Hội nhập quốc tế luôn tạo ra những cơ hội và triển vọng nhưng đồng thời cũng
đặt ra nhiều thách thức to lớn.Cơ hội được tạo ra do sự mở rộng thị trường xuất khẩu,
nâng cao sức cạnh tranh và tính hiệu quả của nền kinh tế.Bên cạnh đó, những thách
thức đặt ra cũng không nhỏ nhất là đối với những nước đang phát triển khi mà hội
nhập sẽ đồng nghĩa với việc mở cửa thị trường nội địa và đặt các ngành sản xuất
trong nước trước sự cạnh tranh gay gắt của nước ngoài.Đánh giá một cách tổng quan,
chúng ta thấy rằng mặc dù Việt Nam đã có những bước tiến mới trong quá trình hội
nhập những nền kinh tế nước ta vẫn còn nhỏ bé và lạc hậu.Lợi thế so sánh của nước
ta hiện nay trong quan hệ thương mại với các bạn hàng chủ yếu vẫn dựa trên các sản
phẩm nông nghiệp, nguyên liệu thô và hiện nay, đang bắt đầu có sự chuyển dịch sang
một số ngành công nghiệp nhẹ sử dụng nhiều sức lao động như dệt may, giầy da .
Với xu thế phát triển không ngừng của nền kinh tế thế giới, cạnh tranh ngày
càng trở nên gay gắt và khốc liệt. Thay vì một thị trường với những đối thủ cạnh
tranh cố định, các doanh nghiệp phải hoạt động trong một môi trường với những đối
thủ cạnh tranh biến đổi nhanh chóng, những tiến bộ về công nghệ, những đạo luật
mới, những chính sách quản lý mới thích hợp với từng thời kỳ kinh tế.Điều đó đòi
hỏi mỗi một doanh nghiệp phải luôn coi chiến lược marketing là một triết lý của toàn
công ty, chứ không phải chỉ là chức năng riêng biệt.Một lĩnh vực hay một ngành nào
đó muốn tồn tại và phát triển trên thương trường thì phải có ưu thế về mọi mặt, phải
có một chiến lược marketing rõ ràng.
Và ngành dệt may ở Việt Nam cũng đang tìm cho mình một chỗ đứng vững
chắc trên thị trường quốc tế.Đây là ngành công nghiệp có vị trí quan trọng trong nền
kinh tế quốc dân và đã đóng góp một phần không nhỏ trong sự phát triển kinh tế của
đất nước.
Ngành may mặcViệt Nam thực sự khởi sắc từ đầu thập niên 90 và có tốc độ
tăng trưởng khá nhanh. Trên thị trường quốc tế, hàng may mặc có xuất xứ từ Việt
Nam được đánh giá cao về chất lượng. Nhờ lợi thế về nguồn lao động dồi dào, giá
nhân công thấp nên hàng may mặc của Việt Nam có khả năng cạnh tranh lớn trên thị
trường
76 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 3645 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Hoàn thiện chiến lược Marketing xuất khẩu hàng may mặc của công ty sản xuất- Xuất nhập khẩu Việt An, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TIỂU LUẬN:
Hoàn thiện chiến lược Marketing xuất
khẩu hàng may mặc của công ty sản
xuất- xuất nhập khẩu Việt An
Lời nói đầu
Hội nhập quốc tế luôn tạo ra những cơ hội và triển vọng nhưng đồng thời cũng
đặt ra nhiều thách thức to lớn.Cơ hội được tạo ra do sự mở rộng thị trường xuất khẩu,
nâng cao sức cạnh tranh và tính hiệu quả của nền kinh tế.Bên cạnh đó, những thách
thức đặt ra cũng không nhỏ nhất là đối với những nước đang phát triển khi mà hội
nhập sẽ đồng nghĩa với việc mở cửa thị trường nội địa và đặt các ngành sản xuất
trong nước trước sự cạnh tranh gay gắt của nước ngoài.Đánh giá một cách tổng quan,
chúng ta thấy rằng mặc dù Việt Nam đã có những bước tiến mới trong quá trình hội
nhập những nền kinh tế nước ta vẫn còn nhỏ bé và lạc hậu.Lợi thế so sánh của nước
ta hiện nay trong quan hệ thương mại với các bạn hàng chủ yếu vẫn dựa trên các sản
phẩm nông nghiệp, nguyên liệu thô và hiện nay, đang bắt đầu có sự chuyển dịch sang
một số ngành công nghiệp nhẹ sử dụng nhiều sức lao động như dệt may, giầy da…..
Với xu thế phát triển không ngừng của nền kinh tế thế giới, cạnh tranh ngày
càng trở nên gay gắt và khốc liệt. Thay vì một thị trường với những đối thủ cạnh
tranh cố định, các doanh nghiệp phải hoạt động trong một môi trường với những đối
thủ cạnh tranh biến đổi nhanh chóng, những tiến bộ về công nghệ, những đạo luật
mới, những chính sách quản lý mới thích hợp với từng thời kỳ kinh tế.Điều đó đòi
hỏi mỗi một doanh nghiệp phải luôn coi chiến lược marketing là một triết lý của toàn
công ty, chứ không phải chỉ là chức năng riêng biệt.Một lĩnh vực hay một ngành nào
đó muốn tồn tại và phát triển trên thương trường thì phải có ưu thế về mọi mặt, phải
có một chiến lược marketing rõ ràng.
Và ngành dệt may ở Việt Nam cũng đang tìm cho mình một chỗ đứng vững
chắc trên thị trường quốc tế.Đây là ngành công nghiệp có vị trí quan trọng trong nền
kinh tế quốc dân và đã đóng góp một phần không nhỏ trong sự phát triển kinh tế của
đất nước.
Ngành may mặcViệt Nam thực sự khởi sắc từ đầu thập niên 90 và có tốc độ
tăng trưởng khá nhanh. Trên thị trường quốc tế, hàng may mặc có xuất xứ từ Việt
Nam được đánh giá cao về chất lượng. Nhờ lợi thế về nguồn lao động dồi dào, giá
nhân công thấp nên hàng may mặc của Việt Nam có khả năng cạnh tranh lớn trên thị
trường.
Hiện nay, các sản phẩm dệt may của Việt Nam ngày càng nâng cao về chất
lượng, cạnh tranh về giá cả, đa dạng về mẫu mã, nên đã xâm nhập thành công vào
một số thị trường lớn như:Mỹ, EU, Nhật Bản……
Song kể từ sau ngày 1-1-2005, việc bỏ quota nhập khẩu đối với các thành viên
WTO đã làm cho bản đồ xuất khẩu dệt may thay đổi, dòng thương mại dệt may sẽ
chuyển sang các thị trường có sức cạnh tranh cao hơn, đến với doanh nghiệp có khả
năng đáp ứng tốt hơn về số lượng, chất lượng, giá cả, thời gian……Chính vì vậy, bất
kỳ công ty sản xuất kinh doanh thuộc ngành may mặc luôn xác định được rằng việc
xây dựng một chiến lược marketing luôn là vấn đề quan trọng hàng đầu đối với công
ty.
Xuất phát từ thực tế trên, trong thời gian thực tập tại công ty sản xuất- xuất nhập
khẩu Việt An, em đã mạnh dạn chọn đề tài:
“Hoàn thiện chiến lược Marketing xuất khẩu hàng may mặc của công ty
sản xuất- xuất nhập khẩu Việt An”.
* Mục đích nghiên cứu đề tài là nhằm phân tích, đánh giá quá trình xây dựng
chiến lược marketing xuất khẩu hàng may mặc của công ty trong thời gian qua. Đồng
thời, đề tài cũng chỉ ra những thành công và những thách thức để qua đó thấy được
ưu- nhược điểm của nó. Từ đó vận vận dụng tư duy kinh tế và cơ chế kinh doanh để
đề xuất những biện pháp nhằm hoàn thiện quá trình hoạch địch chiến lược Marketing
xuất khẩu hàng may mặc của Công ty.
* Giới hạn – phạm vi nghiên cứu đề tài: đề tài được chọn nghiên cứu ở khâu
quan trọng, có nhiều mối quan hệ kinh tế và liên quan đến rất nhiều vấn đề trong và
ngoài Công ty. Do không đủ điều kiện để đề cập toàn diện và giải quyết triệt để
những vấn đề đặt ra. Vì vậy, giới hạn đề tài nghiên cứu trên góc độ tiếp cận môn học
Marketing là chính.
* Phương pháp nghiên cứu: phương pháp tiếp cận hệ thống và lôgic phương
pháp phân tích số liệu, phương pháp so sánh. Các phương pháp này vừa phân tích
biện chứng, vừa đặt nó vào hệ thống lớn của quá trình nghiệp kinh doanh ở Công ty.
Luận văn tốt nghiệp được hoàn thiện với 3 chương:
- Chương I : Một số lý luận cơ bản về chiến lược Marketing xuất khẩu của công
ty kinh doanh quốc tế.
- Chương II : Thực trạng chiến lược Marketing xuất khẩu mặt hàng may mặc
của công ty sản xuất – xuất nhập khẩu Việt An.
- Chương III : Một số đề xuất nhằm hoàn thiện chiến lược Marketing xuất khẩu
hàng may mặc của công ty sản xuất – xuất nhập khẩu Việt An.
Chương I: một số lý luận cơ bản về hoàn
thiện chiến lược marketing xuất khẩu
của công ty kinh doanh
1.1. Khái niệm, bản chất và vai trò của Marketing xuất khẩu.
1.1.1.Khái niệm về Marketing xuất khẩu.
Trước khi tìm hiểu khái niệm Marketing xuất khẩu ta phải hiểu được khái niệm về
marketing:
- Theo Philip Kotler: Marketing là sự phân tích tổ chức kế hoạch hóa và khả năng
thu hút khách của một công ty cũng như chính sách và hoạt động với quan điểm thỏa
mãn nhu cầu và mong muốn của nhóm khách hàng đã lựa chọn.
- Các nhà làm công tác Marketing ở Việt Nam đã đưa ra được định nghĩa
Marketing phù hợp, đầy đủ và xác thực như sau :
"Marketing là chức năng quản lý công ty về tổ chức và quản lý toàn bộ hoạt động
kinh doanh từ việc phát hiện ra nhu cầu và biến sức mua của người tiêu dùng thành
nhu cầu thực sự về một loại hàng cụ thể đến việc đưa hàng hóa đó đến tận tay người
tiêu dùng cuối cùng nhằm đảm bảo cho công ty thu được lợi nhuận cao nhất".
Marketing bao gồm hai loại là Marketing nội địa và Marketing quốc tế. Một trong
những hình thức của Marketing quốc tế được biểu hiện dưới hình thức Marketing
xuất khẩu.
Và Marketing xuất khẩu có thể hiểu là:
"Marketing xuất khẩu là việc thực hiện các hoạt động kinh doanh định hướng
dòng vận động hàng hóa và địch vụ của các công ty tới người tiêu dùng hoặc sử dụng
ở nhiều quốc gia nhằm thu lợi nhuận cho công ty".
1.1.2. Bản chất và vai trò của Marketing xuất khẩu.
a) Bản chất của Marketing xuất khẩu.
Marketing xuất khẩu là một lĩnh vực hoạt động của các doanh nghiệp kinh doanh
xuất khẩu chiếm lĩnh trên các thị trường nước ngoài. Sự khác nhau cơ bản giữa
Marketing nội địa và Marketing quốc tế ở chỗ là các hoạt động Marketing quốc tế
phản ánh mức độ phức tạp và tính đa dạng do phải đối phó với tính đa dạng của môi
trường quốc tế.
Bản chất của Marketing quốc tế là xem xét và cân đối giữa những thay đổi của
các yếu tố môi trường bên ngoài và các chính sách Marketing hỗn hợp của công ty
trên thị trường quốc tế. Nhà quản trị Marketing quốc tế có nhiệm vụ hệ thống hóa và
thi hành các chính sách Marketing nhằm đảm bảo sự thích ứng giữa khả năng của
doanh nghiệp với thị trường và môi trường của nó nhằm đạt được mục tiêu đề ra.
Chính điều này đòi hỏi các doanh nghiệp khi tham gia vào thị trường quốc tế phải
đưa ra một chương trình Marketing bao gồm các vấn đề sau : đánh giá và lựa chọn thị
trường, xác định phương thức hoạt động thích hợp và xác lập các chính sách
Marketing của công ty trên thị trường quốc tế.
b) Lợi ích của Marketing xuất khẩu.
Trong xu hướng hội nhập và toàn cầu hóa, hoạt động xuất nhập khẩu có ý
nghĩa cực kỳ quan trọng. Trong đó sự đóng góp của Marketing xuất khẩu là rất cần
thiết. Bởi vì bản thân hoạt động xuất nhập khẩu là một hoạt động vô cùng phức tạp
và chứa đựng nhiều rủi ro khó có thể lường trước được như : những biến động về
kinh tế-chính trị , xã hội, văn hóa, hệ thống pháp luật… của nước nhập khẩu. Qua đó,
hoạt động Marketing xuất khẩu có thể đem lại những lợi ích to lớn cho mỗi doanh
nghiệp.
Thứ nhất, các công ty hoạt động trên phạm vi quốc tế có thể đạt mức doanh số
lớn hơn nhờ thực hiện chuyển giao các khả năng riêng biệt của mình. Các khả năng
riêng biệt này được hiểu là những điểm mạnh duy nhất cho phép công ty đạt được
hiệu quả, chất lượng, đổi mới hoặc sự nhạy cảm với khách hàng cao hơn.
Thứ hai, việc tham gia các hoạt động quốc tế cho phép doanh nghiệp có thể hạ
thấp chi phí nhờ có được lợi thế quy mô và hiệu ứng "đường cong kinh nghiệm"; lợi
thế quy mô cho phép giảm chi phí cố định của một sản phẩm do chia chi phí cố định
theo mức sản lượng lớn. Tác động của đường cong kinh nghiệm sẽ làm giảm chi phí
khả biến đơn vị sản phẩm do nâng cao kỹ năng, kỹ xảo của người lao động.
Tuy nhiên, hiệu quả kinh tế theo quy mô có thể không có được nếu thị hiếu của
khách hàng trong nước và những đặc điểm khác ở các nước khác nhau đòi hỏi một số
các điều chỉnh sản phẩm – phụ thuộc vào các sản phẩm liên quan và phương pháp
sản xuất ra sản phẩm đó.
Ngoài ra, kinh doanh ở thị trường nước ngoài sẽ giúp các nhà quản trị doanh
nghiệp có những ý tưởng mới mẻ hay những phương pháp khác nhau để giải quyết
vấn đề. Từng cá nhân sẽ phát triển kỹ năng quản lý chung của họ và nâng cao hiệu
suất cá nhân. Họ sẽ trở nên năng động hơn, và nâng cao hiệu quả công việc. Những
mối quan hệ và kinh nghiệm có được thông qua sự tiêu thụ, bán hàng ở thị trường
nước ngoài có thể tạo cho công ty một lợi thế cạnh tranh trong nước của mình. Nhờ
đó mà công ty đạt được mục tiêu đặt ra, có được lợi thế cạnh tranh và nâng cao hiệu
quả kinh doanh.
1.2.Phân định nội dung và hoàn thiện chiến lược marketing xuất khẩu của
công ty kinh doanh quốc tế.
1.2.1. Phân tích tình thế và thời cơ chiến lược marketing xuất khẩu
Các doanh nghiệp kinh doanh trên thị trường quốc tế luôn cần tìm ra các cơ hội
kinh doanh mới cũng như là luôn phải đưa ra các biện pháp phòng ngừa rủi ro nhằm
giúp doanh nghiệp luôn đạt được lợi nhuận cao. Do vậy, việc phân tích tình thế và
thời cơ chiến lược marketing xuất khẩu có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc xác
lập chiến lược marketing của doanh nghiệp.
Phân tích các cơ hội thị trường được tiến hành thông qua việc phân tích các yếu tố
thuộc môi trường vĩ mô như: nhân khẩu/kinh tế, công nghệ, chính trị/ luật pháp và
văn hoá/ xã hội…và những yếu tố quan trọng của môi trường vĩ mô như: khách hàng,
đối thủ cạnh tranh, kênh phân phối, người cung ứng có ảnh hưởng đến khả năng lợi
nhuận của mình trên thị trường đó.
Mỗi một đơn vị kinh doanh phải xây dựng một hệ thống marketing thông minh
để theo dõi những xu hướng và những bước tiến quan trọng. Đối với mỗi xu hướng
hay bước phát triển, Ban lãnh đạo cũng cần phải xác định những cơ hội và những mối
đe doạ tiềm ẩn.
*) Cơ hội marketing là một lĩnh vực nhu cầu mà công ty có thể kiếm lời ở đó.Cơ
hội có thể liệt kê và phân loại theo mức độ hấp dẫn và xác suất thành công của nó.
Xác suất thành công của công ty phụ thuộc vào chỗ sức mạnh của công ty có tương
xứng với những yêu cầu then chốt để thành công không và có vượt lên trên được các
đối thủ cạnh tranh không?Chỉ riêng khả năng thì không tạo nên lợi thế cạnh tranh.
Công ty có thành tích cao nhất sẽ là công ty có thể tạo ra được giá trị lớn nhất cho
khách hàng và duy trì được nó lâu dài.
Xác suất thành công
Mức cao thấp
độ
cao
hấp
dẫn thấp
Ma trận cơ hội
(1): cơ hội tốt nhất công ty nên có kế hoạch theo đuổi.
(2) và (3) : những cơ hội này công ty nên theo dõi và xem xét.
(4) : cơ hội quá nhỏ nên không cần xem xét.
*) Mối đe doạ là một thách thức do một xu hướng hay một bước phát triển bất lợi
tạo ra sẽ gây thiệt hại cho doanh số bán hàng hay lợi nhuận nếu không có biện pháp
Marketing bảo vệ.
Mối đe doạ được phân loại theo mức độ nghiêm trọng và xác suất xuất hiện của
1
2
3
4
nó.
Xác suất xuất hiện
Mức Cao thấp
độ cao
nghiêm
thấp
trọng
Ma trận đe doạ
(1): những mối đe doạ chủ yếu công ty cần có kế hoạch chuẩn bị đối phó
với mọi bất ngờ.
(2) và (3) : không đòi hỏi phải có kế hoạch đối phó với những bất ngờ
nhưng cần theo dõi cẩn thẩn.
(4) : mối đe doạ này có thể bỏ qua.
1.2.2.Hoạch định mục tiêu chiến lược
Chiến lược Marketing xuất khẩu có 4 mục tiêu cơ bản sau:
+ Lợi nhuận
+ Vị thế của công ty
+ An toàn trong kinh doanh
+ Đảm bảo tính nhân bản trong chiến lược Marketing
a) Lợi nhuận.
Lợi nhuận là một yếu tố quan trọng nhất không thể thiếu được trong bất kỳ một
1
2
3
4
doanh nghiệp kinh doanh nào. Nó đảm bảo cho công ty có thể tiếp tục được quá trình
tái sản xuất mở rộng, đảm bảo cho công ty có thể tiếp tục được quá trình mua thêm
các trang thiết bị mới và có khả năng đứng vững trên thị trường. Đối với nhà quản trị
Marketing không chỉ quan tâm đến lợi nhuận kinh doanh mà còn quan tâm đến tỷ
suất lợi nhuận, phải tính toán được mức lợi nhuận cho từng mặt hàng, từng ngành
hàng cụ thể. Và qua đó thấy được ngành hàng nào mang lại lợi nhuận cao cho công ty
và cũng xác định quá trình Marketing nào sẽ mang lại kết quả tốt nhất.
b) Đảm bảo vị thế của công ty.
Xác định được tầm quan trọng của các yếu tố vô hình này trong sự ảnh hưởng tới
hành vi mua bán của khách hàng trên thị trường. Các công ty thường mong muốn xây
dựng được lòng tin đối với những người tiêu dùng cuối cùng trên thị trường nói
chung và khách hàng của công ty nói riêng. Tuy nhiên, đạt được mục tiêu này là điều
không dễ dàng đối với công ty và cũng không thể làm được trong một thời gian ngắn.
Thế lực của công ty được thể hiện ở doanh số bán, thị phần mà công ty chiếm được,
khả năng tích tụ và tập trung của công ty, khả năng liên doanh liên kết của công ty
với các công ty khác. Nó đòi hỏi các công ty phải hết sức nỗ lực, có những chủ
trương hành động đúng đắn, có những chương trình Marketing cụ thể và sự phân bố
nguồn vốn hợp lý.
c) An toàn trong kinh doanh.
Trong quá trình cạnh tranh, các công ty luôn phải đối mặt với những tác động của
các quy luật kinh tế (cung, cầu, cạnh tranh), những rủi ro, thách thức có thể xảy ra là
rất lớn. Do đó, mục tiêu này không kém phần quan trọng đối với công ty. Và để xác
định mục tiêu này đòi hỏi:
+ Các yếu tố marketing-mix phải thích ứng và phù hợp với thực tế đặc biệt của
thị trường khi có sự thay đổi.
+ Tùy theo thế lực công ty, chọn vùng an toàn trong kinh doanh
+ Chấp nhận quy luật chung của môi trường kinh doanh
+ Chấp nhận mạo hiểm để khai thác và đạt tới tần suất lợi nhuận cao
d) Đảm bảo tính nhân bản cho công ty.
Khi triển khai chiến lược Marketing đòi hỏi công ty không được phá vỡ môi
trường sinh thái, không vi phạm tiêu chuẩn đạo đức của xã hội, dân tộc đồng thời tích
cực giáo dục, nuôi dưỡng thị trường theo chiều hướng văn minh và tính hiện đại
trong tiêu dùng.
1.2.3. Hoạch định marketing mục tiêu
Muốn kinh doanh thành công trên thị trường nước ngoài thì trước khi xuất khẩu
hàng hóa sang thị trường khác, bất kỳ công ty kinh doanh quốc tế nào việc hoạch
định Marketing mục tiêu là vô cùng quan trọng. Hoàn thành tốt công việc này chính
là đã tạo tiền đề hay là điểm tựa để phát triển các bước tiếp theo. Việc hoạch định
Marketing mục tiêu bao gồm các hoạt động sau:
a) Lựa chọn thị trường mục tiêu.
Các công ty sản xuất – xuất nhập khẩu sẽ phải trả lời câu hỏi:
+ Tỷ lệ mà nó sẽ mở rộng hoạt động quốc tế là bao nhiêu?
+ Quốc gia nào sẽ xâm nhập?
+ Phân đoạn thị trường nào phải cung ứng?
+ Phân bổ nguồn lực và nỗ lực như thế nào cho tốt?
Dựa trên cơ sở nghiên cứu các yếu tố như tình thế – thời cơ chiến lược Marketing
xuất khẩu; các công ty kinh doanh quốc tế phải đưa ra những căn cứ với phương
pháp lựa chọn như sau:
* Những căn cứ lựa chọn :
- Về chính trị:
+ Thể chế chính trị của các quốc gia đó có thuận lợi cho hoạt động xuất
khẩu của công ty không?
+ Sự ổn định hay bất ổn định về mặt chính trị của quốc gia đó.
- Về điều kiện tự nhiên.
- Về dân số.
- Các biến số kinh tế: GDP, GNP.
- Trình độ phát triển công nghệ kỹ thuật.
- Nhóm căn cứ vào quy chế tiền tệ :
+ Hình thức bảo hộ mậu dịch.
+ Tình hình tiền tệ, lạm phát, diễn biến của tỷ giá hối đoái.
- Căn cứ thương mại :
+ Quy mô và tính năng động thị trường.
+ Sự cạnh tranh quốc tế.
+ Tham gia các liên kết kinh tế.
- Các yếu tố văn hóa, thói quen tiêu dùng tôn giáo.
b) Xác định phương thức xuất khẩu.
Bao gồm: * Xuất khẩu gián tiếp.
* Hợp tác xuất khẩu.
* Xuất khẩu trực tiếp.
Phương thức xuất khẩu được coi là phương thức xâm nhập thị trường quốc tế phổ
biến và đơn giản nhất từ trước tới nay. Xuất khẩu là phương thức đầu tiên được các
công ty kinh doanh quốc tế lựa chọn để tiến hành xâm nhập thị trường quốc tế.
Xuất khẩu có thể được tổ chức theo nhiều cách thức khác nhau phụ thuộc vào số
lượng và loại hình trung gian thương mại.
* Xuất khẩu gián tiếp.
Là phương thức sử dụng các đại lý xuất khẩu hoặc các công ty thương mại quốc
tế hoặc bán hàng cho chi nhánh của các tổ chức nước ngoài đặt ở trong nước. Với
việc sử dụng phương thức xuất khẩu này, các công ty sẽ không phải đối mặt với
nhiều rủi ro trong kinh doanh, đặc biệt khi các tổ chức nước ngoài sở hữu hoàn toàn
về hàng hóa thì rủi ro hầu như là không có. Có thể xem đây là hình thức bán hàng
trong nước.
Loại hình xuất khẩu này là phù hợp với các công ty mà mục tiêu mở rộng ra thị
trường nước ngoài và nguồn lực cho việc xâm nhập thị trường quốc tế là hạn chế. Và
tất nhiên, lợi nhuận thu về là không nhiều do công ty phải chia sẻ cho nhà xuất khẩu
trung gian một khoản phí khá lớn.
Tuy nhiên, việc sử dụng loại hình xuất khẩu này công ty sẽ gặp một số rủi ro cụ
thể như :
Thứ nhất, công ty sẽ hạn chế vệ việc kiểm soát được mức độ thấp toàn bộ cách
thức hàng hóa và dịch vụ được bán ở thị trường nước ngoài, sản phẩm có thể được
bán qua những kênh phân phối không thích hợp với dịch vụ và nỗ lực hạn chế xúc
tiến không hiệu quả, không đúng với mục tiêu mong đợi của công ty. Rất có thể ảnh
hưởng lớn đến uy tín và hình ảnh của công ty trên thị trường nước ngoài làm mất
những cơ hội hiếm có để mở rộng thị trường.
Thứ hai, đó là khả năng xác lập mối liên hệ trực tiếp với thị trường quốc tế của
công ty là hạn chế. Thông tin thị trường giữa doanh nghiệp sản xuất và người tiêu
dùng là bị ngăn cách một cách gián tiếp qua trung gian thương mại, thông tin có thể
không còn chính xác hoặc sai sự thật. Đồng thời, công ty sẽ rất khó khăn trong nắm
bắt thị hiếu tiêu dùng luôn thay đổi ở nước ngoài. Từ đó việc tạo ra sản phẩm nhằm
thỏa mãn tối đa nhu cầu tiêu dùng của khách hàng là khó khăn.
Thứ ba, khả năng bị mất thương hiệu là rất cao nếu công ty không tìm cách đăng
ký và bảo hộ nhãn hiệu độc quyền sản phẩm của công ty.
Việc công ty sử dụng kênh phân phối gián tiếp không hẳn đã là bước đầu tiên có
hiệu quả để tiến hành mở rộng thị trường quốc tế. Do đó, đòi hỏi công ty cân nhắc
cẩn thận cho những chiến lược lâu dài phát triển và tăng trưởng ở thị trường quốc tế.
* Hợp tác xuất khẩu.
Phương thức này thích hợp cho các công ty hạn chế nguồn lực hoặc khối lượng
bán không đủ lớn để thiết lập một bộ phận xuất khẩu mà lại muốn kiểm soát được thị
trường quốc tế ở mức độ nào đó. Trong trường hợp này công ty thỏa thuận với một
công ty khác để phối hợp các hoạt động nghiên cứu, xúc tiến thương mại, vận tải,
phân phối, tiêu thụ và các hoạt động khác liên quan đến thị trường xuất khẩu. Việc sử
dụng phương thức này cho phép công ty có thể xâm nhập được thị trường quốc tế mà
vẫn có thể kiểm soát được phần nào các hoạt động phân phối bán hàng, xúc tiến
thương mại nguồn thông tin thị trường là cập nhật hơn phương thức xuất khẩu gián
tiếp do có sự ràng buộc về trách nhiệm giữa hai bên được nêu rõ trong hợp đồng thỏa
thuận. Tất nhiên, lợi nhuận thu về lúc này vẫn chưa là tối đa hóa do bị phân chia với
đối tác.
* Xuất khẩu trực tiếp.
Khi mà khối lượng xuất khẩu đủ lớn và công ty muốn tập trung nguồn lực của
mình vào phát triển thị trường quốc tế thì việc thiết lập tổ chức (chi nhánh, bộ phận)
xuất khẩu là thích hợp. Tổ chức xuất khẩu này có thể bố trí ở trong nướ