Trong vài năm tới đây, thế giới sẽđược chứng kiến xu hướng các qu ốc gia sẽ
nhóm họp và liên kết nhau thành những khu vực c ác quốc gia có chung mục
đích, có chung quy ền lợi. Mới đây, người ta đãđược ch ứng kiến sự ra đời của
khối “ đồng tiền chung Châu Âu” và tiếp những năm tới l à s ự ra đời của kh ối
mậu dịch tự do AFTA,. Xu hướng này đồng nghĩa với vi ệc h àng hóa của các
quốc gia cùng khối sẽ được lưu chuyển qua nhau dễ dàng hơn. Đối với những
nước có nền kinh tế phát triển thì đây dường như là cơ hội đối với h ọ, nhưng đối
với những nước ch ậm phát triển như nước ta thì xu hướng này mang tính thách
thức nhiều hơn là cơ hội. Vậy, làm thế nào để chuyển những thách thức này
thành cơ hội cho c ác doanh nghiệp trong nước? Để trả lời cho c âu hỏi này các
doanh nghiệp Việt Nam đã tự tì m kiếm và họđã tìm ra được c ông cụ giúp họ
thành công, đó chính là marketing kinh doanh. Hiện nay, sựđầu tư không biết
mệt mỏi của các doanh nghiệp vào lĩnh vực marketing là bằng chứng sống động
nhất chứng minh cho việc nên và cần thiết phải áp dụng marketing vào kinh
doanh. Chính nền kinh tế thị tr ường với đặc trưng là s ựđào thải đã dẫn dắt cho
việc phát triển của l ý thuyết marketing hi ện đại vàứng dụng nó vào thực tiễn. Đặc
biệt, đối v ới nh ững doanh nghiệp nhà nước, khi bước sang cơ chế thị tr ường đã
gặp rất nhiều khó khăn. Việc đị nh hướng và xây dựng một chi ến lược marketing
– mix toàn diện sẽ cho phép doanh nghiệp thực hi ện mục ti êu đứng vững, phát
triển và mở r ộng thị trường. Vốn là một doanh nghiệp nhà nước n ên công ty văn
phòng phẩm Hồng Hà cũng đã từng tồn tại những quan niệm cũ tr ước đây nhưng
do những cố gắng của công ty mà hiện nay những thói quen l àm việc, lề l ối cũđã
không còn mà thay vào đó l à một hệ th ống tổ ch ức c ó khoa học v à hiệu quả hơn.
Chính điều này đã l àm nên thành công cho công ty văn phòng phẩm Hồng Hà.
Từ một c ông ty đang lâm vào tình trạng không phát triển, lỗ kéo dài nay công ty
đã tì m lại được ch ỗđứng tương đối tr ên thị trường, sản phẩm của công ty rất đa
dạng, phong ph ú và rất ph ù hợp với thị hiếu người tiêu dùng.
103 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 3626 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Hoàn thiện các chính sách marketing – Mix ở công ty văn phòng phẩm Hồng Hà, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
- 1 -
Đề tài
Hoàn thiện các chính sách marketing – mix ở
công ty văn phòng phẩm Hồng Hà
- 2 -
Lời mởđầu
Tính cấp thiết của đề tài:
Trong vài năm tới đây, thế giới sẽđược chứng kiến xu hướng các quốc gia sẽ
nhóm họp và liên kết nhau thành những khu vực các quốc gia có chung mục
đích, có chung quyền lợi. Mới đây, người ta đãđược chứng kiến sự ra đời của
khối “ đồng tiền chung Châu Âu” và tiếp những năm tới là sự ra đời của khối
mậu dịch tự do AFTA,... Xu hướng này đồng nghĩa với việc hàng hóa của các
quốc gia cùng khối sẽ được lưu chuyển qua nhau dễ dàng hơn. Đối với những
nước có nền kinh tế phát triển thì đây dường như là cơ hội đối với họ, nhưng đối
với những nước chậm phát triển như nước ta thì xu hướng này mang tính thách
thức nhiều hơn là cơ hội. Vậy, làm thế nào để chuyển những thách thức này
thành cơ hội cho các doanh nghiệp trong nước? Để trả lời cho câu hỏi này các
doanh nghiệp Việt Nam đã tự tìm kiếm và họđã tìm ra được công cụ giúp họ
thành công, đó chính là marketing kinh doanh. Hiện nay, sựđầu tư không biết
mệt mỏi của các doanh nghiệp vào lĩnh vực marketing là bằng chứng sống động
nhất chứng minh cho việc nên và cần thiết phải áp dụng marketing vào kinh
doanh. Chính nền kinh tế thị trường với đặc trưng là sựđào thải đã dẫn dắt cho
việc phát triển của lý thuyết marketing hiện đại vàứng dụng nó vào thực tiễn. Đặc
biệt, đối với những doanh nghiệp nhà nước, khi bước sang cơ chế thị trường đã
gặp rất nhiều khó khăn. Việc định hướng và xây dựng một chiến lược marketing
– mix toàn diện sẽ cho phép doanh nghiệp thực hiện mục tiêu đứng vững, phát
triển và mở rộng thị trường. Vốn là một doanh nghiệp nhà nước nên công ty văn
phòng phẩm Hồng Hà cũng đã từng tồn tại những quan niệm cũ trước đây nhưng
do những cố gắng của công ty mà hiện nay những thói quen làm việc, lề lối cũđã
không còn mà thay vào đó là một hệ thống tổ chức có khoa học và hiệu quả hơn.
Chính điều này đã làm nên thành công cho công ty văn phòng phẩm Hồng Hà.
Từ một công ty đang lâm vào tình trạng không phát triển, lỗ kéo dài nay công ty
đã tìm lại được chỗđứng tương đối trên thị trường, sản phẩm của công ty rất đa
dạng, phong phú và rất phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng.
- 3 -
Tuy nhiên, chỉ hơn 10 năm thì chưa đủđểđược coi làđã có kinh nghiệm
ứng dụng marketing, chính vì chưa có kinh nghiệm trong việc ứng dụng
marketing vào thực tế nên nhiều khi doanh nghiệp còn lúng túng trong việc ra
quyết định marketing. Đồng thời, việc phối hợp các yếu tố trong marketing hỗn
hợp còn chưa hài hoà, các quyết định còn rời rạc mang tính đối phó trước mắt.
Nếu vẫn tiếp tục như vậy thì trong những năm tới- khi Việt nam gia nhập AFTA,
WTO,... thì công ty sẽ khó có khả năng cạnh tranh trên thị trường. Xuất phát từ
tình hình đó, việc phối hợp các chính sách marketing với nhau một cách đồng bộ
sẽ giúp doanh nghiệp cóđược những quyết định đúng đắn và hiệu quả hơn. Xuất
phát từ vấn đềđó nên em chọn đề tài: “ Hoàn thiện các chính sách marketing –
mix ở công ty văn phòng phẩm Hồng Hà” làm luận văn tốt nghiệp của mình.
Mục đích nghiên cứu:
Nghiên cứu những lý luận cơ bản về marketing-mix, đề tài làm rõ vai trò
và chức năng của marketing-mix đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp. Đồng thời, phân tích thực trạng hoạt động marketing và chính
sách marketing – mix ở công ty văn phòng phẩm Hồng Hàđể từđóđánh giáđược
những ưu điểm, những tồn tại của công ty. Trên cơ sởđó, đưa ra được những giải
pháp hữu hiệu để khắc phục những tồn tại và nâng cao hiệu quả của các chính
sách marketing – mix.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Tập trung nghiên cứu các chính sách marketing – mix trong quá trình hoạt
động sản xuất kinh doanh của công ty. Dưới góc độ của môn học marketing
thương mại; đề tài đưa ra nhận xét, các giải pháp chung giúp Công ty hoàn thiện
chính sách Marketing-mix của mình.
Phương pháp nghiên cứu:
Trên cơ sở vận dụng quan điểm của Đảng và Nhà nước về tiếp thu vàđổi
mới quá trình vận hành kinh doanh. Vận dụng phương pháp tiếp cận cơ bản của
môn học marketing thương mại và hậu cần thương mại là phương pháp tiếp cận
hệ thống lôgíc với các nghiên cứu cụ thể như: phân tích tổng hợp, sơđồ hóa và
mô hình hóa.
Bố cục của luận văn:
Ngoài phần mởđầu, phần kết luận, phần mục lục và phần tài liệu tham
khảo thì toàn bộ luận văn được trình bày thành 3 chương:
- 4 -
-Chương 1: Cơ sở lý luận về chính sách Marketing-mix của doanh nghiệp.
- Chương 2: Thực trạng các chính sách Marketing-mix của công ty văn
phòng phẩm Hồng Hà.
- Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện các chính sách marketing – mix
của công ty văn phòng phẩm Hồng Hà.
CHƯƠNG 1
CƠSỞLÝLUẬNVỀCHÍNHSÁCHMARKETING- MIX
CỦADOANHNGHIỆP
1.1. TỔNGQUANMARKETINGKINHDOANHCỦADOANHNGHIỆP :
1.1.1. Một số khái niệm cốt lõi của marketing kinh doanh:
Quan niệm cổđiển về marketing nói rằng: “marketing là hoạt động
kinh tế trong đó hàng hóa được đưa từ nhà sản xuất đến người tiêu dùng”.
Như vậy, marketing cổđiển cóđặc trưng là chỉ diễn ra trong lĩnh vực tiêu thụ
sản phẩm và mặt hạn chế là hoạt động marketing chỉ bắt đầu từ nhà sản
xuất.
Ngày nay, lĩnh vực marketing đã phát triển rất rộng buộc các nhà quản
trị phải thay đổi nhận thức của mình. Nếu như trước đây nhà kinh doanh bán
“cái mình có” thì nay phải bán “cái thị trường cần”. Nhờ nhận thức này,
marketing đã bao hàm ý nghĩa rộng lớn hơn, đối tượng và phạm vi nghiên
cứu rộng hơn, ứng dụng cũng rộng hơn trong thực tiễn. Marketing đãđem lại
những hiệu quả kinh tế lớn lao trên nhiều mặt, nó là công cụ có vai trò vàý
nghĩa quan trọng về mặt lý luận và thực tiễn, là một môn khoa học không
ngừng được phát triển và hoàn thiện.
Cách hiểu về marketing hết sức phong phú vàđa dạng, dưới mỗi góc
độ khác nhau thìđịnh nghĩa về marketing cũng khác nhau. Ởđây chỉ nêu ra
một định nghĩa được nhiều người sử dụng của Ph .Kotler:
“Marketing là một quá trình quản lý mang tính xã hội, nhờđó mà các cá
nhân và tập thể cóđược những gì họ cần và mong muốn thông qua việc
- 5 -
tạo ra, chào bán và trao đổi những sản phẩm có giá trị với những người
khác”.
Hay hiểu một cách đơn giản hơn thì: “Marketing là một dạng hoạt
động của con người nhằm thoả mãn những nhu cầu và mong muốn của
họ thông qua trao đổi”.
Định nghĩa này của marketing dựa trên những khái niệm cốt lõi sau:
nhu cầu, mong muốn, và yêu cầu; sản phẩm, giá trị, chi phí, và sự hài lòng;
trao đổi, giao dịch và các mối quan hệ; thị trường, marketing và những người
làm marketing.
Nhu cầu: ý tưởng cội nguồn, cơ bản của marketing làý tưởng về những
nhu cầu của con người. “Nhu cầu được hiểu là cảm giác thiếu hụt một cái
gìđó mà con người cảm nhận được”.Nhu cầu của con người rất đa dạng và
phức tạp. Nó bao gồm cả những nhu cầu sinh lý cơ bản vềăn, mặc, sưởi ấm
và an toàn tính mạng lẫn những nhu cầu xã hội, về sự thân thiện gần gũi, uy
tín và tình cảm gắn bó, cũng như những nhu cầu cá nhân về tri thức và tự thể
hiện mình. Nếu nhu cầu không được thoả mãn thì con người sẽ cảm thấy khổ
sở và bất hạnh. Và nếu nhu cầu đó cóý nghĩa càng lớn đối với con người thì
nó càng khổ sở hơn. Con người không được thoả mãn sẽ phải lựa chọn một
trong hai hướng giải quyết: hoặc là bắt tay vào tìm kiếm một đối tượng có
khả năng thoả mãn được nhu cầu; hoặc cố gắng kiềm chế nó.
Mong muốn: là một nhu cầu có dạng đặc thù, tương ứng với trình
độ văn hóa và nhân cách của cá thể. Mong muốn được biểu hiện ra thành
những đối tượng có khả năng thoả mãn nhu cầu bằng phương thức mà nếp
sống văn hóa của xã hội đó vốn quen thuộc. Các nhà sản xuất, về phía mình,
luôn hướng hoạt động của mình vào việc kích thích ham muốn mua hàng. Họ
cố gắng thiết lập mối quan hệ giữa những sản phẩm của mình và nhu cầu của
con người. Họ tuyên truyền hàng hóa là phương tiện thoả mãn một hay nhiều
nhu cầu đặc thù. Nhà kinh doanh không tạo ra nhu cầu mà nhu cầu tự nóđã
tồn tại.
- 6 -
Yêu cầu: là mong muốn cóđược những sản phẩm cụ thểđược hậu
thuẫn của khả năng thanh toán và thái độ sẵn sàng mua chúng. Mong muốn trở thành yêu
cầu khi có sức mua hỗ trợ. Vì thế, các công ty không những phải lượng định xem có bao
nhiêu người mong muốn có sản phẩm của mình, màđiều quan trọng hơn là
phải lượng định xem có bao nhiêu người thực sự sẵn sàng và có khả năng
mua nó.
Sản phẩm: Người ta thoả mãn những nhu cầu và mong muốn của
mình bằng hàng hóa và dich vụ, ởđây thuật ngữ sản phẩm đểám chỉ cả hàng hóa
lẫn dịch vụ. Do đó, sản phẩm là bất kỳ thứ gì có thểđem chào bán để thỏa mãn một
nhu cầu hay mong muốn. Ý nghĩa quan trọng của sản phẩm vật chất bắt nguồn
không phải chủ yếu từ việc sở hữu chúng mà chính là từ việc cóđược những dịch
vụ mà nóđem lại. Thực ra thì dịch vụ còn do các yếu tố khác đảm bảo như : con
người, địa điểm, các hoạt động, tổ chức vàý tưởng. Các nhà sản xuất hay phạm sai
lầm là chú trọng nhiều đến các sản phẩm vật chất của mình hơn làđến những dịch
vụ mà những sản phẩm đó thực hiện. Họ chỉ nghĩđến việc tiêu thụ sản phẩm chứ
không phải là việc đảm bảo giải quyết một nhu cầu.
Giá trị, chi phí và sự thỏa mãn: Trong số rất nhiều những sản phẩm
có thể thỏa mãn một nhu cầu nhất định, người tiêu dùng sẽ lựa chọn như thế
nào? Khái niệm chủđạo là giá trịđối với khách hàng. Người tiêu dùng sẽđánh
giá khả năng của từng sản phẩm thoả mãn tập nhu cầu của mình. Anh ta có
thể xếp hạng các sản phẩm đó từ loại thoả mãn nhiều nhất đến loại thỏa mãn
ít nhu cầu nhất. Giá trị là sựđánh giá của người tiêu dùng về khả năng chung
của sản phẩm thỏa mãn những nhu cầu của mình. Các nhà nghiên cứu về
hành vi của người tiêu dùng ngày nay đã vượt ra ngoài khuôn khổ chật hẹp
của những giả thuyết kinh tế về cách thức người tiêu dùng xét đoán giá trị và
lựa chọn sản phẩm. Những lý thuyết này cóý nghĩa quan trọng đối với những
người làm marketing vì toàn bộ kế hoạch marketing vẫn dựa trên những giả
thuyết về cách thức người tiêu dùng lựa chọn sản phẩm. Cho nên những khái
- 7 -
niệm về giá trị, chi phí và sự thỏa mãn cóý nghĩa quyết định đối với bộ môn
marketing.
Trao đổi, giao dịch và các mối quan hệ: Việc con người có
những nhu cầu và mong muốn và có thể gắn cho các sản phẩm một giá trị
vẫn chưa nói lên hết được ý nghĩa của marketing. Marketing xuất hiện khi
người ta quyết định thoả mãn những nhu cầu và mong muốn thông qua trao
đổi. Trao đổi là hành động tiếp nhận một sản phẩm mong muốn từ một người
nào đó bằng cách đưa cho người đó thứ gìđó. Trao đổi là khái niệm quyết
định, tạo nền móng cho marketing. Trao đổi chỉ xảy ra khi thỏa mãn đủ năm
điều kiện sau:
Ít nhất phải có hai bên.
Mỗi bên phải có một thứ gìđó có thể có giá trịđối với bên kia.
Mỗi bên đều có khả năng giao dịch và chuyển giao hàng hóa của
mình.
Mỗi bên đều có quyền tự do chấp nhận hay khước từđề nghị của bên
kia.
Mỗi bên đều tin chắc là mình nên hay muốn giao dịch với bên kia.
Nếu cóđủ 5 điều kiện này thì mới có tiềm năng trao đổi. Còn việc
trao đổi có thực sự diễn ra hay không là còn tuỳ thuộc vào vấn đề hai bên có
thể thỏa thuận được những điều kiện trao đổi có lợi cho cả hai bên (hay chíít
cũng không có hại) so với trước khi trao đổi. Chính vìý nghĩa này mà trao
đổi được xem như là một quá trình tạo ra giá trị, nghĩa là trao đổi thường làm
cho cả hai bên đều có lợi hơn trước khi trao đổi.
Giao dịch đòi hỏi phải có một số yếu tố: ít nhất có hai vật có giá
trị, những điều kiện thực hiện đãđược thỏa thuận, thời gian thực hiện đã thỏa
thuận, địa điểm thực hiện đãđược thoả thuận. Thông thường có cả một hệ
thống luật pháp hậu thuẫn và buộc các bên giao dịch phải thực hiện đúng
phần cam kết của mình. Giao dịch rất dễ làm phát sinh mâu thuẫn do hiểu
- 8 -
lầm hay cố tình. Không có “ luật hợp đồng” thì mọi người sẽ thiếu tin cậy
vào giao dịch vàđiều đó không có lợi cho quá trình mua bán.
Đểđảm bảo các cuộc trao đổi diễn ra trôi chảy, người làm marketing
phải phân tích xem mỗi bên dự kiến sẽ cho và nhận cái gì. Những tình huống trao
đổi giản đơn có thể biểu diễn bằng một sơđồ trong đó có hai người tham gia
cùng những thứ mong muốn và lời mời chào lưu thông giữa họ. Đây chính là
bản chất của marketing giao dịch mà marketing giao dịch là một bộ phận của
ý tưởng lớn hơn là marketing quan hệ. Những người làm marketing khôn
ngoan đều cố gắng xây dựng những quan hệ lâu dài, tin cậy, cùng có lợi với
các khách hàng lớn, những người phân phối, đại lý và những người cung
ứng. Việc này được thực hiện bằng cách hứa hẹn và luôn đảm bảo chất lượng
cao, dịch vụ chu đáo và giá cả phải chăng cho phía bên kia. Nhiệm vụđó
cũng được thực hiện bằng cách xây dựng những mối quan hệ ràng buộc chặt
chẽ về kinh tế, kỹ thuật và xã hội với các bên đối tác. Marketing quan hệ sẽ
làm giảm được chi phí và thời gian giao dịch và trong những trường hợp tốt
đẹp nhất giao dịch sẽ chuyển từ chỗ phải thương lượng từng lần một sang
chỗ trở thành công việc thường lệ.
Kết quả cuối cùng của marketing quan hệ là hình thành được một
tài sản độc đáo của công ty, gọi là mạng lưới marketing. Mạng lưới
marketing bao gồm công ty và những người cung ứng, những người phân
phối và khách hàng của mình mà công ty đã xây dựng được những mối quan
hệ vững chắc, tin cậy trong kinh doanh. Marketing ngày càng có xu hướng
chuyển từ chỗ cố gắng tăng tối đa lợi nhuận trong từng vụ giao dịch sang chỗ
tăng tối đa những mối quan hệđôi bên cùng có lợi với các đối tác. Nguyên
tắc làm việc là phải xây dựng được những mối quan hệ tốt rồi tự khắc các vụ
giao dịch sẽ có lợi.
Thị trường: Khái niệm trao đổi dẫn đến khái niệm thị trường: “thị
trường bao gồm tất cả những khách hàng tiềm ẩn cùng có một nhu cầu hay
mong muốn cụ thể, sẵn sàng và có khả năng tham gia trao đổi để thỏa mãn
- 9 -
nhu cầu hay mong muốn đó”. Quy mô của thị trường phụ thuộc vào số người
có nhu cầu và có những tài nguyên được người khác quan tâm và sẵn sàng
đem những tài nguyên đóđểđổi lấy cái mà họ mong muốn. Thuật ngữ thị
trường được hiểu theo nhiều nghĩa dưới nhiều góc độ khác nhau, ởđây ta
hiểu dưới góc độ của những người làm marketing thì họ coi người bán tập
hợp lại với nhau thành ngành sản xuất, còn người mua thì tập hợp lại thành
thị trường và hệ thống marketing đơn giản vận hành theo cơ chế sau: người
bán gửi hàng hóa, dịch vụ và thông tin cho thị trường và nhận lại tiền và
thông tin.
Marketing và người làm marketing: Khái niệm thị trường đưa ta
quay trở lại điểm xuất phát là khái niệm marketing. marketing có nghĩa là
hoạt động của con người diễn ra trong quan hệ với thị trường. Marketing có
nghĩa là làm việc với thị trường để biến những trao đổi tiềm ẩn thành hiện
thực với mục đích là thỏa mãn những nhu cầu và mong muốn của con người.
Nếu một bên tích cực hơn trong việc tìm kiếm sự trao đổi so với bên kia
thì ta gọi bên thứ nhất là nhà tiếp thị (marketer) còn bên thứ hai là khách hàng hy
vọng (prospect). Một nhà tiếp thị là một người đang tìm kiếm một nguồn “tài
nguyên” từ người khác và sẵn sàng dâng hiến một cái gìđó có giá trịđể trao đổi.
Nhà tiếp thịđang tìm kiếm một câu trả lời từ phía bên kia hoặc là bán một cái gìđó,
hoặc mua một cái gìđó. Nhà tiếp thị có thể gọi khác đi là một người mua (seller)
hoặc là một người mua (buyer). Mỗi người mua đều mong muốn để trở thành
người được người bán chọn lựa. Những người mua này đều đang làm marketing.
Trong trường hợp cả hai bên đều tích cực tìm cách trao đổi thì người ta nói rằng cả
hai bên đều là người làm marketing và gọi trường hợp đó là marketing hai chiều
(reciprocal marketing).
Sau khi nghiên cứu kỹ những khái niệm này người ta có thểđịnh
nghĩa marketing như sau: “Marketing là một quá trình quản lý mang tính xã
hội nhờđó mà các cá nhân và tập thể cóđược những gì mà họ cần và mong
- 10 -
muốn thông qua việc tạo ra, chào hàng và trao đổi những sản phẩm có giá trị
với người khác”.
1.1.2.Vị trí và các chức năng cơ bản của marketing kinh doanh:
* Vị trí của marketing kinh doanh.
Marketing kinh doanh của doanh nghiệp vừa là khâu đầu tiên cũng
là khâu cuối cùng trong hệ thống các hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp.
+ Khâu đầu tiên: bởi lẽ, nhiệm vụ của marketing là tiếp cận, tìm kiếm, tạo ra
và lựa chọn thị trường. Nó giúp doanh nghiệp nắm bắt được nhu cầu của
người tiêu dùng từđó doanh nghiệp biết được “cái thị trường cần” để cung
ứng.
+ Khâu cuối cùng: vì mục đích của marketing là thỏa mãn nhu cầu, thay đổi
nhu cầu và kích thích nhu cầu. Doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển trên
thị trường thì vấn đề quan trọng nhất mà họ cần quan tâm chính là nhu cầu
khách hàng. Nhu cầu khách hàng chính làđích cuối cùng mà doanh nghiệp
cần đạt tới vàđểđứng vững doanh nghiệp phải thỏa mãn nhu cầu đó.
* Chức năng của marketing kinh doanh.
Chức năng của marketing xuất phát từ vị trí của marketing trong
hệ thống quản trị của công ty. Do vậy, marketing có một số chức năng cơ
bản như sau:
Chức năng làm thích ứng sản phẩm với nhu cầu thị trường: một
sản phẩm muốn bán chạy thì phải có sức hấp dẫn khách hàng, marketing có
chức năng thích ứng sản phẩm với nhu cầu thị trường thông qua hoạt động
cụ thể như: marketing tiến hành nghiên cứu nhu cầu thị trường và khách
hàng để xác định những mong muốn của khách hàng về sản phẩm. Cần phải
khẳng định rằng marketing không làm công việc của nhà kỹ thuật mà nó chỉ
chỉ ra cho nhà sản xuất phải sản xuất cái gì, như thế nào, khối lượng bao
nhiêu và bao giờ thìđưa ra thị trường là thích hợp.
- 11 -
Chức năng phân phối sản phẩm: là toàn bộ các hoạt động gắn
liền với quá trình vận động của hàng hóa từ sau khi nóđược sản xuất ra cho
đến khi đến được với trung gian thương mại bán buôn, bán lẻ hay người tiêu
dùng cuối cùng. Đó chính là các hoạt động nhằm tổ chức vận động tối ưu sản
phẩm và quá trình này gồm nhiều bước liên quan chặt chẽđến nhau: Lựa
chọn người tiêu thụ (phải tìm hiểu người tiêu thụđể lựa chọn người có khả
năng), hướng dẫn khách hàng ký kết hợp đồng và thuê mướn phương tiện
vận tải, tổ chức hợp lý hệ thống kinh doanh kho hàng hóa, các hoạt động hỗ
trợ cho người tiêu thụ ( như: cung cấp cho họ những thông tin về sản phẩm -
khách hàng, tạo ra những ưu đãi thương mại nhưđiều kiện vận chuyển giao
hàng), tổ chức bao bì bao gói tiêu thụđể vận dụng tối đa dung tích của hệ
thống kho hàng hóa, nhanh chóng phát hiện ra các ách tắc, xung đột hệ thống
phân phối vàđiều chỉnh, giải quyết những ách tắc xung đột đó.
Chức năng tiêu thụ: Theo quan điểm của marketing tiêu thụ là
hoạt động có chủđích qua đó công ty thực hiện việc cung ứng bán hàng hóa-
dịch vụ của mình cho khách hàng để tiêu dùng cá nhân (có thể trực tiếp hoặc
gián tiếp qua các trung gian). Nội dung của chức năng này bao gồm: nghiên
cứu khách hàng và người tiêu thụ, ấn định và kiểm soát giá bán, lựa chọn các
phương pháp và công nghệ bán thích hợp, tổ chức lực lượng bán để quyết
định sức bán, tổ chức quảng cáo và khuyến mại, tổ chức các yếu tố hậu cần
kinh doanh của công ty như: vận chuyển và quản trị bán, thực hiện các dịch
vụ trước- trong- sau khi bán.
Chức năng hỗ trợ: đây chức năng quan trọng vàđặc biệt. Đó chính
là các hoạt động hỗ trợ liên quan đến quảng cáo, xúc tiến cho người tiêu
dùng cuối cùng của mình. Một số hoạt động điển hình như: điển hình hóa
phân loại sản phẩm, quảng cáo, xúc tiến bán hàng, tham gia các hội trợ
thương mại, các dịch vụ yểm trợ cho sản phẩm, quan hệ với công chúng –
công luận, tổ chức tín dụng thương mại và dịch vụ, phát triển tổ chức môi
giới và xúc tiến thương mại, tổ chức hợp lý hệ thống thông tin thị trường.
- 12 -
Chức năng mạo hiểm:đó là những mất mát, thiệt hại có thể do các
tác động khách quan. Mạo hiểm hàm chứa sự không chắc chắn và trong quá
trình thực hiện marketing cần phải biết chấp nhận và xử lý tốt nhất những
mạo hiểm trong kinh doanh. Các hoạt động thường áp dụng: lựa