dục cho phép nhà nghiên cứu tích lũy các sự kiện để hình thành giả thuyết, làm rõ các đặc điểm của quá trình dạy học Vật lí. Đối tượng quan sát có thể là các hoạt động của học sinh hoặc một nhóm học sinh trong quá trình học tập, làm thí nghiệm Vật lí, giải các bài toán Vật lí..., phương pháp thể hiện bài dạy của giáo viên, việc nắm vững kiến thức của học sinh, hình thành kĩ năng và thói quen... b) Khảo sát tư liệu: Là việc nghiên cứu các nguồn tài liệu khác nhau. Đó là các bài kiểm tra của học sinh, vở ghi của học sinh, kế hoạch của giáo viên và các nguồn tư liệu khác có liên quan tới quá trình dạy và học Vật lí. Mỗi quan sát khoa học cần phải: có mục đích rõ ràng, có kế hoạch quan sát cụ thể... c) Tổng kết kinh nghiệm: Là đánh giá và khái quát hoá những kinh nghiệm hoạt động thực tiễn từ đó phát hiện ra những vấn đề cần khẳng định d) Thực nghiệm sư phạm: Là một trong các phương pháp nghiên cứu khoa học 5 phức tạp và quan trọng nhất. Thực nghiệm sư phạm là quá trình dạy học được thiết kế và thực nện tương ứng với nhiệm vụ nghiên cứu. Cho phép quan sát các hiện tượng Sư phạm trong các điều kiện được kiểm soát. Ba nét cơ bản đặc trưng cho thực nghiệm sư phạm: - Đưa vào quá trình dạy học những thay đổi quan trọng (nội dung hay cấu trúc của tài liệu học tập, các phương pháp dạy học, các thiết bị dạy học... ) phù hợp với nhiệm vụ nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu. - Tạo ra những điều kiện cho phép thấy rõ hơn các quan hệ giữa các mặt khác nhau của quá trình dạy học. - Xử lí về mặt định tính và định lượng các kết quả của quá trình dạy học và những thay đổi đưa vào quá trình đó. Thường xuyên hơn cả là làm rõ hiệu quả của việc ứng dụng các phương pháp và phương tiện dạy học, tính vừa sức của nội dung dạy học, những nghiên cứu có tính chất phát hiện khác... Hình thức phổ biến nhất của thực nghiệm sư phạm là so sánh kết quả dạy học trong các lớp thực nghiệm với các lớp đối chứng. Lớp thực nghiệm là lớp có đưa vào trong quá trình dạy học các yếu tố nghiên cứu (thực nghiệm), còn ở các lớp khác (lớp đối chứng) không có yếu tố này. Có thể biểu diễn các giai đoạn cơ bản của thực nghiệm sư phạm so sánh như sơ đồ 1. e) Test (trắc nghiệm) kiểm tra kiến thức: Là tập hợp các bài tập được chọn đặc biệt để kiểm tra kiến thức của học sinh. Đó là các bài tập đòi hỏi những câu trả lời ngắn gọn và đơn giá. Các test về Vật lí cho phép kiểm tra: Sự nắm vững tài liệu học tập, nắm vững khái niệm, hiểu quy luật và nguyên nhân các miền tượng, thói quen sử dụng tài liệu, sách giáo khoa, các dụng cụ thí nghiệm... g) Phiêu phỏng vấn: Được sử dụng rộng rãi trong các nghiên cứu khoa học giáo dục nói chung và Lí luận dạy học Vật lí nói riêng. Đặc điểm của phương pháp này là làm rõ các đặc trưng dạy học Vật lí (một vấn đề về nội dung, phương pháp... ) dựa trên các câu trả lời cho các câu hỏi trong một phiếu đã được soạn trước theo mục đích. - Lựa chọn và làm cân bằng điều kiện ở các lớp. - Xác định mức độ ban đầu M, của kiến thức, kĩ năng về vấn đề dược nghiên cứu. Sơ đồ 1 6 - Dạy thực nghiệm. - Xác định mức độ đạt được của kiến thức, kĩ năng M2. - Đánh giá mức gia tăng của kiến thức, kĩ năng... - Phân tích so sánh hiệu quả của yếu tố thực nghiệm. h) Phương pháp phân tích lí thuyết: Được sử dụng khi xác định các tư tưởng và giả thuyết nghiên cứu, trước hết xuất phát từ các nghiên cứu lí thuyết nhằm hoàn thiện các lí thuyết cũ hoặc đưa ra lí thuyết mới. Trong phân tích lí thuyết thường sử dụng, ví dụ nghiên cứu khái quát các lí thuyết cũ đưa ra vận dụng trong tình huống mới, nghiên cứu vận dụng các văn bản chỉ đạo của Đảng và nhà nước..., phương pháp phân tích cấu trúc logic của nội dung học tập và kiến thức của học sinh, đánh giá thống kê các hiện tượng trong quá trình dạy học Vật lí. i) Phương pháp phân tích hệ thống: Theo phương pháp này người ta coi đối tượng nghiên cứu như một hệ thống có các yếu tố có tính cấu trúc. Các đối tượng nghiên cứu trong khoa học giáo dục thường phức tạp, có nhiều mối quan hệ vì vậy trong nhiều trường hợp chúng có thể xem như một hệ thống. Trên đây chỉ trình bày sơ lược các phương pháp nghiên cứu khoa học thường được sử dụng trong bộ môn Lí luận dạy học Vật lí. Trong thực tiễn công tác của người giáo viên Vật lí thường xuyên phải gặp các vấn đề áp dụng một phương pháp mới, sử dụng một thiết bị mới vào thực tiễn dạy học, thực chất hoạt động đó của người giáo viên là một quá trình nghiên cứu khoa học. Vì vậy áp dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học kể trên là một nhu cầu tất yếu. 1.3. MỐI QUAN HỆ GIỮA MÔN LÍ LUẬN DẠY HỌC VẬT LI VỚI CÁC KHOA HỌC KHÁC Bộ môn Lí luận dạy học Vật lí ở trường phổ thông được xây dựng trên những cơ sơ sau: - Triết học duy vật biện chứng; - Vật lí học; - Các khoa học Sư phạm (Tâm lí học, Giáo dục học, Lí luận dạy học...). 1.3.1. Triết học duy vật biện chứng và học thuyết Mác - Lê-nin về giáo dục là cơ sở phương pháp luận của Lí luận dạy học Vật lí. Trước hết đó là do các tư tưởng Vật lí liên quan chặt chẽ với các tư tưởng triết học duy vật biện chứng. Thứ hai, lí luận về phương pháp giảng dạy Vật lí trong nhà trường Việt Nam phải dựa trên nhận thức luận Mác - Lênin. Đó là con đường biện chứng nhận thức chân lí, nhận thức hiện thực khách quan. 1.3.2. Vật lí học là khoa học về tính chất và các định luật chung nhất của chuyển động vật chất. 7 Vật lí là khoa học về tính chất và các định luật chung nhất của chuyển động vật chất, là kho vô tận các kiến thức của con người về tự nhiên. Trong khi môn Vật lí trong chương trình dạy học ở các trường phổ thông chỉ thể hiện một phần không lớn lắm những kiến thức này. Vì vậy trong phương pháp dạy học Vật lí cần thiết phải thực hiện nguyên tắc lựa chọn kiến thức, xây dựng nội dung dạy học phù hợp với các lứa tuổi khác nhau sao cho những nội dung đó tạo thành một hệ thống các kiến thức Vật lí, cho học sinh khái niệm về Vật lí học hiện đại, đồng thời tạo cơ sở để phát triển tư duy học sinh, hình thành ở học sinh thế giới quan khoa học, hình thành ở họ khả năng sáng tạo, kĩ năng và thói quen cần thiết và quan trọng cho hoạt động thực tiễn hàng ngày và học tập tiếp theo. Việc lựa chọn và hệ thống hoá các kiến thức Vật lí chỉ có thể thực hiện khi phân tích sâu logic của khoa học Vật lí, lịch sử phát triển của nó đồng thời phải dựa vào các đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi, tâm lí học Sư phạm và các nguyên tắc lí luận dạy học. Nhiệm vụ đó sẽ được thực hiện trong bộ môn Lí luận dạy học Vật lí. Trong nhà trường việc giảng dạy phải gắn liền với giáo dục, phát triển các khả năng sáng tạo của học sinh. Vì vậy khi dạy học Vật lí cần phải sử dụng rộng rãi ảnh hưởng giáo dục của nội dung cũng như phương pháp khoa học của Vật lí học. Nội dung, các phương pháp và lịch sử của Vật lí học là công cụ mạnh mẽ để phát triển các phẩm chất đạo đức và trí tuệ của học sinh. 1.3.3. Tâm tí học và Giáo dục học là cơ sở không thể thiếu của Lí luận dạy học Vật lí Tâm lí học Sư phạm mở ra các quy luật của hoạt động tâm lí của học sinh trong quá trình dạy học, nó chỉ ra cho học sinh thế giới bên ngoài như thế nào, tư duy như thế nào, nắm vững kiến thức, kĩ năng và thói quen như thế nào, hứng thú và thiên hướng của học sinh được hình thành ra sao. Tất cả những yếu tố đó cần phải được tính đến khi xây dựng chương trình Vật lí cũng như khi lựa chọn các phương pháp giảng dạy ở các giai đoạn khác nhau. Lí luận dạy học Vật lí cũng cần dựa trên logic học, trên cơ sở các định luật logic học để hình thành các định nghĩa và phân loại các khái niệm, hình thành các phán đoán về các hiện tượng tự nhiên, vấn đề phát triển tư duy logic của học sinh. Một số kiến thức của nhiều bộ môn kĩ thuật cũng được sử dụng trong giảng dạy Vật lí để thực hiện nhiệm vụ giáo dục kĩ thuật tổng hợp, cũng như để thiết kế các dụng cụ thí nghiệm Vật lí... (nhiệt kĩ thuật, điện kĩ thuật, điện tử, chế tạo máy,... ) Nguyên tắc và phương pháp dạy học Vật lí còn phải dựa trên các nguyên tắc và phương pháp dạy học chung, trước hết là các nguyên tắc lí luận dạy học chung loà dưới đây ta chỉ xét một số nguyên tắc quan trọng nhất: 1. Nguyên tắc khoa học hay tính khoa học trong giảng dạy. Tính khoa học thể hiện trước hết trong việc lựa chọn và trình bày kiến thức.Tính 8 khoa học của kiến thức thể hiện ở các mặt: Bản chất, tính khách quan và tính quy luật của hiện tượng và sự vật. Tính khoa học cũng được thể hiện bằng việc lính đến các đặc điểm lứa tuổi học sinh để lựa chọn phương pháp dạy học thích hợp. Quán triệt tốt nguyên tắc khoa học sẽ có hai tác dụng: Làm rõ kiến thức mà học sinh thu nhận được, nắm được phương pháp nhận thức khoa học. 2. Nguyên tắc trực quan Nguyên tắc trực quan thường rất được coi trọng và được nhấn mạnh trong lí luận cũng như trong thực tiễn dạy học. Nguyên tắc trực quan giúp học sinh nắm vững kiến thức một cách có ý thức và vững chắc, phát triển các khả năng chú ý, trí nhớ và các khả năng sáng tạo của học sinh. Tính trực quan đảm bảo cho việc hình thành ở học sinh các khái niệm dựa trên các cơ sở tri giác trực tiếp các đối tượng và hiện tượng được nghiên cứu hoặc các hình ảnh của chúng. Trong dạy học Vật lí, việc sử dụng các thí nghiệm biểu diễn, các mô hình, sử dụng các hình ảnh của các sự vật và hiện tượng như: sơ đồ, hình vẽ, phim ảnh hoặc video... là các hình thức khác nhau thực hiện nguyên tắc trực quan. Nguyên tắc trực quan không chỉ được áp dụng trong dạy học ở lớp dưới mà cả ở những lớp cuối cấp, với các học sinh lớn, vì tư duy của học sinh được phát triển từ cụ thể đến trừu tượng, nên ở các lớp cuối cấp, trực quan phải ở mức tư duy trừu tượng (tức là khác với tính trực quan của các hình ảnh cảm tính). Ví dụ: loại trực quan như vậy là "Bản thang sóng điện từ" dùng cho lớp 12, các dạng mô hình khác nhau trong dạy học Vật lí... 3. Nguyên tắc tính tự giác và tính tự lực của hóc sinh trong học tập, gắn liền với nguyên tắc về vai trò lãnh đạo của giáo viên trong quá trình dạy học. Nguyên tắc này đảm bảo quan hệ tối ưu giữa thầy và trò trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ dạy học. Sự tự giác trong học tập ở học sinh bắt đầu từ việc học sinh hiểu được các nhiệm vụ và sự cần thiết của công việc học tập, trên cơ sở để xuất hiện hứng thú đối với công việc. Hứng thú đối với học tập Vật lí thể hiện ở hàng loạt yếu tố: Chất lượng của sách giáo khoa, phương pháp và phương tiện dạy học, các phẩm chất của người thầy cũng như thiên hướng riêng của học sinh... Tuỳ theo nhiệm vụ của bài học người ta sử dụng các biện pháp khác nhau để đảm báo tính tích cực của học sinh. Ví dụ: có thể sử dụng kiểu dạy học nêu vấn đề đàm thoại, thí nghiệm Vật lí, sử dụng các dạng bài tập Vật lí, các phương tiện công nghệ thống tin... 4. Nguyên tắc tính vừa sức Nguyên tắc này trong dạy học có tác dụng quan trọng thúc đẩy học sinh vươn lên trong học lập, bồi dưỡng cho học sinh niềm tin ở sức mình trên cơ sở đó hào hứng đi 9 sâu để nắm vững và vận dụng kiến thức một cách sáng tạo. Nguyên tắc tính vừa sức không có nghĩa là hạ thấp yêu cầu đối với học sinh trong quá trình học tập mà ngược lại nó đòi hỏi người giáo viên phải hiểu đặc điểm lứa tuổi của học sinh, sự phát triển của từng đối tượng học sinh để sử dụng các phương pháp dạy học một cách khéo léo, nhằm không ngừng nâng cao mức độ kiến thức, kĩ năng và tư duy của học sinh. Muốn đảm bảo tính vừa sức, người giáo viên cần quán triệt một lúc nhiều nguyên tắc và phương pháp dạy học, ví dụ nguyên tắc tính hệ thống, tính trực quan hay các thủ pháp dạy học như xác định trọng tâm trong hệ thống kiến thức, chia nhỏ kiến thức thành các "liều lượng" thích hợp với sự tiếp thu của học sinh trong mỗi giai đoạn... Quá trình dạy học là sự thống nhất giữa mục đích, nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức dạy học do nhiệm vụ và tính chất của nhà trường quy định. Phương pháp và hình thức tổ chức dạy học còn tuỳ thuộc đặc điểm của mỗi môn học. Ở nước ta từ cách mạng tháng tám 1945 thành công cho tới nay, đặc biệt lừ khi hình thành nhà trường Xã hội chủ nghĩa, các phương pháp dạy học đã dược vận dụng và hoàn thiện không ngừng, đặc biệt các phương pháp nhằm phát triển năng lực tự lực, khả năng sáng tạo của học sinh. Trong dạy học Vật lí, ngoài các phương pháp truyền thống, ngày nay đã phát triển và vận d