1. Hiến pháp 2013 đánh dấu sựthay đổi
quan trọng trong việc ghi nhận và bảo đảm
quyền con người bằng việc qui định Chương 2:
Quyền con người, quyền nghĩa vụcơbản của
công dân. Trong sốcác quyền con người được
Hiến pháp này ghi nhận, thì quyền bất khảxâm
phạm vềthân thể được chú trọng đặc biệt. Điều
20 Hiến pháp 2013 qui định: “1. Mọi người có
quyền bất khảxâm phạm vềthân thể, được
pháp luật bảo hộvềsức khoẻ, danh dựvà nhân
phẩm; không bịtra tấn, bạo lực, truy bức, nhục
hình hay bất kỳhình thức đối xửnào khác xâm
phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự,
nhân phẩm; 2. Không ai bịbắt nếu không có
quyết định của Tòa án nhân dân, quyết định
hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân,
trừtrường hợp phạm tội quảtang. Việc bắt,
giam, giữngười do luật định”.
9 trang |
Chia sẻ: superlens | Lượt xem: 2164 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hiến pháp 2013 và việc hoàn thiện biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam trong tố tụng hình sự, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Luật học, Tập 30, Số 3 (2014) 15-23
15
Hiến pháp 2013 và việc hoàn thiện biện pháp ngăn chặn bắt,
tạm giữ, tạm giam trong tố tụng hình sự
Nguyễn Ngọc Chí*
Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 144 Xuân Thủy, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam
Nhận ngày 10 tháng 6 năm 2014
Chỉnh sửa ngày 20 tháng 8 năm 2014; Chấp nhận đăng ngày 16 tháng 9 năm 2014
Tóm tắt: Trên cơ sở qui định của Hiến pháp 2013, bài viết phân tích và đưa ra các kiến nghị hoàn
thiện Bộ luật tố tụng hình sự về các biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam để triển khai thực
thi việc bảo đảm quyền con người.
Từ khóa: Biện pháp ngăn chặn; bắt người; tạm giữ hình sự; tạm giam; hoàn thiện pháp luật tố tụng
hình sự.
1. Hiến pháp 2013 đánh dấu sự thay đổi
quan trọng trong việc ghi nhận và bảo đảm
quyền con người bằng việc qui định Chương 2:
Quyền con người, quyền nghĩa vụ cơ bản của
công dân. Trong số các quyền con người được
Hiến pháp này ghi nhận, thì quyền bất khả xâm
phạm về thân thể được chú trọng đặc biệt. Điều
20 Hiến pháp 2013 qui định: “1. Mọi người có
quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được
pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân
phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục
hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm
phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự,
nhân phẩm; 2. Không ai bị bắt nếu không có
quyết định của Tòa án nhân dân, quyết định
hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân,
trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt,
giam, giữ người do luật định”.*
_______
* ĐT: 043.7547512
Email: chinn1957@yahoo.com
Qui định này đã thể hiện tương đối toàn
diện những chuẩn mực quốc tế về quyền con
người được qui định trong các văn bản pháp lý
quốc tế như: Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền
(1948), Công ước quốc tế về các quyền dân sự
và chính trị (1966) (ICCPR) và nhiều văn kiện
khác như “Tập hợp các nguyên tắc bảo vệ tất cả
những người bị giam hay cầm tù dưới bất kỳ
hình thức nào” được Đại hội đồng Liên hợp
quốc thông qua bằng Nghị quyết 43/173 ngày
9/12/1988 (bao gồm 39 nguyên tắc cụ thể);
“Các quy tắc của Liên hợp quốc về bảo vệ
người chưa thành niên bị tước tự do” được Đại
hội đồng Liên hợp quốc thông qua bằng Nghị
quyết 45/113 ngày 14/12/1990...1 Đối chiếu với
các tiêu chí được qui định ở các văn bản quốc
tế nêu trên về quyền con người thì Điều 20
_______
1 Xem chi tiết các văn kiện này tại “Giới thiệu các văn
kiện quốc tế về quyền con người”, Khoa Luật –
ĐHQGHN, NXB Lao động xã hội, 2011: Chương 9.
Quyền con người trong quản lý tư pháp.
N.N. Chí / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Luật học, Tập 30, Số 3 (2014) 15-23
16
Hiến pháp 2003 đã thể hiện được những nội
dung sau:
Thứ nhất, quyền được bảo vệ để khỏi bị bắt,
giam giữ tùy tiện. Quyền này đầu tiên được quy
định trong Điều 9 UDHR, trong đó nêu rằng,
không ai bị bắt, giam giữ hay lưu đày một cách
tuỳ tiện. Điều 9 ICCPR cụ thể hóa Điều 9
UDHR bằng những quy định khá chi tiết. Ngoài
những nội dung này, trong Bình luận chung số
8 thông qua tại phiên họp lần thứ 16 năm 1982,
HRC đã giải thích thêm một số khía cạnh có
liên quan đến Điều 9 ICCPR. Quyền này đã
được qui định tại khoản 2, Điều 20 Hiến pháp
2013: “2. Không ai bị bắt nếu không có quyết
định của Toà án nhân dân, quyết định hoặc phê
chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường
hợp phạm tội quả tang. Việc bắt, giam, giữ
người do luật định”.
Thứ hai, quyền được bảo vệ không bị tra
tấn, đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân
đạo hoặc hạ nhục. Quyền này đầu tiên được đề
cập trong Điều 5 Tuyên ngôn quốc tế nhân
quyền (UDHR), trong đó nêu rằng, không ai bị
tra tấn hay bị đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô
nhân đạo hoặc hạ thấp nhân phẩm. Điều 7
ICCPR cụ thể hóa, trong đó nêu rõ, không ai có
thể bị tra tấn, đối xử hoặc trừng phạt tàn ác, vô
nhân đạo hoặc hạ thấp nhân phẩm; không ai có
thể bị sử dụng để làm thí nghiệm y học hoặc
khoa học mà không có sự đồng ý tự nguyện của
người đó. Bên cạnh các quy định trên của
UDHR và ICCPR, vấn đề chống tra tấn còn
được đề cập trong một số điều ước quốc tế khác
về quyền con người, đặc biệt là Công ước về
chống tra tấn và các hình thức đối xử, trừng
phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ thấp nhân
phẩm (CAT, 1984). Tuy nhiên, một điều cần lưu
ý là, chống tra tấn, đối xử hay trừng phạt tàn
bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục được coi là một
quy phạm tập quán quốc tế (international
custom law) về quyền con người, bởi vậy, tất cả
các quốc gia trên thế giới đều có nghĩa vụ phải
tuân thủ, bất kể quốc gia đó có là thành viên của
ICCPR, CAT hay bất cứ điều ước quốc tế nào
khác có liên quan hay không. Định nghĩa về
hành động tra tấn đã được nêu ở Điều 1 của
CAT. Tuy nhiên, như Điều này cũng đã nêu rõ,
khái niệm tra tấn không bao gồm những đau
đớn hoặc đau khổ xuất phát từ, gắn liền với
hoặc có liên quan đến các biện pháp trừng phạt
hợp pháp. Hiến pháp 2013 đã thể hiện những
nội dung của quyền này bằng qui định: “không
bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất
kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân
thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm”
(đoạn 2, khoản 1, Hiến pháp 2013).
Thứ ba, quyền được đối xử nhân đạo và tôn
trọng nhân phẩm của những người bị tước tự
do. Quyền này được quy định trong Điều 10
ICCPR. Theo Điều này, những người bị tước tự
do phải được đối xử nhân đạo với sự tôn trọng
nhân phẩm vốn có của con người. Khoản 2
Điều này quy định trừ những hoàn cảnh đặc
biệt, bị can, bị cáo phải được giam giữ tách biệt
với những người đã bị kết án và phải được đối
xử theo chế độ riêng, phù hợp với quy chế dành
cho những người bị tạm giam. Những bị can
chưa thành niên phải được giam giữ tách riêng
khỏi người lớn và phải được đưa ra xét xử càng
sớm càng tốt. Đặc biệt, Khoản 3 Điều này đề
cập đến một nguyên tắc định hướng việc đối xử
với những người bị tước tự do, theo đó, việc đối
xử với tù nhân trong hệ thống trại giam nhằm
mục đích chính yếu là cải tạo và đưa họ trở lại
xã hội, chứ không phải nhằm mục đích chính là
trừng phạt hay hành hạ họ. Những văn kiện của
Liên hợp quốc được sử dụng để làm tiêu chuẩn
đánh giá việc thực hiện quyền được đối xử nhân
đạo khi bị tước tự do và để lập báo cáo quốc gia
về việc thực hiện quyền này bao gồm: Các tiêu
chuẩn tối thiểu của Liên hợp quốc về việc đối
xử với tù nhân (1955); Tập hợp các nguyên tắc
N.N. Chí / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Luật học, Tập 30, Số 3 (2014) 15-23 17
bảo vệ tất cả những người bị giam hay bị cầm
tù dưới bất kỳ hình thức nào (1988) Các
chuẩn mực quốc tế khuyến nghị các quốc gia
nên xác định dưới 18 là độ tuổi được coi là vị
thành niên trong tố tụng hình sự. Việc đối xử
phù hợp với lứa tuổi và tư cách pháp lý của
người chưa thành niên nêu ở Khoản 3 Điều 10
ICCPR phải thể hiện ở những yếu tố như: điều
kiện giam giữ tốt hơn phạm nhân đã thành niên;
giờ lao động ngắn hơn; được liên lạc với người
thân... Văn kiện của Liên hợp quốc được sử
dụng để làm tiêu chuẩn đánh giá việc thực hiện
và để lập báo cáo quốc gia trong vấn đề này là
Các quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu của Liên hợp
quốc về hoạt động tư pháp với người chưa
thành niên (Các quy tắc Bắc Kinh, 1985) (đoạn
5). Hiến pháp 2013 đã thể hiện những nội dung
này: “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về
thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ,
danh dự và nhân phẩm” (đoạn 1, khoản 1 Hiến
pháp 2013).
Không những qui định, mà Hiến pháp 2013
còn cam kết: “1. Ở nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền
công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa,
xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo
đảm theo Hiến pháp và pháp luật. 2. Quyền con
người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế
theo quy định của luật trong trường hợp cần
thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật
tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của
cộng đồng.” (Điều 14 Hiến pháp 2013). Theo
qui định này, thì quyền bất khả xâm phạm về
thân thể được hiến pháp, pháp luật công nhận,
tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm và chỉ bị hạn chế
với hai điều kiện: a) Khi thật cần thiết vì lý do
quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn
xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng;
b) Những hạn chế này phải được qui định trong
luật.
2. Hiến pháp 2013 đã qui định nguyên tắc
chung nhất về quyền bất khả xâm phạm thân
thể và để bảo đảm quyền này thì “việc bắt,
giam, giữ người do luật qui định”. Trong hệ
thống pháp luật nước ta, Bộ luật tố tụng hình sự
(BLTTHS) có trách nhiệm này nhằm thể chế
hóa, chi tiết hóa Hiến pháp, bảo đảm sự phù
hợp của các qui định tố tụng hình sự (TTHS)
với các nguyên tắc bảo đảm quyền bất khả xâm
phạm thân thể được quy định trong Hiến pháp
2013.
Bắt, tạm giữ, tạm giam là các biện pháp
ngăn chặn của TTHS được các cơ quan tiến
hành tố tụng áp trong quá trình giải quyết vụ án.
Biện pháp ngăn chặn (trong đó có biện pháp
bắt, biện pháp tạm giữ, biện pháp tạm giam) là
chế định pháp lý quan trọng được qui định tại
chương VI (từ Điều 79 đến Điều 94) và một số
điều, ở các chương khác của BLTTHS 2003.
Những biện pháp ngăn chặn được áp dụng với
mục đích ngăn chặn không cho tội phạm tiếp
tục xảy ra gây thiệt hại cho xã hội, không để
người phạm tội tiếp tục thực hiện tội phạm hoặc
cản trở điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án trốn
tránh sự trừng phạt của pháp luật. Đồng thời,
việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn còn
nhằm mục đích tạo điều kiện thuận lợi để các
cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết vụ án như
không để người phạm tội có thể xóa bỏ dấu vết
phạm tội, tiêu huỷ chứng cứ, làm giả chứng cứ,
thông cung giữa những người phạm tội hoặc
với người làm chứng, đảm bảo sự có mặt của bị
can, bị cáo, bị án khi có yêu cầu của cơ quan
tiến hành tố tụng... Đối tượng bị áp dụng các
biện pháp ngăn chặn là bị can, bị cáo, người
phạm tội quả tang hoặc người mà cơ quan tiến
hành tố tụng có tài liệu, chứng cứ nghi là họ
phạm tội. Khi áp dụng biện pháp ngăn chặn các
cơ quan có thẩm quyền chỉ được tiến hành
trong phạm vi, giới hạn cũng như thủ tục mà
Luật tố tụng hình sự qui định. Ngoài các đối
N.N. Chí / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Luật học, Tập 30, Số 3 (2014) 15-23
18
tượng kể trên không ai có thể bị áp dụng các
biện pháp ngăn chặn, mọi hành vi áp dụng biện
pháp ngăn chặn không đúng đối tượng, thẩm
quyền, căn cứ cũng như thủ tục đều bị coi là vi
phạm pháp luật, người có hành vi vi phạm tuỳ
theo tính chất và mức độ có thể bị xử lý kỷ luật
hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự. Thẩm quyền
áp dụng biện pháp ngăn chặn là những người
tiến hành tố tụng có thẩm quyền của các cơ
quan Điều tra, Viện kiểm sát, Toà án hoặc
những người có chức vụ trong các cơ quan khác
được giao thực hiện một số hoạt động tố tụng,
công dân tham gia vào việc bắt người phạm tội
quả tang, bắt người theo lệnh truy nã. Tuỳ theo
tính chất, đặc điểm của từng giai đoạn tố tụng,
chức năng nhiệm vụ của các cơ quan, Luật tố
tụng hình sự qui định cho cơ quan đó được áp
dụng tất cả hay một số các biện pháp ngăn chặn
và trong phạm vi, giới hạn cũng như theo thủ
tục của luật tố tụng hình sự.
Qui định của BLTTHS 2003 về biện pháp
ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam góp phần
quan trọng vào việc đấu tranh, xử lý tội phạm,
tuy nhiên khi áp dụng đã bộc lộ những hạn chế
như: còn có qui định chưa phù hợp với các tiêu
chí quốc tế về nhân quyền, còn bị lạm dụng
trong quá trình giải quyết vụ án của các Cơ
quan tiến hành tố tụng (THTT), chưa đáp ứng
được yêu cầu của Hiến pháp 2013 trong việc
bảo đảm quyền con người. Vì vậy, BLTTHS
2003 cần phải sửa đổi bổ sung những vấn đề
sau về biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm
giam cho phù hợ với các qui định của Hiến
pháp về quyền bất khả xâm phạm thân thể:
Thứ nhất, sửa đổi bổ sung mục đích của
biện pháp ngăn chặn tạm giữ, tạm giam
Điều 79 Bộ luật TTHS 2003 quy định áp
dụng biện pháp ngăn chặn với hai mục đích, đó
là: 1) Ngăn chặn không cho tội phạm tiếp tục
xảy ra gây thiệt hại cho xã hội, không để người
phạm tội tiếp tục thực hiện tội phạm hoặc cản
trở điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án trốn
tránh sự trừng phạt của pháp luật; 2) Tạo điều
kiện thuận lợi để các cơ quan THTT giải quyết
vụ án như không để người phạm tội có thể xóa
bỏ dấu vết phạm tội, tiêu huỷ chứng cứ, làm giả
chứng cứ, thông cung giữa những người phạm
tội hoặc với người làm chứng, đảm bảo sự có
mặt của bị can, bị cáo, bị án khi có yêu cầu của
cơ quan THTT. Ngoài hai mục đích trên biện
pháp ngăn chặn không được được áp dụng bởi
bất kỳ mục đích nào khác nhất là đối với ý đồ
xâm phạm quyền con người.
Tuy nhiên, việc qui định biện pháp ngăn
chặn có hai mục đích, trong đó mục đích: Tạo
điều kiện thuận lợi để các cơ quan THTT giải
quyết vụ án đã làm cho các cơ quan tiến hành tố
tụng dễ lạm quyền khi áp dụng các biện pháp
ngăn chặn và do đó đã xâm hại đến quyền con
người trong tố tụng hình sự. Tình trạng có thể
áp dụng biện pháp ngăn chặn không phải giam
giữ như: Cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnhthì
cơ quan tiến hành tố tụng lại áp dụng biện pháp
tạm giam để thuận tiện cho việc hỏi cung hoặc
tiến tiến hành các biện pháp thu thập chứng cứ
đối với bị can. Trong quá trình điều tra vụ án,
khi đề nghị Viện kiểm sát phê chuẩn quyết định
tạm giam, đa số trong các công văn yêu cầu của
Cơ quan điều tra đều ghi căn cứ chung chung
như: “để bảo đảm công tác điều tra xử lý”,
“Thấy rằng cần thiết phải tạm giam bị can,
không để bị can trốn”, “không để bị can tiếp tục
phạm tội” mà không đưa ra được những căn
cứ áp dụng cụ thể. Tình trạng này phản ánh sự
hạn chế trên các bình diện: (1) Qui định của luật
tố tụng hình sự về biện pháp ngăn chặn chưa
chặt chẽ; (2) Các cơ quan THTT lấy việc áp
dụng biện pháp ngăn chặn làm biện pháp điều
tra khám phá tội phạm; (3) Là điều kiện để các
cơ quan THTT không tích cực trong quá trình
giải quyết vụ án; (4) Là một trong những
N.N. Chí / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Luật học, Tập 30, Số 3 (2014) 15-23 19
nguyên nhân dẫn đến việc vi phạm quyền con
người. Đây là hạn chế trong việc qui định mục
đích áp dụng biện pháp ngăn chặn cần khắc
phục khi hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự
trong quá trình cải cách tư pháp hướng tới việc
bảo vệ quyền con người theo qui định của hiến
pháp 2003. Vì vậy, theo chúng tôi Bộ luật
TTHS chỉ nên quy định mục đích của biện pháp
ngăn chặn là: Ngăn chặn tội phạm.
Thứ hai, sửa đổi bổ sung căn cứ áp dụng
biện pháp ngăn chặn
Để bảo đảm đạt được mục đích đặt ra của
biện pháp ngăn chặn, đồng thời bảo vệ các
quyền con người không bị xâm hại, Luật TTHS
quy định căn cứ áp dụng các biện pháp ngăn
chặn. Theo quy định của Luật TTHS khi có một
trong các căn cứ sau đây sẽ được áp dụng biện
pháp ngăn chặn: 1) Để kịp thời ngăn chặn tội
phạm; 2) Khi có căn cứ cho rằng bị can, bị cáo
tiếp tục phạm tội; 3) Khi có căn cứ chứng tỏ bị
can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc điều tra,
truy tố, xét xử; 4) Để bảo đảm thi hành án.
Những căn cứ này được cụ thể hóa khi qui định
các biện pháp ngăn chặn cụ thể.
Như vậy, căn cứ áp dụng các biện pháp
ngăn chặn là những tài liệu, chứng cứ mang
tính dự báo về khả năng bị can, bị cáo thực hiện
các hành vi cản trở điều tra, truy tố, xét xử, tiếp
tục phạm tội hoặc cản trở thi hành án. Khi áp
dụng biện pháp ngăn chặn phải dựa vào một
trong những căn cứ vừa nêu trên chứ không
phải bất kỳ trường hợp nào bị can, bị cáo cũng
đều bị áp dụng biện pháp ngăn chặn. Việc có
hay không áp dụng biện pháp ngăn chặn và áp
dụng biện pháp ngăn chặn nào tuỳ thuộc vào
tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, cũng
như nhân thân của bị can, bị cáo và điều kiện,
khả năng quản lý họ của các cơ quan THTT.
Đối với từng biện pháp ngăn chặn Luật
TTHS còn quy định những căn cứ cụ thể cho
từng biện pháp tránh sự áp dụng tràn lan không
có căn cứ. Tuy nhiên, những căn cứ áp dụng
biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam còn những
hạn chế sau: (1) Loại tội được sử dụng là căn cứ
để qui định bắt, tạm giữ, tạm giam (Chẳng hạn:
Căn cứ tạm giam (Điều 81 BLTTHS qui định:
“1. Bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm
trọng, phạm tội rất nghiêm trọng). Hoặc căn cứ
bắt người trong trường hợp khẩn cấp khoản 1,
Điều 81 BLTTHS 2003 qui định: “a) Khi có
căn cứ để cho rằng người đó đang chuẩn bị thực
hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm
đặc biệt nghiêm trọng”) thể hiện sự duy ý chí
của qui định. Bởi lẽ, khi có hành vi nguy hiển
cho xã hội xảy ra việc xác định hành vi đó có
phải là tội phạm hay không còn khó khăn và
phải phụ thuộc vào việc điều tra do đó xác định
hành vi đó thuộc loại tội nào để áp dụng biện
pháp ngăn chặn lại càng khó khăn nếu không
muốn nói là duy ý chí. Thực tiễn cho thấy, việc
xác định đó hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí chủ
quan của người tiến hành tố tụng, dễ dẫn đến
việc lạm quyền khi áp dụng biện pháp bắt, tạm
giữ, tạm giam; (2) Các căn cứ áp dụng biện
pháp ngăn chặn còn qui định quá chung chung,
gây khó khăn khi áp dụng các biện pháp ngăn
chặn này, như: “xét thấy cần ngăn chặn ngay
việc người đó trốn (điểm b, khoản 1, điều 81);
hoặc “xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người
đó trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ” Vì vậy, cần
hoàn thiện căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn
này theo hướng bỏ các căn cứ dựa vào tiêu chí
loại tội và cụ thể căn cứ áp dụng biện pháp bắt,
tạm giữ, tạm giam cũng như những biện pháp
ngăn chặn khác.
Thứ ba, thẩm quyền áp dụng biện pháp
ngăn chặn
Ngoài biện pháp bắt người trong trường hợp
phạm tội quả tang, người có lệnh truy nã mà bất
kỳ ai cũng có quyền bắt quy định tại Điều 82
N.N. Chí / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Luật học, Tập 30, Số 3 (2014) 15-23
20
Bộ luật TTHS thì những biện pháp ngăn chặn
khác phải do những người có trách nhiệm của
các cơ quan THTT mới có thẩm quyền áp dụng.
Đối với việc bắt người trong trường hợp
khẩn cấp (Điều 81 Bộ luật TTHS) và biện pháp
tạm giữ (Điều 86 Bộ luật TTHS) thì người có
thẩm quyền quyết định áp dụng phải là: a) Thủ
trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các
cấp; b) Người chỉ huy đơn vị quân đội độc lập
cấp trung đoàn và tương đương; người chỉ huy
đồn biên phòng ở hải đảo và biên giới; c)
Người chỉ huy tàu bay, tàu biển, khi tàu bay, tàu
biển đã rời khỏi sân bay, bến cảng. Thẩm quyền
áp dụng biện pháp bắt bị can, bị cáo để tạm
giam (Điều 80 Bộ luật TTHS) và biện pháp tạm
giam (Điều 88 Bộ luật TTHS) phải là: a) Viện
trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân
dân và Viện kiểm sát quân sự các cấp; b) Chánh
án, Phó Chánh án Tòa án nhân dân, Tòa án
quân sự các cấp; c) Thẩm phán giữ chức vụ
Chánh toà, Phó Chánh toà Tòa phúc thẩm Tòa
án nhân dân tối cao; Hội đồng xét xử; d) Thủ
trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các
cấp.
Tuy nhiên, theo qui định của Hiến pháp
2013, các tiêu chí quốc tế về nhân quyền và
thông lệ quốc tế thì việc bắt người phải do các
tòa án và các cơ quan tư pháp mà chủ yếu là do
Viện Kiểm sát (cơ quan công tố) nhưng
BLTTHS 2003 lại qui định thẩm quyền bắt
người chủ yếu cho Cơ quan điều tra. Tại các
điều 80, 81 BLTTHS 2003 qui định cho người
có thẩm quyền của Cơ quan điều tra có thẩm
quyền ra quyết định bắt người trong trường hợp
khẩn cấp mà không cần có sự phê chuẩn của
Viện kiểm sát và có thẩm quyền ra quyết định
bắt bị can, bị cáo để tạm giam, trường hợp này
cần có sự phê chuẩn của Viện kiểm sát trước
khi thi hành lệnh bắt. Thực tế cho thấy lệnh bắt
người chủ yếu do Cơ quan điều tra ban hành
còn lệnh bắt người của Tòa án, Viện kiểm sát
chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng số các lệnh bắt
người hằng năm của các cơ quan tiến hành tố
tụng. Đây là điều bất hợp lý của Luật tố tụng
hình sự Việt Nam và là yếu tố tác động tiêu cực
đến quyền con người, chưa phù hợp với qui
định của Hiến pháp 2013 cần phải sửa đổi bổ
sung.
Thứ tư, thủ tục áp dụng biện