Hệ thống các nguyên tắc cơ bản trong quản lý hành chính nhà nước

Cũng giống như bất kỳ hoạt động có mục đích nào, quản lí hành chính nhà nước được tiến hành trên cơ sở những nguyên tắc nhất định. Đây chính là tư tưởng chỉ đạo rất quan trọng trong tổ chức và hoạt động giúp cho các chủ thể quản lý hành chính nhà nước thực hiện có hiệu quả công việc của mình trên các lĩnh vực đã được phân công. Các nguyên tắc cơ bản trong quản lý hành chính nhà nước với nội dung rất đa dạng có tính thống nhất và liện hệ chặt chẽ với nhau. Một trong những nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động quản lí hành chính nhà nước đó là nguyên tắc nhân dân lao động tham gia đông đảo vào quản lí hành chính nhà nước. để làm rõ vấn đề

doc12 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 12863 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hệ thống các nguyên tắc cơ bản trong quản lý hành chính nhà nước, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC A, LỜI MỞ ĐẦU Cũng giống như bất kỳ hoạt động có mục đích nào, quản lí hành chính nhà nước được tiến hành trên cơ sở những nguyên tắc nhất định. Đây chính là tư tưởng chỉ đạo rất quan trọng trong tổ chức và hoạt động giúp cho các chủ thể quản lý hành chính nhà nước thực hiện có hiệu quả công việc của mình trên các lĩnh vực đã được phân công. Các nguyên tắc cơ bản trong quản lý hành chính nhà nước với nội dung rất đa dạng có tính thống nhất và liện hệ chặt chẽ với nhau. Một trong những nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động quản lí hành chính nhà nước đó là nguyên tắc nhân dân lao động tham gia đông đảo vào quản lí hành chính nhà nước. để làm rõ vấn đề này, em xin đưa ra một số ý kiến cá nhân sau: B, GIAỈ QUYẾT VẤN ĐỀ I. KHÁI NIỆM VÀ HỆ THỐNG CÁC NGUYÊN TẮC CƠ BẢN TRONG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC. 1. Khái niệm Dưới góc độ của luật hành chính, nguyên tắc trong quản lý hành chính nhà nước là tập hợp các quy phạm pháp luật có nội dung là tư tưởng chủ đạo làm cơ sở cho việc tổ chức và thực hiện hoạt động quản lý hành chính nhà nước. 2. Đặc điểm các nguyên tắc - tính pháp lý: các nguyên tắc trong quản lý hành chính nhà nước được ghi nhận trong các văn bản pháp luật của nhà nước, từ hiến pháp, luật, các văn bản dưới luật. Nó có tính bắt buộc, ràng buộc đối với mọi cá nhân tổ chức tham gia, và được bảo đảm thực hiện. -Các nguyên tắc quản lý hành chính nhà nước mang tính chất khách quan bởi vì chúng được xây dựng, đúc kết từ thực tế cuộc sống và phản ánh các quy luật phát triển khách quan. Tuy nhiên, các nguyên tắc trên cũng mang yếu tố chủ quan bởi vì chúng được xây dựng bởi con người mà con người dựa trên những nhận thức chủ quan để xây dựng. -Các nguyên tắc quản lý hành chính nhà nước có tính ổn định cao, ít thay đổi ( vì được quy định trong hiến pháp) nhưng không phải là nguyên tắc bất di bất dịch. Nó gắn liền với quá trình phát triển của xã hội, tích lũy kinh nghiệm, thành quả của khoa học về quản lý hành chính nhà nước, là nền tảng của các hoạt động pháp lý. Mặc dù có sự thay đổi, nhưng sự thay đổi không lớn và không thường xuyên. -Tính độc lập tương đối với chính trị. Hệ thống chính trị của nhà nước Việt nam được thực hiện thông qua: các tổ chức chính trị xã hội (Ðảng, Mặt trận tổ quốc...), và bộ máy nhà nước (Lập pháp, hành pháp, tư pháp). Trong hệ thống nguyên tắc quản lý hành chính nhà nước có cả những nguyên tắc riêng, đặc thù trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước. Tuy nhiên giữa hoạt động chính trị và quản lý nhà nước có mối quan hệ hữu cơ chặt chẽ. Các quan điểm chính trị là cơ sở của việc tổ chức hoạt động quản lý hành chính nhà nước và hoạt động quản lý hành chính nhà nước thực hiện tốt không chỉ đòi hỏi được trên pháp luật (luật), mà còn phải thực hiện đúng đắn các quan điểm chính trị (chính sách). - tính hệ thống: Mỗi nguyên tắc quản lý hành chính nhà nước có nội dung riêng, phản ánh những khía cạnh khác nhau của quản lý hành chính nhà nước. Tuy nhiên, những nguyên tắc này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau tạo thành một thể thống nhất. Việc thực hiện tốt nguyên tắc này sẽ tạo tiền đề cho việc thực hiện có hiệu quả nguyên tắc khác. Vì thế nên các nguyên tắc quản lý hành chính nhà nước luôn thể hiện tính hệ thống, tính thống nhất và đây là một thuộc tính vốn có của chúng. 3. Hệ thống các nguyên tắc cơ bản trong quản lý hành chính nhà nước Các nguyên tắc trong quản lý hành chính nhà nước có nội dung đa dạng, có tính thống nhất và liên hệ chặt chẽ với nhau. Vì thế cần phải xác định được chúng gồm những nguyên tắc cơ bản nào, cần phải phân loại chúng một cách khoa học để xác định được vị trí, vai trò của từng nguyên tắc trong quản lý hành chính nhà nước, từ đó xây dựng và áp dụng hệ thống các nguyên tắc một cách có hiệu quả vào thực tiễn quản lý hành chính nhà nước. Hoạt động quản lý hành chính nhà nước được biểu hiện cụ thể trong hoạt động tổ chức, nó bao gồm hai mặt: tổ chức chính trị và tổ chức kỹ thuật. Dựa trên những cơ sở khoa học về quản lý nhà nước ta chia các nguyên tắc trongquản lý hành chính nhà nước thành hai nhóm là nhóm những nguyên tắc chính trị-xã hội và nhóm những nguyên tắc tổ chức kỹ thuật. Tuy nhiên, sự phân chia này cũng chỉ mang tính chất tương đối vì yếu tố tổ chức kỹ thuật và chính trị trong quản lý hành chính nhà nước có mối liên hệ chặt chẽ nhau. Việc thực hiện các nguyên tắc tổ chức kỹ thuật là để thực hiện một cách đúng đắn các nguyên tắc chính trị-xã hội và việc thực các nguyên tắc chính trị - xã hội là cơ sở để thực hiện các nguyên tắc tổ chức kỹ thuật. Hệ thống các nguyên tắc quản lý hành chính nhà nước bao gồm: Nhóm những nguyên tắc chính trị-xã hội 1, Nguyên tắc Ðảng lãnh đạo trong quản lý hành chính nhà nước; 2. Nguyên tắc nhân dân tham gia vào quản lý hành chính nhà nước; 3. Nguyên tắc tập trung dân chủ; 4. Nguyên tắc bình đẳng giữa các dân tộc; 5. Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa; Nhóm những nguyên tắc tổ chức kỹ thuật 6. Nguyên tắc quản lý theo ngành kết hợp với quản lý theo lãnh thổ; 7. Nguyên tắc quản lý theo ngành kết hợp với quản lý theo chức năng. 8. Phân định chức năng quản lý nhà nước về kinh tế với quản lý sản xuất kinh doanh. II. NGUYÊN TẮC NHÂN DÂN LAO ĐỘNG THAM GIA ĐÔNG ĐẢO VÀO QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC. 1. Cơ sở của nguyên tắc 1.1. Cơ sở thực tiễn: Dân là gốc của nước, chở thuyền cũng là dân, lật thuyền cũng là dân, đó là chân lí của mọi thời đại. Nhà nước xã hội chủ nghĩa ra đời là kết quả của cuộc cách mạng do nhân dân tiến hành, sự tồn tại của nhà nước xã hội chủ nghĩa là để phục vụ nhân dân. Vì vậy, với đặc trưng của nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Nhà nước của dân, do dân và vì dân, nhân dân phải được tham gia vào tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước nói chung và quản lý hành chính nhà nước nói riêng. Việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước thực sự thành công chỉ khi nào người dân thực sự đóng vai trò quan trọng trong hoạt động quản lý nhà. Chính vì vậy, việc bảo đảm sự tham gia đông đảo của nhân dân lao động vào quản lí hành chính nhà nước không chỉ phát huy trí tuệ, sức lực của nhân dân mà còn là phương pháp hữu hiệu để ngăn chặn tình trạng quan liêu, lạm quyền, độc đoán, thiếu trách nhiệm... từ đó xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày càng giàu mạnh, văn minh. Mặt khác, việc tham gia đông đảo của nhân dân vào hoạt động quản lý của Nhà nước còn đáp ứng được yêu cầu của công cuộc đổi mới, phát triển kinh tế thị trường, dân chủ hóa đời sống xã hội và của bản thân Nhà nước. Mở rộng hình thức tham gia của nhân dân vào hoạt động quản lí nhà nước sẽ góp phần quan trọng trong việc xây dựng một xã hội công bằng và dân chủ, ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường của nước ta hiện nay. 1.2. Cơ sở pháp lý: Ðây là nguyên tắc được nhà nước ta thừa nhận và bảo đảm thực hiện. Nguyên tắc này thể hiện bản chất dân chủ sâu sắc giữ vai trò quan trọng thiết yếu trong quản lý hành chính nhà nước. Chính vì vậy, ngay từ khi Nhà nước mới ra đời, nguyên tắc đã được ghi nhận trong các bản Hiến pháp cũng như các văn bản pháp luật khác. Điều 2 Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001): “Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức” Nhân dân thực hiện quyền lực của mình dưới các hình thức trực tiếp hoặc gián tiếp như: bầu các đại diện của mình vào hệ thống cơ quan quyền lực nhà nước, trực tiếp làm việc tại các cơ quan nhà nước, thảo luận, đóng góp ý kiến cho các dự án luật, các văn kiện nhà nước, tham gia giám sát hoạt động của các cơ quan, cán bộ, công chức, viên chức nhà nước và đặc biệt là thông qua hình thức trưng cầu ý dân, nhân dân trực tiếp quyết định các công việc quan trọng nhất của nhà nước. Ngoài ra, nguyên tắc này còn được quy định tại các điều: Điều 3, Điều 6, Điều 11, Điều 53 của Hiến pháp năm 1992 ( sửa đổi năm 2001) cũng như được ghi nhận trong nhiều văn bản luật khác: Luật Bầu cử Quốc hội và Hội đồng nhân dân, Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân, Luật Khiếu nại, tố cáo, Luật Phòng, chống tham nhũng,… Việc tham gia vào công tác quản lý nhà nước được coi là quyền và nghĩa vụ của nhân dân. Điều 11 của hiến pháp 1992: “ công dân thực hiện quyền làm chủ của mình ở cơ sở bằng cách tham gia công việc của nhà nước và xã hội.” Điều 53 ghi:” công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận các vấn đề chung của cả nước và địa phương, kiến nghị với cơ quan nhà nước, biểu quyết khi nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân”. Như vậy, Nhà nước đã quy định khá cụ thể các hình thức, phương thức tham gia của nhân dân trong việc quản lý hành chính nhà nước, đây chính là một cơ sở pháp lí quan trọng để nhân dân lao động tham gia vào quản lí hành chính nhà nước thực hiện quyền làm chủ của mình, , nhất là trong giai đoạn hiện nay, khi quá trình dân chủ hóa đang được mở rộng ở mọi lĩnh vực của đời sống xã hội 2. Nội dung của nguyên tắc: Các hình thức tham gia vào quản lí hành chính nhà nước của nhân dân lao động bao gồm: *Tham gia gián tiếp: a, Tham gia vào hoạt động của các cơ quan nhà nước: Các cơ quan trong bộ máy nhà nước là công cụ để thực hiện quyền lực nhà nước, việc nhân dân tham gia vào hoạt động của các cơ quan nhà nước là hình thức tham gia tích cực, trực tiếp và có hiệu quả nhất trong quản lý hành chính nhà nước. Người lao động nếu đáp ứng các yêu cầu của pháp luật đều có thể tham gia vào hoạt động của cơ quan nhà nước từ đó trực tiếp hay gián tiếp tham gia vào công việc quản lý hành chính nhà nước trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. - Người lao động có thể tham gia trực tiếp vào cơ quan quyền lực nhà nước với tư cách là thành viên của cơ quan này - họ là những đại biểu được lựa chọn thông qua bầu cử hoặc với tư cách là các viên chức nhà nước trong các cơ quan nhà nước. Khi ở cương vị là thành viên của cơ quan quyền lực nhà nước, người lãnh đạo trực tiếp xem xét và quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, của từng địa phương trong đó có các vấn đề quản lý hành chính nhà nước. Khi ở cương vị là cán bộ viên chức nhà nước thì người lao động sẽ sử dụng quyền lực nhà nước một cách trực tiếp để thực hiện vai trò người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội, có điều kiện biến những ý chí, nguyện vọng của mình thành hiện thực nhằm xây dựng đất nước giàu mạnh. - Ngoài ra, người lao động có thể tham gia gián tiếp vào hoạt động của các cơ quan nhà nước thông qua việc thực hiện quyền lựa chọn những đại biểu xứng đáng thay mặt mình vào cơ quan quyền lực nhà nước ở trung ương hay địa phương. Ðây là hình thức tham gia rộng rãi nhất của nhân dân vào hoạt động quản lý hành chính nhà nước. - Bên cạnh đó, nhân dân lao động có thể tham gia vào hoạt động của các cơ quan nhà nước khác (cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan kiểm sát, cơ quan xét xử) với tư cách là những cán bộ, công chức. Là cán bộ, công chức của nhà nước, nhân dân lao động sẽ sử dụng một cách trực tiếp quyền lực nhà nước để tiến hành những công việc khác nhau của quản lý hành chính nhà nước, thể hiện vai trò người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội của mình. b, Tham gia vào hoạt động của các tổ chức xã hội: Nhà nước tạo mọi điều kiện thuận lợi để nhân dân lao động có thể tham gia tích cực vào hoạt động của các tổ chức xã hội. Nhà nước ban hành nhiều quy định liên quan tới vị trí, vai trò, quyền và nghĩa vụ của các tổ chức xã hội trong quản lí hành chính nhà nước, tạo những điều kiện về vật chất, tinh thần để các tổ chức xã hội trở thành công cụ đắc lực của nhân dân lao động trong việc thực hiện quyền tham gia vào quản lý hành chính nhà nước. Điều 9 hiến pháp 1992( sửa đổi, bổ sung năm 2001) quy định:” Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân”. Thông qua các hoạt động của các tổ chức xã hội, vai trò chủ động sáng tạo của nhân dân lao động được phát huy. Ðây là một hình thức hoạt động có ý nghĩa đối với việc bảo đảm dân chủ và mở rộng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. *Tham gia trực tiếp: a, Tham gia vào hoạt động tự quản ở cơ sở Ðây là hoạt động do chính nhân dân lao động tự thực hiện và chúng có mối liên hệ chặt chẽ với các công việc khác nhau của quản lí nhà nước. Các hoạt động tự quản này rất gần gũi và thiết thực đối với cuộc sống của người dân như hoạt động bảo vệ an ninh trật tự, vệ sinh môi trường,...Những hoạt động này xảy ra ở nơi cư trú, làm việc, sinh hoạt nên mang tính chất tự quản của nhân dân. Thông qua những hoạt động mang tính chất tự quản mà người dân lao động là những chủ thể tham gia tích cực nhất, quyền tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội của người dân mà pháp luật đã quy định thực sự được tôn trọng và bảo đảm thực hiện. b, Trực tiếp thực hiện các quyền và nghĩa vụ của công dân trong quản lý hành chính nhà nước - Ðiều 53 – Hiến pháp 1992 quy định công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận những vấn đề chung của cả nước và địa phương, kiến nghị với cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội hay chính người dân trực tiếp thực hiện. - Kiểm tra các cơ quan quản lý nhà nước. - Tham gia trực tiếp với tư cách là thành viên không chuyên trách trong hoạt động cơ quan quản lý, các cơ quan xã hội. - Tham gia với tư cách là thành viên của tập thể lao động trong việc giải quyết những vấn đề quan trọng của cơ quan... Việc trực tiếp thực hiện các quyền và nghĩa vụ của công dân trong quản lý hành chính nhà nước là một hình thức có ý nghĩa quan trọng để nhân dân lao động phát huy vai trò làm chủ của mình. 3. Ý nghĩa của nguyên tắc: Ðây là nguyên tắc được nhà nước ta thừa nhận và bảo đảm thực hiện. Nguyên tắc này thể hiện bản chất dân chủ sâu sắc giữ vai trò quan trọng thiết yếu trong quản lý hành chính nhà nước. Nhân dân không chỉ có quyền giám sát đối với hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước; thực hiện khiếu nại tố cáo nếu cho rằng cán bộ hành chính nhà nước vi phạm quyền lợi của họ hoặc thực hiện không đúng đắn, mà còn có quyền tự mình tham gia vào hoạt động quản lý nhà nước, trực tiếp thể hiện quyền lợi của toàn thể nhân dân lao động. Ðiều này khẳng định vai trò hết sức đặc biệt của nhân dân lao động trong quản lý hành chính nhà nước, đồng thời xác định những nhiệm vụ mà nhà nước phải thực hiện trong việc đảm bảo những điều kiện cơ bản để nhân dân lao động được tham gia vào quản lý hành chính nhà nước. Và quan trọng hơn cả đó chính là nguyên tắc này chỉ thực sự có ý nghĩa khi nó được bảo đảm thực hiện trên thực tế. Có thể mở rộng, tăng cường quyền của công dân trong hoạt động quản lý, nhưng không được phép hạn chế, thu hẹp những gì mà Hiến pháp đã quy định. Sự tham gia ý kiến một cách chủ động của nhân dân vào các hoạt động quản lý hành chính nhà nước là biện pháp thiết thực và cụ thể nhất nhằm đảm bảo bản chất của nhà nước ta. III. ĐÁNH GIÁ VIẸC VẬN DỤNG NGUYÊN TẮC VÀO QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH Ở NƯỚC TA HIỆN NAY. 1. Thực trạng của việc vận dụng nguyên tắc trong quản lý hành chính nhà nước ở nước ta hiện nay: a, Những mặt tích cực: Đối với hình thức tham gia gián tiếp, một đặc trưng của hình thức này chính là nhân dân lao động không trực tiếp thực hiện quyền làm chủ của mình mà thông qua các cơ quan nhà nước hoặc các tổ chức chính trị - xã hội. Như vậy, nhân dân có thể tham gia vào hoạt động quản lý hành chính rộng rãi và hiệu quả hơn; trong hình thức nhân dân tham gia vào hoạt động quản lý hành chính nhà nước thông qua các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội, xã hội nghề nghiệp mà họ là thành viên. Theo hình thức này, những nguyện vọng, ý kiến của người dân được các tổ chức đó tập hợp lại để chuyển tới các cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước xem xét, giải quyết. Hiện nay, trong điều kiện đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, phát triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, các tổ chức chính trị - xã hội đã có những thay đổi trong tổ chức và phương thức hoạt động, gắn chặt hơn với quần chúng, với các đoàn viên, hội viên. Đồng thời, trong xã hội, những tổ chức xã hội, tổ chức nghề nghiệp cũng được phát triển mạnh. Tình hình này cho phép nhân dân có khả năng tham gia nhiều hơn trong hoạt động quản lý của nhà nước, từ việc phản biện các chính sách, pháp luật của Nhà nước, giám sát sự thực hiện của các cơ quan nhà nước và của công chức, cũng như đề đạt nguyện vọng, ý kiến của mình cho các cơ quan nhà nước xem xét, thực hiện. Với hình thức này, vai trò của nhân dân được nhân rộng lên rất nhiều và có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả quản lý hành chính nhà nước. Đối với hình thức tham gia trực tiếp, hình thức này thể hiện rõ nhất vai trò làm chủ của nhân dân lao động đối với Nhà nước, xã hội, bảo đảm được bản chất của nhà nước ta là nhà nước của dân, do dân và vì dân . Đối với hình thức này thì nhân dân lao động trực tiếp tham gia vào hoạt động quản lý hành chính nhà nước, trực tiếp biểu đạt nguyện vọng, mong muốn của mình cũng như trực tiếp thực hiện nó trong phạm vi quyền hạn theo quy định của pháp luật. Như vậy, nguyện vọng của nhân dân được thể hiện chính xác nhất, trực tiếp nhất, thông qua đó nâng cao hiệu quả vận dụng nguyên tắc này vào thực tiễn đời sống xã hội, phát huy được vai trò làm chủ của nhân dân một cách rõ ràng nhất. Hình thức tham gia của nhân dân vào các hoạt động tự quản ở cơ sở, hình thức này đã ngày càng phát huy được tính tích cực trên thực tế. Hoạt động quản lý hành chính nhà nước là hoạt động hết sức rộng rãi chính vì vậy hình thức này đã hỗ trợ hoạt động quản lý ở từng cơ sở, ở từng địa phương, bám sát tình hình thực tế, phát huy hiệu quả quản lý trong quản lý hành chính nhà nước. b, Những mặt hạn chế Với các hình thức tham gia gián tiếp, như đã trình bày ở trên, những người lao động có thể gián tiếp tham gia vào hoạt động của các cơ quan nhà nước thông qua việc thực hiện quyền lựa chọn những đại biểu xứng đáng thay mặt mình vào cơ quan quyền lực nhà nước. Tuy nhiên, hiện nay mối quan hệ giữa nhân dân lao động và đại biểu mà họ bầu ra còn có khoảng cách khá xa và chưa thật sự gắn bó, khiến cho việc quản lý hành chính nhà nước của nhân dân lao động chưa thực sự sự hiệu quả. Ngoài ra, việc thực hiện quyền lực nhà nước, thực hiện sự tham gia quản lý của nhân dân bằng và thông qua các cơ quan đại biểu vẫn còn nhiều hạn chế. Ngoài sự hạn chế kể trên, bản thân người dân, do trình độ nhận thức, nhất là trình độ pháp lý, cũng chưa thấy hết được quyền lợi và nghĩa vụ của mình đối với việc tham gia quản lý hành chính nhà nước, chưa làm hết sức mình khi tham gia quản lý nhà nước ở hình thức này. Nó thể hiện ở sự bỏ phiếu lấy lệ, cho xong của nhiều người trong các lần bầu cử... Đối với hình thức tham gia trực tiếp, Hiến pháp nước ta quy định, nhân dân có quyền quyết định các vấn đề hệ trọng của đất nước thông qua trưng cầu dân ý và trực tiếp quyết định nhiều vấn đề liên quan đến đời sống ở cơ sở. Tuy nhiên, đến nay vấn đề trưng cầu dân ý vẫn chưa thực sự phát huy được hiệu quả như mong đợi, vẫn còn mang nhiều tính hình thức. Về phía người dân, do trình độ, do những mối quan hệ thân thiết và do sự chưa nghiêm minh trong việc xử lý vi phạm của cán bộ nên họ cũng ít bày tỏ chính kiến của mình, trừ khi các vấn đề đã trở nên quá bức xúc. Chính điều này đã không chỉ hạn chế quyền tham gia quản lý nhà nước của người dân, không huy động được sức mạnh của nhân dân trong việc quản lý, phát triển kinh tế - xã hội của địa phương mà còn là căn nguyên của sự xuất hiện các vụ khiếu kiện kéo dài, những điểm nóng tại một số cơ sở. Ngoài những hình thức nêu trên, người dân có thể tham gia ý kiến vào các văn bản pháp luật khi được công bố hỏi ý kiến qua báo chí. Tuy nhiên, hình thức này cũng gặp nhiều khó khăn, hạn chế. Người dân ít có những ý kiến đóng góp với chính quyền và các cơ quan nhà nước trừ khi có những vấn đề bức xúc của bản thân. Khi có các văn bản xin ý kiến tham gia đóng góp đăng trên các cơ quan báo chí cũng chỉ có số ít những người có ý kiến. Việc kiểm tra, giám sát hoạt động quản lý nhà nước của các cơ quan và công chức nhà nước; thực hiện kh