Hoàn thiện chính sách sử dụng nguồn nhân lực sau xuất khẩu lao động ở Việt Nam

1. Tính cấp thiết của đề tài Sau 30 năm hoạt động xuất khẩu lao động, đặc biệt là gần 20 năm vận hành theo cơ chế thị trường, hoạt động xuất khẩu lao động ở Việt Nam đang được coi là mũi nhọn của kinh tế đối ngoại, hàng năm gần 100 ngàn người ký hợp đồng tham gia xuất khẩu lao động, (hiện nay Việt Nam có khoảng 500 ngàn lao động đang có mặt ở trên 40 quốc gia và khu vực trên thế giới), hoạt động xuất khẩu lao động ở Việt Nam đã được coi là giải pháp quan trọng trong việc giải quyết nhu cầu bức xúc về việc làm trước mắt cho một bộ phận nguồn nhân lực trong nước, vì mục tiêu xã hội: Xoá đói, giảm nghèo, giảm thiểu thất nghiệp. Không chỉ mang lại một nguồn thu nhập cho người lao động, tạo ra nguồn thu ngoại tệ đáng kể cho đất nước mà hoạt động xuất khẩu lao động còn là công cụ để tiếp nhận sự chuyển giao công nghệ tiên tiến nước ngoài, thông qua đó đào tạo một đội ngũ lao động có chất lượng cao về chuyên môn, ngoại ngữ và tác phong lao động công nghiệp, mang tính chiến lược trong quá trình phát triển & hội nhập kinh tế thế giới, đồng thời tăng cường mối quan hệ giữa Việt Nam với cộng đồng quốc tế và nâng cao một bước công tác quản lý Nhà nước của các cơ quan trung ương cũng như chính quyền địa phương. Sau khi trở thành thành viên của WTO, với hàng loạt các chính sách cải thiện môi trường theo hướng mở cửa kinh tế, Việt Nam đã được coi là thị trường hấp dẫn cho các nhà đầu tư nước ngoài, trong đó không ít các thị phần này thuộc về các nước có lao động Việt Nam đang làm việc. Trong khi nguồn lao động rẻ và có sẵn không qua đào tạo ở Việt Nam đã không đủ hấp dẫn với tiêu chí tuyển chọn của các nhà đầu tư với các ngành, lĩnh vực tiên tiến, bên cạnh đó những hạn chế của công tác đào tạo, bồi dưỡng nghề nghiệp cho lao động tại chỗ vẫn chưa đảm bảo về số lượng và chất lượng theo yêu cầu của thực tế lao động thời kỳ hội nhập thì nguồn nhân lực sau XKLĐ được đánh giá là thích hợp nhất, nhưng đến nay Nhà nước vẫn chưa có những chính sách mang tính hệ thống, đảm bảo hiệu lực và thực thi để sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực này, nhất là trong giai đoạn hội nhập kinh tế ngày càng sâu, rộng tại Việt Nam. Bởi vậy, nghiên cứu và đi tìm các giải pháp thích hợp, đồng bộ, hiệu quả, có hệ thống từ phía chính sách của Nhà nước là một chủ đề cần thiết. Tác giả chọn đề tài: Hoàn thiện chính sách sử dụng nguồn nhân lực sau xuất khẩu lao động ở Việt Nam, để nghiên cứu. Nhằm đáp ứng một số đòi hỏi từ thực tiễn như sau: Một là sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực có chất lượng sau XKLĐ mang lại lợi ích kinh tế cho đất nước Thực hiện những cam kết về môi trường trong lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế sau khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO, vấn đề nguồn nhân lực đang trở thành đề tài nóng bỏng cho các nhà hoạch định kinh tế, đặc biệt là nguồn nhân lực có tay nghề, chuyên môn kỹ thuật đang là cơn khát cho các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Từ năm 2007-2009, mỗi năm Việt Nam thu hút trên 20 tỷ dollars vốn FDI, vấn đề giải ngân đã trở nên khó khăn, chúng ta đã phải đối đầu với nguy cơ thiếu hụt nguồn nhân lực có chất lượng, Tại Hội nghị triển khai kế hoạch dạy nghề, việc làm và xuất khẩu lao động giai đoạn 2007-2010 ngày 10/5/2007, Bộ trưởng Bộ Lao động Thương binh & Xã hội đã cảnh báo: “Trong vòng 8-10 năm tới, Việt Nam sẽ đối mặt với nguy cơ nhập khẩu lao động có trình độ từ các nước bạn, nhất là Thái Lan”. Việc chuẩn bị một đội ngũ nguồn nhân lực có tay nghề ở các lĩnh vực khác nhau là một đảm bảo cho quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, những kiến tạo trong chiến lược “đi tắt, đón đầu” để thu hút đầu tư, triển khai các dự án thì yếu tố đầu tiên chính là nguồn nhân lực chất lượng. Xác định vai trò và ý nghĩa quan trọng của nguồn nhân lực chất lượng - yếu tố tạo nên tính cạnh tranh trọng thời kỳ đầu của hội nhập, hàng loạt các cơ sở đạo tạo của Việt Nam từ trung ương đến địa phương, các cơ quan bộ, ngành, tổ chức xã hội, nghề nghiệp, đã được củng cố, hình thành và phát triển. Hàng loạt chính sách về tổ chức, chỉ đao, hỗ trợ, của nhà nước cùng với sự quan tâm tài trợ, hợp tác của các đơn vị, tổ chức, cá nhân, trong và ngoài nước đã tạo nên hệ thống hoạt động đào tạo, bồi dưỡng lực lượng lao động có nghề nghiệp, chuyên môn, kỹ thuật có tay nghề cho các nhu cầu của xã hội, tuy nhiên, chừng ấy vẫn chưa đủ cả về số lượng và chất lượng theo mặt bằng của các nhà sử dụng hiện nay, chưa tương xứng với yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá bởi một số đặc trưng thực tế như: - Tỷ trọng lao động qua đào tạo nghề thấp (27%), đây chính là hệ quả hệ thống giáo dục quốc gia yếu kém tác động đến trình độ chung của người lao động - Cơ cấu đào tạo cả về ngành nghề và trình độ mất cân đối, tỷ lệ đại học/ trung học chuyên nghiệp/ công nhân kỹ thuật trung bình là : 1/1,6/0,92. So với mức bình quân trên thế giới thì tỷ lệ thầy/ thợ là không cân đối (mức bình quân của các nước tiên tiến là 1 thầy 4 thợ). - Công tác đào tạo, bồi dưỡng chưa có sự gắn kết giữa lý luận và thực tế theo các tiêu chí của ngành công nghiệp hiện đại, các danh mục ngành nghề, chưa có các chính sách nhà nước để tạo ra cơ quan nghiên cứu, dự báo nguồn lao động từ mọi phía. - Phân bố lao động giữa các vùng cũng chưa hợp lý cũng do một phần từ các chính sách định hướng môi trường lao động. Trong giai đoạn phát triển kinh tế những năm 1991- nay, quan hệ xuất khẩu lao động của Việt Nam với các nước trên thế giới đã được cải thiện, trên 160 doanh nghiệp được nhà nước cấp phép xuất khẩu lao động đã hoạt động sôi động, lao động được xuất khẩu sang một số nước trong khu vực đã thành làn sóng, nhất là các thị trường nhập lao động Đài loan, Nhật Bản, Malaysia, Hàn Quốc đã thu hút một lượng lớn lao động Việt Nam, phần lớn từ các khu vực nông thôn, với trên 30 ngành nghề lao động khác nhau theo 3 kênh nhập khẩu của bạn: Lao động, tu nghiệp sinh, làm việc theo hệ thống thẻ vàng. Số lượng lao động Việt Nam tại mỗi nước này đến nay đã lên tới hàng chục ngàn người, thời hạn làm việc ở nước tiếp nhận làm việc trung bình từ 3-5 năm. Lao động Việt Nam nhìn chung được đánh giá tốt trong thời gian làm việc, như chấp hành nội quy làm việc, sẵn sàng làm thêm giờ, sức chịu đựng cao, những người lao động sau khi hoàn thành nhiệm vụ lao động ngoài nước, họ được coi là đã đào tạo qua môi trường thực tế tốt, có trình độ chuyên môn kỹ thuật theo ngành nghề tiên tiến, có tác phong công nghiệp, trình độ ngoại ngữ hợp lý. Đa số những lao động có nghề này đều mong muốn được làm việc ngay sau khi về nước bằng chính công việc mà họ từng làm ở nước ngoài. Đây cũng chính là mục tiêu chuyển dịch cơ cấu lao động của Nhà nước ta trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Hai là sử dụng nguồn lực sau XKLĐ làm tăng khả năng cung cấp nguồn nhân lực tham gia XKLĐ đồng thời hạn chế tình trạng trốn ra ngoài trong thời gian làm việc ở nước ngoài Trước đây, đại đa số tu nghiệp sinh và lao động khi tham gia XKLĐ là thanh niên vừa rời ghế nhà trường, được học định hướng trước khi xuất khẩu. Những năm gần đây theo nhu cầu và cạnh tranh việc làm quốc tế, việc tuyển chọn XKLĐ đã dần chuyển các sang đối tượng đã qua đào tạo, bởi vậy có giai đoạn nguồn nhân này đã chững lại vì cho rằng sau khi xuất khẩu lao động về nước sẽ không có cơ hội kiếm việc làm, mà nên kiếm việc làm ngay ở trong nước mặc dù thu nhập thấp hơn nhưng ổn định hơn, làm khan hiếm nguồn lao động cho các đơn hàng xuất khẩu lao động. Một thực tế cho thấy tình trạng phá vỡ hợp đồng, bỏ trốn ra ngoài làm việc đối với lao động Việt Nam khi làm việc ở nước ngoài có những giai đoạn đã đến mức báo động, những năm trước đây, ở Nhật Bản theo thống kê của của tổ chức JITCO, số lao động Việt Nam bỏ trốn khoảng từ 27 – 30%, còn ở Hàn Quốc số lượng lao động Việt Nam bỏ trốn khoảng 13-15%, riêng Đài Loan đã bị cắt một phần do tỷ lệ bỏ trốn quá mức quy định. Một trong những nguyên nhân được xác định đó là người lao động lo ngai về nước không có việc làm nên khi gần hết thời hạn hợp đồng họ đã trốn ra ngoài để có cơ hội tìm việc làm mới ở nước sở tại và đương nhiên trở thành đối tượng lao động bất hợp pháp, gây nên hình ảnh ảnh xấu cho lao động Việt Nam. Gần đây tỷ lệ này đã giảm đáng kể do phía nước nhân lao động đã có chính sách nhận lại những lao động sau khi hết hạn trở về vẫn có thể trở lại làm việc theo hướng ưu tiên lao động tốt hoặc kéo dài thời gian lao động, bổ sung chính sách lao động trong hợp đồng tu nghiệp, Tuy nhiên, nếu chính sách thu hút nguồn nhân lực này ở trong nước hợp lý thì nguồn nhân lực trong hoạt động xuất khẩu lao động cũng sẽ thực trở thành động lực đảm bảo ổn định cho nguồn nhân lực tham gia xuất khẩu lao động theo kế hoạch hàng năm. Ba là sử dụng nguồn lực sau XKLĐ sẽ bổ sung cho đất nước những giá trị văn hoá tiến tiến đồng thời triệt tiêu nguy cơ mặc cảm gây tổn hại cho xã hội đối với nguồn nhân lực sau XKLĐ trong quá trình tái hoà nhập Lao động ở nước ngoài hầu hết làm việc trong các nhà máy, xí nghiệp của các nước có nền công nghiệp phát triển hơn ta, do đó cũng là nơi mà có những giá trị văn hoá tích tụ của một xã hội có đời sống sinh hoạt công nghiệp tiên tiến, đó là nét đặc trưng của những tác phong giao tiếp hiện đại sẽ được bổ sung và lan truyền tại những khu vực sử dụng nguồn nhân lực này ở Việt Nam, góp phần không nhỏ nếu những giá trị ấy được sử dụng kịp thời, đúng chỗ và có thể sẽ được phát huy tích cực trong quá trình tái hoà nhập. Mặt khác, một bộ phận nguồn nhân lực làm việc trong một môi trường văn hoá-xã hội có khác biệt lớn, nhất là những nơi bị chủ sử dụng lao động phân biệt chủ-thợ quá mức trong 1 thời gian dài, sẽ gây ra những tổn thương về tâm lý, tinh thần, khi về nước họ dễ bị mặc cảm, không thấy hết giá trị ở chính mình là tay nghề chuyên môn, do đó nếu không có chính sách giúp đỡ họ nhanh chóng tái hoà nhập thì họ dễ dàng bị sa đà vào con đường thất nghiệp, chi tiêu vung vãi số tiền kiếm được trước đó và rất có thể sẽ là nguy cơ của mối hiểm hoạ cho xã hội. “không ít trường hợp khi xuất khẩu lao động trở về, ỷ có tiền, họ không chí thú làm ăn như trước và mất phương hướng làm ăn nên tiền hết dần, nhiều gia đình đi đến chỗ bế tắc trong cuộc sống, mâu thuẫn gia đình nảy sinh. Đây là thực trạng đáng báo động không chỉ cho các gia đình có người thân đi xuất khẩu lao động mà còn cho các cấp chính quyền và ngành chức năng trong việc giải quyết “hậu” xuất khẩu lao động. cần một giải pháp đồng bộ” (Báo điện tử của Bộ Lao động Thương binh & Xã hội, Cần lo việc làm cho người xuất khẩu lao động trở về, ngày: 27/03/2006). Bốn là sử dụng nguồn nhân lực sau XKLĐ còn làm tăng cường mối quan hệ hợp tác quốc tế Một số các vị trí làm việc của lao động Việt Nam tại nước ngoài đã có mặt tại Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, hàng loạt các nhà máy, xí nghiệp tại các khu công nghiệp được hình thành do đầu tư từ nước ngoài hoàn toàn phù hợp với công việc mà lao động Việt Nam đã làm ở nước ngoài, khi sử dụng các lao động này chính là một đảm bảo về quan hệ hợp tác trong hoạt động đào tạo nguồn nhân lực, mặt khác nảy sinh mối quan hệ đối tác trong các lĩnh vực khác như du lịch, giáo dục đào tạo. “Hàng năm, nước ta luôn có một bộ phận nguồn nhân lực không nhỏ đã từng làm việc ở các doanh nghiệp của các nước có nền công nghiệp tiên tiến trở về (thông qua các hợp đồng XKLĐ, tu nghiệp sinh, hệ thống thẻ ưu đãi). Sử dụng nguồn nhân lực này không chỉ có ý nghĩa về chất lượng của trí tuệ và sức lao động trong huyết mạch của doanh nghiệp mà thông qua đó có thể tạo ra mối bang giao, đối tác mới cho doanh nghiệp” [33, tr. 50] . Những lý do trên đây là căn cứ để xác định mục đích nghiên cứu. 2. Tình hình nghiên cứu Xuất khẩu lao động đã diễn ra với một bình diện lớn trên thế giới, một số các nước phát triển trước đây cũng từng trải qua hoạt động xuất khẩu lao động, bởi vậy những nghiên cứu về các chủ đề trong chính sách hoạt động XKLĐ nói chung cũng như chính sách sử dụng nguồn nhân lực sau XKLĐ nói riêng là một nội dung phong phú và đa dạng nhằm đưa ra các giải pháp để đáp ứng được nguồn lực phát triển kinh tế và xã hội trong từng giai đoạn đổi mới đất nước. Ở Việt Nam, từ khi hoạt động hợp tác lao động và chuyên gia phát triển (Từ năm 1980 đến năm 1990) đã có một số nghiên cứu về sử dụng hiệu quả của nguồn nhân lực này, tuy nhiên hướng nghiên cứu tập trung vào quản lý, đánh giá ích lợi của một bộ phận lao động được nhà nước cho đi làm việc có thời hạn ở các nước XHCN theo diện ưu tiên, công trình nghiên cứu phải kể đến là: Tổ chức sử dụng có hiệu quả nguồn lao động xã hội của Việt Nam trong lĩnh vực đưa lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài, Luận án tiến sĩ tại Trường Đại học Kinh tế quốc dân của Phạm Kiên Cường (1989), Từ năm 1991 đến nay, hoạt động xuất khẩu lao động chuyển sang quản lý theo cơ chế thị trường, hàng loạt các doanh nghiệp được cấp phép xuất khẩu lao động, đồng thời nhà nước cũng ban hành các chính sách quản lý lao động cho các doanh nghiệp theo từng thị trường nhập khẩu lao động, để thực hiện được nguyên lý : Xuất khẩu lao động phải đạt được mục đích kép, đó là thu về một nguồn ngoại tệ cho đất nước (lương, thu nhập của người lao động, phí quản lý của cơ quan xuất khẩu lao động) và nâng cao trình độ tay nghề, chuyên môn, nghiệp vụ kỹ thuật, tác phong công nghiệp, trình độ ngoại ngữ cho người lao động - đây là nguồn nhân lực sẽ bổ sung cho thị trường lao động Việt Nam trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế. Chính vì mục tiêu trên nên một số đề tài đã nghiên cứu theo xu hướng nhằm vào việc cải thiện thị trường ngoài nước như mở rộng thị trường XKLĐ (trong từng nước và khu vực sẵn có cũng như mở thêm các nước và khu vực mới), mở rộng các ngành nghề XKLĐ, mở thêm các đối tượng lao động, mở thêm các kênh lao động, giải pháp kéo dài thời hạn làm việc, chính sách lương & thu nhập của người lao động, chính sách tái tuyển của người lao động, cũng có nhiều đề tài hướng nghiên cứu vào các chính sách theo hệ thống quy trình trong hoạt động XKLĐ trong đó có sự tham gia của nhiều ngành quản lý, chính sách đối với người lao động làm việc ở nước ngoài trở về, tuy nhiên hướng nghiên cứu để tạo ra một hệ thống chính sách từ góc độ quản lý nhà nước để khai thác, thu hút, quản lý và sử dụng nguồn nhân lực sau khi xuất khẩu trở về nước thì mới chỉ hình thành ở góc độ sơ khai chưa có một đề tài nào mang tính khả thi. Có thể phân theo các nhóm sau: - Nhóm những tác giả nghiên cứu về chính sách hỗ trợ kinh tế-tài chính, đào tạo lại gồm có Nguyễn Lương Trào (Luận án tiến sĩ “ Mở rộng và nâng cao hiệu quả của việc đưa lao động Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài” tại Trường Đại học Kinh tế quốc dân), Phạm Thị Hoàn, Tổng cục dạy nghề (Tạp chí việc làm ngoài nước tháng 3/2006). - Nhóm tác giả nghiên cứu về chính sách lập nghiệp và khởi sự nghề nghiệp có tác giả Nguyễn Lương Trào với lời kết của luận án trên. - Nhóm tác giả nghiên cứu về sử dụng hiệu quả ngành nghề nguồn nhân lực sau XKLĐ có tác giả Nguyễn Thị Phương Linh (Luận án tiến sĩ “ Một số giải pháp đổi mới quản lý về XKLĐ Việt Nam theo cơ chế thị trường” tại Học viện Ngân hàng). - Nhóm tác giả nghiên cứu về chính sách quy hoạch, kế hoạch nguồn nhân lực sau XKLĐ có tác giả Lê Hồng Huyên, Ban kinh tế Trung ương (Tạp chí việc làm ngoài nước tháng 4/2005 “Nâng cao hiệu quả xuất khẩu nhân lực” ), Cao Văn Sâm, Tổng cục dạy nghề (Tạp chí việc làm ngoài nước tháng 5/2005 “ Nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực ở Việt Nam, nhìn từ góc độ xuất khẩu lao động” ). Một số nội dung của chính sách sử dụng nguồn nhân lực được các tác giả đưa ra, đó là: - Bản thân người lao động khi trở về nước có nhu cầu tiếp tục làm việc, nhất là được sử dụng theo đúng ngành nghề của mình. - Những năng lực mới cần được khai thác, sử dụng để phát huy hiệu quả sau thời gian đi lao động ở nước ngoài. - Nhà nước mà cụ thể là Ngành Lao động, Thương binh và Xã hội; Hệ thống trung tâm xúc tiến việc làm; Các doanh nghiệp xuất khẩu lao động phải có trách nhiệm tư vấn, giới thiệu việc làm, đào tạo thông qua tập huấn, đào tạo lại theo nhu cầu xã hội, hỗ trợ vốn mọi hình thức cho phù hợp với từng dạng đối tượng lao động, đặc biệt là các chính sách: + Có chính sách ưu đãi, khuyến khích trong tìm việc làm + Có chính sách ưu đãi trong thuê đất, hỗ trợ vốn, miễn giảm thuế. + Có sự tham gia liên kết giữa 2 đối tượng doanh nghiệp XKLĐ và sử dụng lao động trong nước mà Hiệp hội XKLĐ làm đầu mối. Chưa có tác giả nào nghiên cứu về tổ chức thực hiện và phối hợp thực hiện nội dung này, chưa nghiên cứu hệ thống đồng bộ các chính sách, từng chính sách còn đơn điệu, thiếu các luận cứ nên thiếu sức thuyết phục (chưa có đánh giá, phương pháp đánh giá, đi sâu phân tích mục tiêu và nội dung cũng như đưa ra các bài học kinh nghiệm) Một số nghiên cứu ngoài nước có liên quan, như: - Overseas. Employment in to series Vol,5, No.1, Malina March 1992, - Statistical Report 1990: International Labour Migration From Asian Labour Sending countries, IOL Bangkok, Chapter India. - Guide to Entry, Residence and Registration Proceduses in Japan for Foreign Nationals. Japan Immigration Association, 1993 - Young Bum-Park: Market opportunities for the Export of Chinese Labour, Training semina oversea labour Market Development ILO-MOLISA, Hanoi 1993 Những kết quả chung của tình hình nghiên cứu ngoài nước được thể hiện: - Gắn kết lao động khi xuất khẩu với các tổ chức xã hội để bảo vệ lao động ở ngoài nước cũng như khi trở về, cả con người và kinh tế. - Đào tạo có hệ thống để phân phối lao động làm việc ở nước ngoài có tổ chức và phân phối lao động khi trở về trong cùng một đơn vị kinh tế - Các hiệp hội lao động hoạt động có sự bảo trợ của Nhà nước về người lao động trong chu trình Xuất khẩu lao động. - Nhà nước có chính sách cụ thể về vốn vay ưu tiên, hỗ trợ nghề nghiệp trong tái định cư, lập nghiệp - Nhà nước và các tổ chức xã hội, các doanh nghiệp có chính sách, cơ chế hỗ trợ về đào tạo lại trong quá trình lập nghiệp. Việc trình bày một cách hệ thống cơ sở lý luận và thực tiễn về nội dung các chính sách sử dung nguồn nhân lực sau xuất khẩu lao động thì chưa có công trình nghiên cứu nào một cách đầy đủ, logic và mang tính khoa học. 3. Mục đích nghiên cứu Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn chính sách của Nhà nước về sử dụng NNL sau XKLĐ, phân tích thực trạng và nguyên nhân của những hạn chế về chính sách sử dụng NNL sau XKLĐ ở nước ta để đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách đối với NNL sau XKLĐ trong giai đoạn hiện nay. 4. Đối tượng – Khách thể nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu : Hệ thống chính sách của nhà nước về sử dụng nguồn nhân lực sau xuất khẩu lao động. Tác động của các chính sách đối với hoạt động XKLĐ được nghiên cứu trong mối quan hệ với sự quản lý của các cơ quan nhà nước liên quan đến nguồn nhân lực sau xuất khẩu lao động và sử dụng nguồn nhân lực sau xuất khẩu lao động. 4.2. Khách thể nghiên cứu: Sử dụng nguồn nhân lực sau XKLĐ bao gồm sử dụng lao động, tu nghiệp sinh và thực tập sinh sau khi hoàn thành hợp đồng lao động ở nước ngoài trở về; Các tổ chức phối hợp và vận hành thực hiện chính sách sử dụng nguồn nhân lực sau xuất khẩu lao động 5. Giả thuyết khoa học của luận án Chính sách sử dụng NNL sau XKLĐ đã Nhà nước luật hoá, trong quá trình tổ chức thực hiện đã xuất hiện các chính sách hỗ trợ bổ sung, tuy nhiên còn thiếu và chưa hoàn thiện một cách hệ thống nên chưa phát huy hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực này. Nếu nghiên cứu và đánh giá đúng thực trạng hệ thống chính sách, tìm ra các giải pháp hoàn thiện hệ thống chính sách và tổ chức thực hiện theo các chức năng, nhiệm vụ cụ thể từ bộ máy quản lý hợp lý, thì hàng năm sẽ có hàng chục ngàn lao động có chuyên môn, kỹ thuật sau khi xuất khẩu lao động về nước có cơ hội được sử dụng phù hợp, góp phần đáp ứng nguồn nhân lực kỹ thuật đang thiếu hụt ở nước ta trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế. 6. Nhiệm vụ nghiên cứu: 6.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận về chính sách và chính sách sử dụng nguồn nhân lực sau XKLĐ. 6.2. Nghiên cứu thực trạng chính sách của nhà nước về sử dụng nguồn nhân lực sau xuất khẩu lao động ở nước ta hiện nay, trên cơ sở đó phân tích những hạn chế và nguyên nhân của các hạn chế. 6.3. Trên cơ sở lý luận và thực tiễn, đề xuất các giải pháp hoàn thiện chính sách của nhà nước để quản lý và sử dụng nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn, kỹ thuật sau khi xuất khẩu lao động về nước 7. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu: 7.1. Giới hạn về đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu nội dung xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện các chính sách của nhà nước về sử dụng nguồn nhân lực sau XKLĐ trong giai đoạn từ năm1991 đến nay, khi hoạt động xuất khẩu lao động thực hiện theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. 7.2. Giới hạn về khách thể nghiên cứu: Nghiên cứu tổ chức và sử dụng nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn, kỹ thuật sau khi hoàn thành hợp đồng xuất khẩu lao động về nước, không không bao gồm các đối tượng thuộc ngành nghề giúp việc gia đình, khán hộ công. 7.3. Giới hạn về địa bàn nghiên cứu: Luận án được tiến hành nghiên cứu một cách khái quát và tiêu biểu nhất về chính sách của nhà nước trong giai đoạn đổi mới và hội nhập quốc tế của Việt Nam, đồng thời nghiên cứu, tham khảo chính sách tại một số nước trong khu vực có những đặc trưng gần với Việt Nam hoặc có mối liên hệ với với đề tài nghiên cứu 8. Phương pháp nghiên cứu 8.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận Nghiên cứu tài liệu, phân tích, so sánh, tổng hợp, phân loại, khái quát, hệ thống các nguồn tài liệu có liên quan đến đề tài luận án. 8.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn - Phương pháp điều tra, khảo sát: Tiến hành điều tra về nguyện vọng của 79 lao động sau XKLĐ tại công ty Dịch vụ & Thương mại –TSC; Điều tra về kết quả của kế hoạch lập nghiệp một số doanh nghiệp mà Giám đốc là người lao động sau sau khi hoàn thành hợp đồng làm việc ở nước ngoài trở về; sử dụng nguồn nhân lực từ các điều tra của các tổ chức, quan chức địa phương. - Phương pháp phỏng vấn, hội thảo: Phỏng vấn chuyên gia nước ngoài tại Tỉnh Champssak (CHĐCN Lào) về chính sách đối với nguồn nhân lực sau XKLĐ tại Lào; Hội thảo tại Khoa Quản lý Nhà nước về Xã hội - Học viện Hành chính về giải pháp sử dụng nguồn nhân lực sau XKLĐ để tham khảo ý kiến về các giải pháp hợp lý - Phương pháp quan sát, lấy ý kiến chuyên gia: Lấy phiếu ý kiến của 218 cán bộ của Tổng công ty Xi măng Việt Nam, Tâp đoàn Bưu chính-Viễn thông Việt Nam, Công ty Cổ phần Gang thép Thái nguyên tại các lớp chuyên viên chính do Học viện Hành chính tổ chức năm 2009 về nhu cầu sử dụng nguồn nhân lực sau XKLĐ tại các tổ chức này để nắm rõ vai trò của nguồn nhân lực sau XKLĐ, chính sách đào tạo lại và nhằm tìm kiếm các giải pháp hỗ trợ để hoàn thiện các chính sách cho nguồn nhân lực này - Phương pháp thực nghiệm giải pháp: Mô hình hoá các vị trí, chức năng, tổ chức phối hợp, các tiêu chí quản lý và triển khai thực hiện qua mô phỏng và trải nghiệm để đề xuất các giải pháp . 8.3. Phương pháp xử lý số liệu bằng thống kê toán học Luận án sử dụng phương pháp thống kê toán học để xử lý các số liệu thu được từ việc khảo sát thực trạng và thực nghiệm. 9. Đóng góp mới của luận án 9.1. Đóng góp về lý luận - Hệ thống hoá những vấn đề lý luận về chính sách sử dụng nguồn nhân lực sau xuất khẩu lao động. - Làm rõ những nội dung cơ bản của chính sách sử dụng nguồn nhân lực sau xuất khẩu lao động. Những yêu cầu đặt ra và chỉ tiêu đánh giá đối với nguồn nhân lực sau xuất khẩu lao động. - Phân tích và đánh giá thực trạng và nguyên nhân hạn chế về chính sách sử dụng nguồn nhân lực sau xuất khẩu lao động ở Việt Nam. - Nghiên cứu và rút ra những bài học kinh nghiệm của một số nước trong khu vực và Châu Á về chính sách sử dụng nguồn nhân lực sau xuất khẩu lao động - Đưa ra cơ sở, phương pháp và yêu cầu của hoàn thiện chính sách sử dụng nguồn nhân lực sau xuất khẩu lao động ở Việt Nam. 9.2. Đóng góp về thực tiễn - Định hướng xây dựng các nội dung, cơ chế, chính sách, kế hoạch thực hiện trong từng giai đoạn phát triển nguồn nhân lực liên quan đến sử dụng nguồn nhân lực sau xuất khẩu lao động. - Làm cơ sở để nhà nước xây dựng chỉ tiêu kế hoạch hàng năm về sử dụng nguồn nhân lực sau xuất khẩu lao động trong lộ trình hợp tác quốc tế và sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. - Làm căn cứ để hoàn thiện chính sách sử dụng NNL sau XKLĐ. - Làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu và đào tạo cũng như trong hoạt động quản lý về chính sách sử dụng nguồn nhân lực sau xuất khẩu lao động. 10. Cấu trúc của luận án Luận án ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, mục lục thì nội dung chính bao gồm 3 chương: Chương 1. Cơ sở lý luận về chính sách sử dụng nguồn nhân lực sau xuất khẩu lao động Chương 2. Thực trạng về chính sách sử dụng nguồn nhân lực sau xuất khẩu lao động ở Việt Nam Chương 3. Giải pháp hoàn thiện chính sách sử dụng nguồn nhân lực sau xuất khẩu lao động ở Việt Nam

doc220 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2435 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Hoàn thiện chính sách sử dụng nguồn nhân lực sau xuất khẩu lao động ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Sau 30 năm hoạt động xuất khẩu lao động, đặc biệt là gần 20 năm vận hành theo cơ chế thị trường, hoạt động xuất khẩu lao động ở Việt Nam đang được coi là mũi nhọn của kinh tế đối ngoại, hàng năm gần 100 ngàn người ký hợp đồng tham gia xuất khẩu lao động, (hiện nay Việt Nam có khoảng 500 ngàn lao động đang có mặt ở trên 40 quốc gia và khu vực trên thế giới), hoạt động xuất khẩu lao động ở Việt Nam đã được coi là giải pháp quan trọng trong việc giải quyết nhu cầu bức xúc về việc làm trước mắt cho một bộ phận nguồn nhân lực trong nước, vì mục tiêu xã hội: Xoá đói, giảm nghèo, giảm thiểu thất nghiệp. Không chỉ mang lại một nguồn thu nhập cho người lao động, tạo ra nguồn thu ngoại tệ đáng kể cho đất nước mà hoạt động xuất khẩu lao động còn là công cụ để tiếp nhận sự chuyển giao công nghệ tiên tiến nước ngoài, thông qua đó đào tạo một đội ngũ lao động có chất lượng cao về chuyên môn, ngoại ngữ và tác phong lao động công nghiệp, mang tính chiến lược trong quá trình phát triển & hội nhập kinh tế thế giới, đồng thời tăng cường mối quan hệ giữa Việt Nam với cộng đồng quốc tế và nâng cao một bước công tác quản lý Nhà nước của các cơ quan trung ương cũng như chính quyền địa phương. Sau khi trở thành thành viên của WTO, với hàng loạt các chính sách cải thiện môi trường theo hướng mở cửa kinh tế, Việt Nam đã được coi là thị trường hấp dẫn cho các nhà đầu tư nước ngoài, trong đó không ít các thị phần này thuộc về các nước có lao động Việt Nam đang làm việc. Trong khi nguồn lao động rẻ và có sẵn không qua đào tạo ở Việt Nam đã không đủ hấp dẫn với tiêu chí tuyển chọn của các nhà đầu tư với các ngành, lĩnh vực tiên tiến, bên cạnh đó những hạn chế của công tác đào tạo, bồi dưỡng nghề nghiệp cho lao động tại chỗ vẫn chưa đảm bảo về số lượng và chất lượng theo yêu cầu của thực tế lao động thời kỳ hội nhập thì nguồn nhân lực sau XKLĐ được đánh giá là thích hợp nhất, nhưng đến nay Nhà nước vẫn chưa có những chính sách mang tính hệ thống, đảm bảo hiệu lực và thực thi để sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực này, nhất là trong giai đoạn hội nhập kinh tế ngày càng sâu, rộng tại Việt Nam. Bởi vậy, nghiên cứu và đi tìm các giải pháp thích hợp, đồng bộ, hiệu quả, có hệ thống từ phía chính sách của Nhà nước là một chủ đề cần thiết. Tác giả chọn đề tài: Hoàn thiện chính sách sử dụng nguồn nhân lực sau xuất khẩu lao động ở Việt Nam, để nghiên cứu. Nhằm đáp ứng một số đòi hỏi từ thực tiễn như sau: Một là sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực có chất lượng sau XKLĐ mang lại lợi ích kinh tế cho đất nước Thực hiện những cam kết về môi trường trong lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế sau khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO, vấn đề nguồn nhân lực đang trở thành đề tài nóng bỏng cho các nhà hoạch định kinh tế, đặc biệt là nguồn nhân lực có tay nghề, chuyên môn kỹ thuật đang là cơn khát cho các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Từ năm 2007-2009, mỗi năm Việt Nam thu hút trên 20 tỷ dollars vốn FDI, vấn đề giải ngân đã trở nên khó khăn, chúng ta đã phải đối đầu với nguy cơ thiếu hụt nguồn nhân lực có chất lượng, Tại Hội nghị triển khai kế hoạch dạy nghề, việc làm và xuất khẩu lao động giai đoạn 2007-2010 ngày 10/5/2007, Bộ trưởng Bộ Lao động Thương binh & Xã hội đã cảnh báo: “Trong vòng 8-10 năm tới, Việt Nam sẽ đối mặt với nguy cơ nhập khẩu lao động có trình độ từ các nước bạn, nhất là Thái Lan”. Việc chuẩn bị một đội ngũ nguồn nhân lực có tay nghề ở các lĩnh vực khác nhau là một đảm bảo cho quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, những kiến tạo trong chiến lược “đi tắt, đón đầu” để thu hút đầu tư, triển khai các dự án thì yếu tố đầu tiên chính là nguồn nhân lực chất lượng. Xác định vai trò và ý nghĩa quan trọng của nguồn nhân lực chất lượng - yếu tố tạo nên tính cạnh tranh trọng thời kỳ đầu của hội nhập, hàng loạt các cơ sở đạo tạo của Việt Nam từ trung ương đến địa phương, các cơ quan bộ, ngành, tổ chức xã hội, nghề nghiệp,… đã được củng cố, hình thành và phát triển. Hàng loạt chính sách về tổ chức, chỉ đao, hỗ trợ, của nhà nước cùng với sự quan tâm tài trợ, hợp tác của các đơn vị, tổ chức, cá nhân, trong và ngoài nước đã tạo nên hệ thống hoạt động đào tạo, bồi dưỡng lực lượng lao động có nghề nghiệp, chuyên môn, kỹ thuật có tay nghề cho các nhu cầu của xã hội, tuy nhiên, chừng ấy vẫn chưa đủ cả về số lượng và chất lượng theo mặt bằng của các nhà sử dụng hiện nay, chưa tương xứng với yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá bởi một số đặc trưng thực tế như: - Tỷ trọng lao động qua đào tạo nghề thấp (27%), đây chính là hệ quả hệ thống giáo dục quốc gia yếu kém tác động đến trình độ chung của người lao động - Cơ cấu đào tạo cả về ngành nghề và trình độ mất cân đối, tỷ lệ đại học/ trung học chuyên nghiệp/ công nhân kỹ thuật trung bình là : 1/1,6/0,92. So với mức bình quân trên thế giới thì tỷ lệ thầy/ thợ là không cân đối (mức bình quân của các nước tiên tiến là 1 thầy 4 thợ). - Công tác đào tạo, bồi dưỡng chưa có sự gắn kết giữa lý luận và thực tế theo các tiêu chí của ngành công nghiệp hiện đại, các danh mục ngành nghề, chưa có các chính sách nhà nước để tạo ra cơ quan nghiên cứu, dự báo nguồn lao động từ mọi phía. - Phân bố lao động giữa các vùng cũng chưa hợp lý cũng do một phần từ các chính sách định hướng môi trường lao động. Trong giai đoạn phát triển kinh tế những năm 1991- nay, quan hệ xuất khẩu lao động của Việt Nam với các nước trên thế giới đã được cải thiện, trên 160 doanh nghiệp được nhà nước cấp phép xuất khẩu lao động đã hoạt động sôi động, lao động được xuất khẩu sang một số nước trong khu vực đã thành làn sóng, nhất là các thị trường nhập lao động Đài loan, Nhật Bản, Malaysia, Hàn Quốc đã thu hút một lượng lớn lao động Việt Nam, phần lớn từ các khu vực nông thôn, với trên 30 ngành nghề lao động khác nhau theo 3 kênh nhập khẩu của bạn: Lao động, tu nghiệp sinh, làm việc theo hệ thống thẻ vàng. Số lượng lao động Việt Nam tại mỗi nước này đến nay đã lên tới hàng chục ngàn người, thời hạn làm việc ở nước tiếp nhận làm việc trung bình từ 3-5 năm. Lao động Việt Nam nhìn chung được đánh giá tốt trong thời gian làm việc, như chấp hành nội quy làm việc, sẵn sàng làm thêm giờ, sức chịu đựng cao, những người lao động sau khi hoàn thành nhiệm vụ lao động ngoài nước, họ được coi là đã đào tạo qua môi trường thực tế tốt, có trình độ chuyên môn kỹ thuật theo ngành nghề tiên tiến, có tác phong công nghiệp, trình độ ngoại ngữ hợp lý. Đa số những lao động có nghề này đều mong muốn được làm việc ngay sau khi về nước bằng chính công việc mà họ từng làm ở nước ngoài. Đây cũng chính là mục tiêu chuyển dịch cơ cấu lao động của Nhà nước ta trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Hai là sử dụng nguồn lực sau XKLĐ làm tăng khả năng cung cấp nguồn nhân lực tham gia XKLĐ đồng thời hạn chế tình trạng trốn ra ngoài trong thời gian làm việc ở nước ngoài Trước đây, đại đa số tu nghiệp sinh và lao động khi tham gia XKLĐ là thanh niên vừa rời ghế nhà trường, được học định hướng trước khi xuất khẩu. Những năm gần đây theo nhu cầu và cạnh tranh việc làm quốc tế, việc tuyển chọn XKLĐ đã dần chuyển các sang đối tượng đã qua đào tạo, bởi vậy có giai đoạn nguồn nhân này đã chững lại vì cho rằng sau khi xuất khẩu lao động về nước sẽ không có cơ hội kiếm việc làm, mà nên kiếm việc làm ngay ở trong nước mặc dù thu nhập thấp hơn nhưng ổn định hơn, làm khan hiếm nguồn lao động cho các đơn hàng xuất khẩu lao động. Một thực tế cho thấy tình trạng phá vỡ hợp đồng, bỏ trốn ra ngoài làm việc đối với lao động Việt Nam khi làm việc ở nước ngoài có những giai đoạn đã đến mức báo động, những năm trước đây, ở Nhật Bản theo thống kê của của tổ chức JITCO, số lao động Việt Nam bỏ trốn khoảng từ 27 – 30%, còn ở Hàn Quốc số lượng lao động Việt Nam bỏ trốn khoảng 13-15%, riêng Đài Loan đã bị cắt một phần do tỷ lệ bỏ trốn quá mức quy định. Một trong những nguyên nhân được xác định đó là người lao động lo ngai về nước không có việc làm nên khi gần hết thời hạn hợp đồng họ đã trốn ra ngoài để có cơ hội tìm việc làm mới ở nước sở tại và đương nhiên trở thành đối tượng lao động bất hợp pháp, gây nên hình ảnh ảnh xấu cho lao động Việt Nam. Gần đây tỷ lệ này đã giảm đáng kể do phía nước nhân lao động đã có chính sách nhận lại những lao động sau khi hết hạn trở về vẫn có thể trở lại làm việc theo hướng ưu tiên lao động tốt hoặc kéo dài thời gian lao động, bổ sung chính sách lao động trong hợp đồng tu nghiệp,… Tuy nhiên, nếu chính sách thu hút nguồn nhân lực này ở trong nước hợp lý thì nguồn nhân lực trong hoạt động xuất khẩu lao động cũng sẽ thực trở thành động lực đảm bảo ổn định cho nguồn nhân lực tham gia xuất khẩu lao động theo kế hoạch hàng năm. Ba là sử dụng nguồn lực sau XKLĐ sẽ bổ sung cho đất nước những giá trị văn hoá tiến tiến đồng thời triệt tiêu nguy cơ mặc cảm gây tổn hại cho xã hội đối với nguồn nhân lực sau XKLĐ trong quá trình tái hoà nhập Lao động ở nước ngoài hầu hết làm việc trong các nhà máy, xí nghiệp của các nước có nền công nghiệp phát triển hơn ta, do đó cũng là nơi mà có những giá trị văn hoá tích tụ của một xã hội có đời sống sinh hoạt công nghiệp tiên tiến, đó là nét đặc trưng của những tác phong giao tiếp hiện đại sẽ được bổ sung và lan truyền tại những khu vực sử dụng nguồn nhân lực này ở Việt Nam, góp phần không nhỏ nếu những giá trị ấy được sử dụng kịp thời, đúng chỗ và có thể sẽ được phát huy tích cực trong quá trình tái hoà nhập. Mặt khác, một bộ phận nguồn nhân lực làm việc trong một môi trường văn hoá-xã hội có khác biệt lớn, nhất là những nơi bị chủ sử dụng lao động phân biệt chủ-thợ quá mức trong 1 thời gian dài, sẽ gây ra những tổn thương về tâm lý, tinh thần, khi về nước họ dễ bị mặc cảm, không thấy hết giá trị ở chính mình là tay nghề chuyên môn, do đó nếu không có chính sách giúp đỡ họ nhanh chóng tái hoà nhập thì họ dễ dàng bị sa đà vào con đường thất nghiệp, chi tiêu vung vãi số tiền kiếm được trước đó và rất có thể sẽ là nguy cơ của mối hiểm hoạ cho xã hội. “không ít trường hợp khi xuất khẩu lao động trở về, ỷ có tiền, họ không chí thú làm ăn như trước và mất phương hướng làm ăn nên tiền hết dần, nhiều gia đình đi đến chỗ bế tắc trong cuộc sống, mâu thuẫn gia đình nảy sinh. Đây là thực trạng đáng báo động không chỉ cho các gia đình có người thân đi xuất khẩu lao động mà còn cho các cấp chính quyền và ngành chức năng trong việc giải quyết “hậu” xuất khẩu lao động. cần một giải pháp đồng bộ” (Báo điện tử của Bộ Lao động Thương binh & Xã hội, Cần lo việc làm cho người xuất khẩu lao động trở về, ngày: 27/03/2006). Bốn là sử dụng nguồn nhân lực sau XKLĐ còn làm tăng cường mối quan hệ hợp tác quốc tế Một số các vị trí làm việc của lao động Việt Nam tại nước ngoài đã có mặt tại Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, hàng loạt các nhà máy, xí nghiệp tại các khu công nghiệp được hình thành do đầu tư từ nước ngoài hoàn toàn phù hợp với công việc mà lao động Việt Nam đã làm ở nước ngoài, khi sử dụng các lao động này chính là một đảm bảo về quan hệ hợp tác trong hoạt động đào tạo nguồn nhân lực, mặt khác nảy sinh mối quan hệ đối tác trong các lĩnh vực khác như du lịch, giáo dục đào tạo. “Hàng năm, nước ta luôn có một bộ phận nguồn nhân lực không nhỏ đã từng làm việc ở các doanh nghiệp của các nước có nền công nghiệp tiên tiến trở về (thông qua các hợp đồng XKLĐ, tu nghiệp sinh, hệ thống thẻ ưu đãi). Sử dụng nguồn nhân lực này không chỉ có ý nghĩa về chất lượng của trí tuệ và sức lao động trong huyết mạch của doanh nghiệp mà thông qua đó có thể tạo ra mối bang giao, đối tác mới cho doanh nghiệp” [33, tr. 50] . Những lý do trên đây là căn cứ để xác định mục đích nghiên cứu. 2. Tình hình nghiên cứu Xuất khẩu lao động đã diễn ra với một bình diện lớn trên thế giới, một số các nước phát triển trước đây cũng từng trải qua hoạt động xuất khẩu lao động, bởi vậy những nghiên cứu về các chủ đề trong chính sách hoạt động XKLĐ nói chung cũng như chính sách sử dụng nguồn nhân lực sau XKLĐ nói riêng là một nội dung phong phú và đa dạng nhằm đưa ra các giải pháp để đáp ứng được nguồn lực phát triển kinh tế và xã hội trong từng giai đoạn đổi mới đất nước. Ở Việt Nam, từ khi hoạt động hợp tác lao động và chuyên gia phát triển (Từ năm 1980 đến năm 1990) đã có một số nghiên cứu về sử dụng hiệu quả của nguồn nhân lực này, tuy nhiên hướng nghiên cứu tập trung vào quản lý, đánh giá ích lợi của một bộ phận lao động được nhà nước cho đi làm việc có thời hạn ở các nước XHCN theo diện ưu tiên, công trình nghiên cứu phải kể đến là: Tổ chức sử dụng có hiệu quả nguồn lao động xã hội của Việt Nam trong lĩnh vực đưa lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài, Luận án tiến sĩ tại Trường Đại học Kinh tế quốc dân của Phạm Kiên Cường (1989), Từ năm 1991 đến nay, hoạt động xuất khẩu lao động chuyển sang quản lý theo cơ chế thị trường, hàng loạt các doanh nghiệp được cấp phép xuất khẩu lao động, đồng thời nhà nước cũng ban hành các chính sách quản lý lao động cho các doanh nghiệp theo từng thị trường nhập khẩu lao động, để thực hiện được nguyên lý : Xuất khẩu lao động phải đạt được mục đích kép, đó là thu về một nguồn ngoại tệ cho đất nước (lương, thu nhập của người lao động, phí quản lý của cơ quan xuất khẩu lao động) và nâng cao trình độ tay nghề, chuyên môn, nghiệp vụ kỹ thuật, tác phong công nghiệp, trình độ ngoại ngữ cho người lao động - đây là nguồn nhân lực sẽ bổ sung cho thị trường lao động Việt Nam trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế. Chính vì mục tiêu trên nên một số đề tài đã nghiên cứu theo xu hướng nhằm vào việc cải thiện thị trường ngoài nước như mở rộng thị trường XKLĐ (trong từng nước và khu vực sẵn có cũng như mở thêm các nước và khu vực mới), mở rộng các ngành nghề XKLĐ, mở thêm các đối tượng lao động, mở thêm các kênh lao động, giải pháp kéo dài thời hạn làm việc, chính sách lương & thu nhập của người lao động, chính sách tái tuyển của người lao động, cũng có nhiều đề tài hướng nghiên cứu vào các chính sách theo hệ thống quy trình trong hoạt động XKLĐ trong đó có sự tham gia của nhiều ngành quản lý, chính sách đối với người lao động làm việc ở nước ngoài trở về, tuy nhiên hướng nghiên cứu để tạo ra một hệ thống chính sách từ góc độ quản lý nhà nước để khai thác, thu hút, quản lý và sử dụng nguồn nhân lực sau khi xuất khẩu trở về nước thì mới chỉ hình thành ở góc độ sơ khai chưa có một đề tài nào mang tính khả thi. Có thể phân theo các nhóm sau: - Nhóm những tác giả nghiên cứu về chính sách hỗ trợ kinh tế-tài chính, đào tạo lại gồm có Nguyễn Lương Trào (Luận án tiến sĩ “ Mở rộng và nâng cao hiệu quả của việc đưa lao động Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài” tại Trường Đại học Kinh tế quốc dân), Phạm Thị Hoàn, Tổng cục dạy nghề (Tạp chí việc làm ngoài nước tháng 3/2006). - Nhóm tác giả nghiên cứu về chính sách lập nghiệp và khởi sự nghề nghiệp có tác giả Nguyễn Lương Trào với lời kết của luận án trên. - Nhóm tác giả nghiên cứu về sử dụng hiệu quả ngành nghề nguồn nhân lực sau XKLĐ có tác giả Nguyễn Thị Phương Linh (Luận án tiến sĩ “ Một số giải pháp đổi mới quản lý về XKLĐ Việt Nam theo cơ chế thị trường” tại Học viện Ngân hàng). - Nhóm tác giả nghiên cứu về chính sách quy hoạch, kế hoạch nguồn nhân lực sau XKLĐ có tác giả Lê Hồng Huyên, Ban kinh tế Trung ương (Tạp chí việc làm ngoài nước tháng 4/2005 “Nâng cao hiệu quả xuất khẩu nhân lực” ), Cao Văn Sâm, Tổng cục dạy nghề (Tạp chí việc làm ngoài nước tháng 5/2005 “ Nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực ở Việt Nam, nhìn từ góc độ xuất khẩu lao động” ). Một số nội dung của chính sách sử dụng nguồn nhân lực được các tác giả đưa ra, đó là: - Bản thân người lao động khi trở về nước có nhu cầu tiếp tục làm việc, nhất là được sử dụng theo đúng ngành nghề của mình. - Những năng lực mới cần được khai thác, sử dụng để phát huy hiệu quả sau thời gian đi lao động ở nước ngoài. - Nhà nước mà cụ thể là Ngành Lao động, Thương binh và Xã hội; Hệ thống trung tâm xúc tiến việc làm; Các doanh nghiệp xuất khẩu lao động phải có trách nhiệm tư vấn, giới thiệu việc làm, đào tạo thông qua tập huấn, đào tạo lại theo nhu cầu xã hội, hỗ trợ vốn mọi hình thức cho phù hợp với từng dạng đối tượng lao động, đặc biệt là các chính sách: + Có chính sách ưu đãi, khuyến khích trong tìm việc làm + Có chính sách ưu đãi trong thuê đất, hỗ trợ vốn, miễn giảm thuế. + Có sự tham gia liên kết giữa 2 đối tượng doanh nghiệp XKLĐ và sử dụng lao động trong nước mà Hiệp hội XKLĐ làm đầu mối. Chưa có tác giả nào nghiên cứu về tổ chức thực hiện và phối hợp thực hiện nội dung này, chưa nghiên cứu hệ thống đồng bộ các chính sách, từng chính sách còn đơn điệu, thiếu các luận cứ nên thiếu sức thuyết phục (chưa có đánh giá, phương pháp đánh giá, đi sâu phân tích mục tiêu và nội dung cũng như đưa ra các bài học kinh nghiệm) Một số nghiên cứu ngoài nước có liên quan, như: - Overseas. Employment in to series Vol,5, No.1, Malina March 1992, - Statistical Report 1990: International Labour Migration From Asian Labour Sending countries, IOL Bangkok, Chapter India. - Guide to Entry, Residence and Registration Proceduses in Japan for Foreign Nationals. Japan Immigration Association, 1993 - Young Bum-Park: Market opportunities for the Export of Chinese Labour, Training semina oversea labour Market Development ILO-MOLISA, Hanoi 1993 Những kết quả chung của tình hình nghiên cứu ngoài nước được thể hiện: - Gắn kết lao động khi xuất khẩu với các tổ chức xã hội để bảo vệ lao động ở ngoài nước cũng như khi trở về, cả con người và kinh tế. - Đào tạo có hệ thống để phân phối lao động làm việc ở nước ngoài có tổ chức và phân phối lao động khi trở về trong cùng một đơn vị kinh tế - Các hiệp hội lao động hoạt động có sự bảo trợ của Nhà nước về người lao động trong chu trình Xuất khẩu lao động. - Nhà nước có chính sách cụ thể về vốn vay ưu tiên, hỗ trợ nghề nghiệp trong tái định cư, lập nghiệp - Nhà nước và các tổ chức xã hội, các doanh nghiệp có chính sách, cơ chế hỗ trợ về đào tạo lại trong quá trình lập nghiệp. Việc trình bày một cách hệ thống cơ sở lý luận và thực tiễn về nội dung các chính sách sử dung nguồn nhân lực sau xuất khẩu lao động thì chưa có công trình nghiên cứu nào một cách đầy đủ, logic và mang tính khoa học. 3. Mục đích nghiên cứu Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn chính sách của Nhà nước về sử dụng NNL sau XKLĐ, phân tích thực trạng và nguyên nhân của những hạn chế về chính sách sử dụng NNL sau XKLĐ ở nước ta để đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách đối với NNL sau XKLĐ trong giai đoạn hiện nay. 4. Đối tượng – Khách thể nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu : Hệ thống chính sách của nhà nước về sử dụng nguồn nhân lực sau xuất khẩu lao động. Tác động của các chính sách đối với hoạt động XKLĐ được nghiên cứu trong mối quan hệ với sự quản lý của các cơ quan nhà nước liên quan đến nguồn nhân lực sau xuất khẩu lao động và sử dụng nguồn nhân lực sau xuất khẩu lao động. 4.2. Khách thể nghiên cứu: Sử dụng nguồn nhân lực sau XKLĐ bao gồm sử dụng lao động, tu nghiệp sinh và thực tập sinh sau khi hoàn thành hợp đồng lao động ở nước ngoài trở về; Các tổ chức phối hợp và vận hành thực hiện chính sách sử dụng nguồn nhân lực sau xuất khẩu lao động 5. Giả thuyết khoa học của luận án Chính sách sử dụng NNL sau XKLĐ đã Nhà nước luật hoá, trong quá trình tổ chức thực hiện đã xuất hiện các chính sách hỗ trợ bổ sung, tuy nhiên còn thiếu và chưa hoàn thiện một cách hệ thống nên chưa phát huy hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực này. Nếu nghiên cứu và đánh giá đúng thực trạng hệ thống chính sách, tìm ra các giải pháp hoàn thiện hệ thống chính sách và tổ chức thực hiện theo các chức năng, nhiệm vụ cụ thể từ bộ máy quản lý hợp lý, thì hàng năm sẽ có hàng chục ngàn lao động có chuyên môn, kỹ thuật sau khi xuất khẩu lao động về nước có cơ hội được sử dụng phù hợp, góp phần đáp ứng nguồn nhân lực kỹ thuật đang thiếu hụt ở nước ta trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế. 6. Nhiệm vụ nghiên cứu: 6.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận về chính sách và chính sách sử dụng nguồn nhân lực sau XKLĐ. 6.2. Nghiên cứu thực trạng chính sách của nhà nước về sử dụng nguồn nhân lực sau xuất khẩu lao độ
Luận văn liên quan