Hiện trạng công tác lập kế hoạch phát triển ngành viễn thông

Kinh tế nước ta đang phát triển theo hướng kinh tế thị trường, một thị trường có sự cạnh tranh gay gắt, khốc liệt. Sự bùng nổ thông tin cùng với quá trình toàn cầu hóa đang ảnh hưởng sâu sắc tới mọi mặt của đời sống kinh tế, văn hóa- xã hội và chính trị. Cuộc cách mạng khoa học công nghệ trên thế giới đặc biệt là công ngệ thông tin tiếp tục phát triển nhảy vọt thúc đẩy sự hình thành nền kinh tế tri thức toàn cầu hoá nền kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế này càng sâu rộng trong đó công nghệ thông tin là một trong những động lực quan trọng nhất của sự phát triển. Xu hướng quốc tế hoá toàn cầu hoá nền kinh tế xã hội cũng như đời sống thông tin diễn ra nhanh chóng, nhu cầu trao đổi thông tin trong quá trình phát triển kinh tế của đất nước, hội nhập kinh tế là nguồn động lực quan trọng cho phát triển Viễn thông. Viễn thông phải là ngành đi đầu trong sự nghiệp đổi mới trở thành môi trường quan trọng tạo điều kiện cho các ngành kinh tế khác phát triển và có như vậy thì mới thực hiện được chủ chương của Đảng đưa đất nước trong tương lai trở thành một nước công nghiệp hiện đại. Nhưng bên cạnh đó công tác chỉ đạo xây dựng kế hoạch cho ngành viễn thông chưa thực sự phù hợp với môi trường hiện nay việc xác định các chỉ tiêu, mục tiêu của kỳ kế hoạch chỉ mang tính thống kê định hướng, cho nên việc sử dụng các nguồn lực cho kỳ kế hoạch còn hạn chế. Dẫn đến công tác giám sát kiểm tra nhưng kết quả chưa đạt hiệu quả cao. Do vậy việc sử lý các sai phạm của các doanh nghiệp hoạt động trong ngành cần một cơ chế chặt chẽ hơn. Trong bối cảnh hội nhập như hiện nay thì việc phải điều chỉnh công tác kế hoạch phát triển ngành viễn thông cho phù hợp với yêu cầu của định hướng phát triển ngành là một yêu cầu cấp thiết. Do vậy em chọn đề tài này nhằm hoàn thiện công tác lập kế hoạch hiện nay đồng thời như là một kiến nghị của riêng cá nhân em vào sự phát triển chung của ngành viễn thông. Kết cấu đề tài gồm 3 chương: Chương 1. Cơ sở lý luận về lập kế hoạch ngành viễn thông. Chương 2. Hiện trạng công tác lập kế hoạch phát triển ngành viễn thông Chương 3. Đề xuất điều chỉnh trong công tác lập kế hoạch và định hướng đến năm 2020.

doc60 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2109 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Hiện trạng công tác lập kế hoạch phát triển ngành viễn thông, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu Kinh tế nước ta đang phát triển theo hướng kinh tế thị trường, một thị trường có sự cạnh tranh gay gắt, khốc liệt. Sự bùng nổ thông tin cùng với quá trình toàn cầu hóa đang ảnh hưởng sâu sắc tới mọi mặt của đời sống kinh tế, văn hóa- xã hội và chính trị. Cuộc cách mạng khoa học công nghệ trên thế giới đặc biệt là công ngệ thông tin tiếp tục phát triển nhảy vọt thúc đẩy sự hình thành nền kinh tế tri thức toàn cầu hoá nền kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế này càng sâu rộng trong đó công nghệ thông tin là một trong những động lực quan trọng nhất của sự phát triển. Xu hướng quốc tế hoá toàn cầu hoá nền kinh tế xã hội cũng như đời sống thông tin diễn ra nhanh chóng, nhu cầu trao đổi thông tin trong quá trình phát triển kinh tế của đất nước, hội nhập kinh tế là nguồn động lực quan trọng cho phát triển Viễn thông. Viễn thông phải là ngành đi đầu trong sự nghiệp đổi mới trở thành môi trường quan trọng tạo điều kiện cho các ngành kinh tế khác phát triển và có như vậy thì mới thực hiện được chủ chương của Đảng đưa đất nước trong tương lai trở thành một nước công nghiệp hiện đại. Nhưng bên cạnh đó công tác chỉ đạo xây dựng kế hoạch cho ngành viễn thông chưa thực sự phù hợp với môi trường hiện nay việc xác định các chỉ tiêu, mục tiêu của kỳ kế hoạch chỉ mang tính thống kê định hướng, cho nên việc sử dụng các nguồn lực cho kỳ kế hoạch còn hạn chế. Dẫn đến công tác giám sát kiểm tra nhưng kết quả chưa đạt hiệu quả cao. Do vậy việc sử lý các sai phạm của các doanh nghiệp hoạt động trong ngành cần một cơ chế chặt chẽ hơn. Trong bối cảnh hội nhập như hiện nay thì việc phải điều chỉnh công tác kế hoạch phát triển ngành viễn thông cho phù hợp với yêu cầu của định hướng phát triển ngành là một yêu cầu cấp thiết. Do vậy em chọn đề tài này nhằm hoàn thiện công tác lập kế hoạch hiện nay đồng thời như là một kiến nghị của riêng cá nhân em vào sự phát triển chung của ngành viễn thông. Kết cấu đề tài gồm 3 chương: Chương 1. Cơ sở lý luận về lập kế hoạch ngành viễn thông. Chương 2. Hiện trạng công tác lập kế hoạch phát triển ngành viễn thông Chương 3. Đề xuất điều chỉnh trong công tác lập kế hoạch và định hướng đến năm 2020. Chương 1. Cơ sở lý luận về lập kế hoạch ngành viễn thông. 1.1. Lý luận chung về kế hoạch ngành viễn thông. 1.1.1. Kế hoạch ngành viễn thông trong bối cảnh hội nhập. Một số khái niệm. Kế hoạch phát triển ngành. Hệ thống kế hoạch hóa bao gồm bốn bộ phận liên kết chặt chẽ, trong đó chiến lược đóng vai trò định hướng xác định tầm nhìn dài hạn, quy hoạch đi sâu vào định hướng về không gian và tổ chức kinh tế xã hội, chương trình dự án đóng vai trò đánh giá hiệu quả kinh tế xã hội của một dự án cụ thể. Tuy nhiên để quản lý, điều tiết các không gian và tổ chức kinh tế xã hội, diễn ra trong từng giai đoạn, từng thời điểm cụ thể, chúng ta phỉ dựa trên những công cụ cụ thể hơn và kế hoạch phát triển chính là một trong những công cụ ấy. Kế hoạch là công cụ quản lý và điều hành vĩ mô nền kinh tế quốc dân, nó xác định một cách hệ thống những hoạt động nhằm phát triển kinh tế xã hội theo những mục tiêu, chỉ tiêu và các cơ chế chính sách sử dụng trong một thời kỳ nhất định. Do vậy nghị quyết đại hội IX của Đảng cộng sản Việt nam đã xác định “ Xây dựng kế hoạch 5 năm trở thành công cụ chủ yếu của hệ thống kế hoạch hóa phát triển”. Kế hoạch 5 năm được xác định là trung tâm trong hệ thống kế hoạch hóa phát triển. 1.1.1.1.2. Viễn thông. Để có thể có cái nhìn tổng quan về sự phát triển của Viễn thông và hiểu các chỉ tiêu đánh giá chất lượng Viễn thông và từ đó phân tích các nhân tố tác động đến hoạt động sản xuất kinh doanh và khai thác dịch vụ Viễn thông thì trước tiên phải hiểu được các khái niệm sau: Thiết bị Viễn thông: là các phương tiện kỹ thuật, bao gồm cả phần cứng và phần mền được dùng để thiết lập mạng Viễn thông , cung cấp và sử dụng dịch vụ Viễn thông. Thiết bị mạng: là thiết bị Viễn thông được lắp đặt trên mạng Viễn thông, bao gồm thiết bị truyền dẫn, thiết bị chuyển mạch và các thiết bị xử lý thông tin khác. Thiết bị đầu cuối: là thiết bị Viễn thông được đấu nối trực tiếp hoặc gián tiếp đến điểm kết cuối của mạng Viễn thông để gửi, xử lý và nhận các thông tin dưới dạng ký hiệu, tín hiệu, số liệu, chữ viết, âm thanh, hình ảnh qua mạng Viễn thông. Thiết bị đầu cuối thuê bao là thiết bị đầu cuối di động hoặc cố định của người sử dụng được đấu nối hoà mạng vào mạng Viễn thông công cộng qua điểm kết nối cua mạng Viễn thông công cộng. Thiết bị đầu cuối thuê bao được phân thành: + Thiết bị đầu cuối thuê bao một đường là thiết bị đầu cuối không có chức năng chuyển mạch hoặc kết nối các cuộc gọi bao gồm: Thiết bị điện thoại cố định, thiết bị điện thoại di động, thiết bị fax, thiết bị nhắn tin, modem, thiết bị đầu cuối truy cập Internet, máy tính,… + Thiết bị đầu cuối thuê bao nhiều đường là thiết bị đầu cuối có chức năng chuyển mạch, kết nối các cuộc gọi bao gồm các tổng đài, thiết bị cổng truy nhập vô tuyến Internet, thiết bị có tính năng kết nối các cuộc gọi. Dịch vụ Viễn thông: là dịch vụ truyền kí hiệu, tín hiệu, số liệu, chữ viết, âm thanh, hình ảnh hoặc các dạng khác của thông tin giữa các điểm kết nối của mạng Viễn thông. Mạng Viễn thông bao gồm: Mạng Viễn thông công cộng, mạng Viễn thông dùng riêng, mạng Viễn thông chuyên dùng là tập hợp các thiết bị Viễn thông được liên kết với nhau bằng các đường truyền dẫn. Mạng Viễn thông công cộng: là mạng Viễn thông do doanh nghiệp Viễn thông thiết lập để cung cấp các dịch vụ Viễn thông. Mạng Viễn thông dùng riêng: là mạng Viễn thông do cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp hoạt động tại Việt Nam thiết lập để bảo đảm thông tin cho các thành viên của mạng, bao gồm các thiết bị Viễn thông được lắp đặt tại các địa điểm xác định khác nhau và được kết nối với nhau bằng các đường truyền dẫn do cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp thuê hoặc tự xây dựng. Mạng Viễn thông chuyên dùng là mạng Viễn thông để phục vụ thông tin đặc biệt của các cơ quan nước, phục vụ thông tin quốc phòng, an ninh. Chính phủ quy định cụ thể về việc đảng, Nhà thiết lập và hoạt động của các mạng Viễn thông chuyên dùng. Mạng nội bộ là hệ thống thiết bị Viễn thông do một tổ chức hoặc cá nhân thiết lập tại một địa chỉ và phạm vi xác định mà chủ mạng nội bộ đó có toàn quyền sử dụng hợp pháp để đảm bảo liên lạc nội bộ cho các thành viên trong mạng. Hệ thống đường trục Viễn thông quốc gia là một phần của mạng Viễn thông công cộng, bao gồm các đường truyền dẫn đường dài trong nước và quốc tế, và các cổng thông tin quốc tế có tầm quan trọng đặc biệt đối với toàn bộ hoạt động của mạng Viễn thông quốc gia và ảnh hưởng trực tiệp đến việc phát triển kinh tế xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng của đất nước. Truyền dẫn và phát sóng là việc truyền kí hiệu, tín hiệu, số liệu, chữ viết, âm thanh hình ảnh và các giải pháp của thông tin bằng cáp, sóng vô tuyến điện các phương tiện quang học và các phương tiện điện tử khác. Quá trình truyền tin tức diễn ra giữa hai người sử dụng: Người gửi tin và người nhận tin. Thông thường toàn bộ quá trình truyền đưa tin tức do nhiều đơn vị tham gia ở những khoảng cách rất khác nhau thậm chí có những đơn vị trong hệ thống nằm ngoài lãnh thổ một quốc gia. Mỗi đơn vị thực hiện một công đoạn, vai trò của các đơn vị trong quá trình truyền tin tức quyết định đến chất lượng thông tin như nhau (đơn vị đầu cuối, phát tin, nhận tin, truyền đưa tin). Một quá trình truyền đưa tin tức bao gồm ba công việc chính: + Nhận tin từ người gửi tin tức là quá trình thu nhận tin tức; + Vận chuyển tin tức trong không gian đến nơi cần thiết tức là sử lý thông tin; + Trả tin tức cho người nhận tức là quá trình phát tin tức; Việc chuyển đưa tin tức trong không gian cũng được thực hiện bằng nhiều hình thức khác nhau trong Viễn thông thì người ta truyền bằng đường cáp, sóng vô tuyến điện, các phương tiện quang học và các phương tiện điện tử khác. Viễn thông được hiểu như cách thức trao đổi dữ liệu thông qua kỹ thuật điện tử và các công nghệ hiện đại khác. Các dịch vụ viễn thông đầu tiên theo nghĩa này là điện báo và điện thoại. Ngày nay các thiết bị viễn thông là một thành phần cơ bản của hệ thống hạ tầng. Sự hội tụ trong lĩnh vực viễn thông cùng với sự phát triển của xã hội, nhu cầu sử dụng và truyền dẫn dữ liệu của con người cũng thăng lên theo cấp số nhân. Ngành viễn thông đóng vai trò quan trọng trong việc vận chuyển đưa tri thức của loài người đến với mỗi người chúng ta, thúc đẩy quá trình sáng tạo đưa thông tin khắp nơi về về các nghành lĩnh vực khoa học, các thông tin giải trí cũng như thời sự khác. Viễn thông đem lại sự internet băng thông rộng thúc đẩy nghành công nghệ thông tin phát triển lên một hội tụ, hay sự thống nhất về các loại hình truyền dẫn dữ liệu dịch vụ như thư thoại, video, và dữ liệu mức cao hơn với đa dạng các loại hình dịch vụ và chi phí rẻ hơn. Mạng viễn thông giúp người sử dụnh có thể gọi điện thoại qua mạng Internet, có thể chia sẻ ngồn dữ liệu, có thể thực hiện những giao dịch mọi nơi trên khắp thế giới một cách đơn giản. Viễn thông ngày càng tạo nên một thế giới gần hơn hội tụ cho tất cả mọi người. 1.1.1.1.3. Hội nhập kinh tế quốc tế. Hội nhập kinh tế quốc tế là xu hướng tất yếu của mọi quốc gia trên thế giới, một quốc gia nếu không bị tụt hậu và có sự phát triển bền vững thì không thể tham gia vào quá trình quốc tế hóa hóa dời sống kinh tế, hội nhập nền kinh tế quốc tế, tham gia vào phân công lao động và hợp tác quốc tế. Hội nhập (hay liên kết) kinh tế quốc tế được hiểu là các nền kinh tế thế giới hợp tác lẫn nhau một cách có hiệu quả và phụ thuộc lẫn nhau. Hội nhập kinh tế quốc tế được coi là một khâu trong quá trình phát triển và là tiền đề cho quá trình phát triển bền vững. Hội nhập kinh tế quốc tế mang lại những lợi ích kinh tế mà không phải quốc gia nào cũng có được. Hội nhập thực hiện tự do hóa thương mại tạo điều kiện thuận lợi trong việc tiếp thu vốn, công nghệ, trình độ quản lý. Về lâu dài tự do hóa thương mại sẽ góp phần tăng năng suất lao động, tăng trưởng kinh tế. 1.1.1.2. Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đến sự phát triển nghành Viễn thông và ý nghĩa với kế hoạch phát triển nghành. Tự do hóa thương mại sẽ tạo điều kiện cho mỗi quốc gia thành viên có điều kiện thuận lợi trong việc tiếp thu vốn, công nghệ, trình độ quản lý. Nghành viễn thông không đứng ngoài xu thế đó, sự hội nhập sẽ giúp cho các nghành có được sự thuận lợi trên. Không những thế sự cạnh tranh trong giai đoạn hội nhập sẽ trở thành động lực phát triển của nghành. Bên cạnh đó, sự hội nhập sẽ giúp cho Việt Nam nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước một cách có ý thức và theo lộ trình cụ thể thông qua việc thực hiện các cam kết khi tham gia vào các tổ chức như WTO, AFTA… Đây là những thuận lợi mà chúng ta không thể có được nếu đóng cửa nền kinh tế, đứng ngoài cuộc chơi toàn cầu hóa đang lan tỏa đến từng quốc gia. Tuy nhiên hội nhập không chỉ mang lại sự thuận lợi cho nghành mà nó cũng đặy ra các vấn đề cạnh tranh. Trong khi năng lực của các doanh nghiệp trong nước còn hạn chế thì sự gia nhập của các tập đoàn lớn sẽ là một thách thức không nhỏ trong sân chơi bình đẳng. Việc mở cửa thị trường sẽ là cơ hội tốt cho các tập đoàn lớn của nước ngoài vào Việt Nam điều đó sẽ làm mất thị trường của một số các doanh nghiệp trong nước còn đang hoạt động một cách yếu kém, không những vậy sẽ tạo ra một luuồng chảy chất sám ra nước ngoài nơi mà có điều kiện để phát triển và là cơ hội của bất kỳ ai… Đó chỉ là một số khó khăn cơ bản mà nếu nghành Viễn thông nói chung, các doanh nghiệp hoạt động trong ngành nói riêng nếu không có sự chuẩn bị tốt thì sẽ không thể nào hội nhập thành công. Về phần Kế hoạch nghành viễn thông trong bối cảnh hội nhập cũng phải có sự điều chỉnh sao cho phù hợp với tình hình chung của nền kinh tế để có thể không chỉ khai thác được tiềm năng trong nước mà còn tận dụng được những nguồn lực đến từ bên ngoài như vốn, khoa học kĩ thuật, trình độ quản lý… Bên cạnh đó kế hoạch cũng là một bản cam kết của nhà nước về định hướng phát triển ngành trong tương lai sao cho phù hợp vớ các thông lệ quốc tế, các thỏa thuận đã được kí kết trong quá trình đàm phán. Từ đó mới có thể tạo được niềm tin cho các nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông. Và trên hết hội nhập đòi hỏi kế hoạch phát triển nghành phải có sự điều chỉnh sao cho có thể tận dụng mọi lợi thế và khắc phục khó khăn để có thể đưa ngành phát triển vững mạnh trong giai đoạn mới. Với viễn thông thì khi có hội nhập các công nghệ mới sẽ du nhập vào Việt Nam một cách thuận lợi và có hệ thống không chỉ do chúng ta tự đầu tư, đem về mà còn do các quốc gia, các tập đoàn lớn mang đến thông qua việc đầu tư vào Việt Nam một cách chủ động. Chính vì thế khi có sự hội nhập công nghệ của ngànhViễn thông vốn đã thay đổi nhanh lại càng nhanh do phải theo kịp với các công nghệ tiên tiển trên thế giới, nếu không sẽ ảnh hưởng đến sự kết nối và tương thích với mạng toàn cầu, đồng thời làm chậm bước tiến của chúng ta trong việc đi thẳng vào công nghệ cao. Chính vì thế, hao mòn vô hình của nghành khi công nghệ thay đổi sẽ có tốc độ nhanh hơn sau khi Việt Nam hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới. Điều này đòi hỏi kế hoạch ngành viễn thông không được cứng nhắc mà phải luôn có sự điều chỉnh sao thích hợp với điều kiện mới, nhanh chóng thay đổi thích nghi với ngoại cảnh để có thể dẫn dắt ngành phát triển. Bên cạnh các công nghệ các nguồn vốn cả trực tiếp và gián tiếp sẽ liên tục đổ vào Việt Nam trong lĩnh vực Viễn thông đây là lĩnh vực công nghệ co, các nhà đầu tư trên thế giới có xu hướng đầu tư ra các nước của họ có xu hướng bão hòa điều này đặt ra cho Kế hoạch nghành trong điều kiện mới làm sao có thể đưa ra các phương án để thu hút và tận dụng tốt nhất nguồn vốn nước ngoài ồ ạt vào Việt Nam sau hội nhập. Ngoài công nghệ và vốn, một yếu tố cũng vô cùng quan trọng đó là trình độ quản lí và nền tảng kiến thức hiện đại sẽ du nhập theo nguồn vốn đầu tư vào Việt Nam, đây là yếu tố mà Việt Nam nói chung và các nước đang phát triển nói riêng đang vừa thiếu lại vừa yếu, do tư duy kinh tế chưa phát triển nền kinh tế thị trường chưa thực sự hoàn thiện. Tự do hóa thương mại chúng ta sẽ có những bài học kinh nghiệm quý báu về công tác quản lý, về cách điều hành mà các nước tiên tiến đang áp dụng, để từ đó có thể linh hoạt áp dụng một cách hợp lý vào Việt Nam. Điều này không thể ncó được nếu chúng ta đóng cửa nền kinh tế và nó đặt ra kế hoạch ngành viễn thông trong giai đoạn mới phải có sự điều chỉnh để có thể phát triển một đội ngũ nhân lực có đủ trình độ và năng lực để có thể tiếp thu được toàn bộ các kiến thức, kinh nghiệm quản lý phục vụ cho sự phát triển ngành. Hội nhập kinh tế quốc tế chính là một thách thức lớn đòi hỏi Kế hoạch phát triển ngành Viễn thônng phải có sự điều chỉnh linh hoạt sao cho phù hợp với điều kiện mới tránh sự cứng nhắc trong Kế hoạch sẽ khiến cho nghành không bắt kịp theo các xu hướng thời đại, bỏ lỡ các thời cơ đang mở rộng. Điều chỉnh công tác lập kế hoạch trong giai đoạn mới là phải làm rõ được các yếu tố ảnh hưởng gồm cả thuận lợi, khó khăn của hội nhập đến Viễn thông của Việt Nam để từ đó có thể có các chỉ tiêu, mục tiêu, giải pháp điều chỉnh bổ sung sao cho ngành có thể nắm bắt các cơ hội, vượt lên khó khăn để không ngừng phát triển. 1.1.2. Sự cần thiết phải lập kế hoạch ngành viễn thông. Xuất phát từ yêu cầu phát triển kinh tế Văn kiện đại hội Đảng IX đã khẳng định mục tiêu phát triển của chiến lược 10 năm 2001 – 2010: “Đưa đất nước ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hoá tinh thần của nhân dân; Tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nguồn lực con người, năng lực khoa học công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, an ninh quôc phòng được tăng cường; Thể chế kinh tế thị trường đinh hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành về cơ bản, vị thế của nước ta trên trường quốc tế được nâng cao”. Xuất phát từ mục tiêu của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Đảng, chiến lược phát Bưu chính Viễn thông đến năm 2010 và định hướng phát triển đến năm 2020 và chỉ số 58- CT/TW của Bộ Chính trị sẽ xem xét lý do cần phải xây dựng kế hoạch 5 năm phát triển Viễn thông ở ba khía cạnh sau: Xuất phát từ yêu cầu phát triển kinh tế Để thực hiện được mục tiêu phát triển kinh tế của Đảng thì phải phát triển cơ sở hạ tầng tạo điều kiện cho các ngành kinh tế khác phát triển. Viễn thông và Internet lại là một phần quan trọng của cơ sở hạ tầng thông tin quốc gia do đó phải được ưu tiên phát triển. Những ứng dụng công nghệ thông tin vào trong vào trong các ngành kinh tế khác góp phần làm tăng năng xuất của những ngành này từ đó thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá của đất nước. Do đó phát triển Viễn thông là cần thiết vì nó là yếu tố khách quan cho quá trình sản xuất. Mục tiêu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện đại hoá là xây dựng nước ta là thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại. Mặt khác, trong Chỉ thị 58/CT-TW của Bộ Chính trị về “Đẩy mạnh ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá của đất nước”. Công nghệ thông tin là một trong các động lực quan trọng nhất cảu sự phát triển, ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin nước ta nhằm góp phần giải phóng sức mạnh vật chất, trí tuệ, tinh thần của toàn dân tộc, thúc đẩy công cuộc đổi mới, phát triển nhanh và hiện đại các ngành kinh tế, tăng cường năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp, hỗ trợ có hiệu quả quá trình chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Muốn thực hiện được điều đó thì phải ưu tiên phát triển mạng thông tin quốc gia liên kết với mạng thông tin quốc tế. Đẩy mạnh đầu tư xây dựng mạng thông tin quốc gia, bao gồm hệ thống Viễn thông và Internet Việt Nam. Phát triển mạng thông tin quốc gia đáp ứng nhu cầu trước mắt và lâu dài của toàn xã hội. Có thể nói thế kỷ XXI là thể kỷ của sự bùng nổ công nghệ thông tin, thế kỷ mà các công nghệ Viễn thông, Internet trở thành công nghệ gốc, quyết định phát triển các loại công nghệ khác. Nếu không phát triển công nghệ thông tin thì mọi công nghệ khác sẽ trở nên lạc hâu, kém hiệu quả và bị loại trừ. Trong cuộc sống ngày nay, đời sống xã hội đang có bước thay đổi lớn nhờ sự phát triển không ngừng của cách mạng công nghệ, tình hình kinh tế, chính trị thế giới đang có nhiều thay đổi, cả thế giới đang trở thành một thị trường thống nhất thì sự phát triển phồn thịnh của đất nước không chỉ phụ thuộc vào yếu tố bên trong quốc gia mà còn phụ thuộc rất nhiều vào vận hội và khả năng khai thác, học hỏi ở thế giới bên ngoài. Các nguồn thông tin từ thế giới bên ngoài có thể qua nhiều con đường và phương tiện khác nhau về nước ta như: báo chí, phát thanh, truyền hình…Tuy nhiên các phương tiên này chỉ cho nguồn thông tin một chiều. Để có thể giải quyết hàng loạt các vấn đề liên quan đến hội nhập kinh tế quốc tế cần phải có các phương tiện giúp cho việc trao đổi thông tin hai chiều và nhiều chiều phương tiện đó chính là Viễn thông và Internet. Thực tế trong tiến trình hội nhập quốc tế của nước ta hiện nay, công nghệ thông tin là môi trường quan trọng tạo ra các điều kiện ban đầu cho việc hội nhập. Công nghệ thông tin là động lực chủ yếu phát triển kinh tế tri thức và xã hội thông tin. Như vậy công nghệ thông tin nói chung và viễn thông nói riêng phải đi trước một bước trong quá trình hội nhập. Công nghệ thông tin là cơ sở phát triển công nghệ của mọi ngành kinh tế – xã hội hiện đại . Muốn như vậy phải có kế hoạch phát triển Viễn thông cũng như Internet một cách hợp lý để đạt được sự phát triển kinh tế của đất nước. Xuất phát từ yêu cầu đời sống xã hội Để thực hiện mục tiêu chiến lược 2001 – 2010 là nâng cao đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần của người dân. Thì Viễn thông cần phải phát triển mạnh hơn nữa, các phương tiện dịch vụ truyền thông tin ngày càng phải đa dạng hơn nữa dễ dàng tiện lợi cho người sử dụng. Nếu như trước đây chỉ có dịch vụ truyền thông tin như điện thoại gọi số, điện thoại công cộng, điện báo trong nước và quốc tế…thì nay đã phát triển các dịch vụ Viễn thông mới như điện thoại dùng thẻ, điện thoại di động, điện thoại hình, dịch vụ nhắn tin, dịch vụ I