Cùng với sự đổi mới chung của đất nước và thực hiện chương trình tổng thể về cải cách hành chính nhà nước, trong những năm qua quản lý ngân sách nhà nước đã có những đổi mới, cải cách và đạt được những kết quả quan trọng, đặc biệt là từ khi Luật Ngân sách nhà nước được Quốc hội khoá XI thông qua ngày 16/12/2002, có hiệu lực thi hành từ năm ngân sách 2004 với mục tiêu và ý nghĩa quan trọng trong việc quản lý, điều hành ngân sách nhà nước, phát triển kinh tế xã hội, tăng cường tiềm lực tài chính đất nước, quản lý thống nhất nền tài chính quốc gia, xây dựng ngân sách nhà nước lành mạnh, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả và tài sản nhà nước, thực hiện các mục tiêu kinh tế, chính trị, xã hội.
Sự nghiệp giáo dục của nhà nước có vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Giáo dục chính là nền tảng văn hoá, là cơ sở hình thành nhân cách, phẩm chất và ý thức của mỗi cá nhân trong xã hội. Nhân tố quyết định thắng lợi trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế chính là con người, là nguồn nhân lực. Chình vì vậy phải đầu tư cho con người ngay từ khi con người được hình thành bào thai mẹ, các cấp tiểu học trung học cơ sở, đây chính là giai đoạn nền tảng quan trọng tạo lập cho con người cả về chất và lượng để chuẩn bị lực lượng lao động đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của đất nước.
Nhận thức được vai trò và tầm quan trọng của giáo dục trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội thời kỳ CNH-HĐH trong những năm qua chi ngân sách cho hoạt động giáo dục nói chung, chi ngân sách cho giáo dục quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội nói riêng đã không ngừng tăng lên theo từng năm đã góp phần quan trọng vào quá trình phát triển giáo dục của thành phố Hà Nội. Tuy nhiên thực trạng hiện nay công tác quản lý chi ngân sách nhà nước của quận Hoàng Mai còn nhiều hạn chế đặc biệt là vấn đề chi ngân sách cho giáo dục, định mức phân bổ vẫn chưa thật sự gắn liền với các tiêu chí đảm bảo chất lượng đào tạo, đội ngũ giáo viên, cơ sở vật chất. Cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về nhiệm vụ, tổ chức bộ máy và tài chính của các trường tiểu học và THCS của quận Hoàng Mai còn hạn chế, các trường không thể tiết kiệm để tăng thêm thu nhập cho giáo viên và tăng cường cơ sở vật chất nhằm nâng cao chất lượng giáo dục.
Xuất phát từ những yêu cầu, hạn chế nêu trên, tác giả chọn vấn đề “Hoàn thiện cơ chế quản lý chi ngân sách cấp quận, huyện cho giáo dục (qua thực tế quận Hoàng Mai).
98 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 3502 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Hoàn thiện cơ chế quản lý chi ngân sách cấp quận, huyện cho giáo dục (qua thực tế quận Hoàng Mai), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Cùng với sự đổi mới chung của đất nước và thực hiện chương trình tổng thể về cải cách hành chính nhà nước, trong những năm qua quản lý ngân sách nhà nước đã có những đổi mới, cải cách và đạt được những kết quả quan trọng, đặc biệt là từ khi Luật Ngân sách nhà nước được Quốc hội khoá XI thông qua ngày 16/12/2002, có hiệu lực thi hành từ năm ngân sách 2004 với mục tiêu và ý nghĩa quan trọng trong việc quản lý, điều hành ngân sách nhà nước, phát triển kinh tế xã hội, tăng cường tiềm lực tài chính đất nước, quản lý thống nhất nền tài chính quốc gia, xây dựng ngân sách nhà nước lành mạnh, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả và tài sản nhà nước, thực hiện các mục tiêu kinh tế, chính trị, xã hội.
Sự nghiệp giáo dục của nhà nước có vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Giáo dục chính là nền tảng văn hoá, là cơ sở hình thành nhân cách, phẩm chất và ý thức của mỗi cá nhân trong xã hội. Nhân tố quyết định thắng lợi trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế chính là con người, là nguồn nhân lực. Chình vì vậy phải đầu tư cho con người ngay từ khi con người được hình thành bào thai mẹ, các cấp tiểu học trung học cơ sở, đây chính là giai đoạn nền tảng quan trọng tạo lập cho con người cả về chất và lượng để chuẩn bị lực lượng lao động đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của đất nước.
Nhận thức được vai trò và tầm quan trọng của giáo dục trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội thời kỳ CNH-HĐH trong những năm qua chi ngân sách cho hoạt động giáo dục nói chung, chi ngân sách cho giáo dục quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội nói riêng đã không ngừng tăng lên theo từng năm đã góp phần quan trọng vào quá trình phát triển giáo dục của thành phố Hà Nội. Tuy nhiên thực trạng hiện nay công tác quản lý chi ngân sách nhà nước của quận Hoàng Mai còn nhiều hạn chế đặc biệt là vấn đề chi ngân sách cho giáo dục, định mức phân bổ vẫn chưa thật sự gắn liền với các tiêu chí đảm bảo chất lượng đào tạo, đội ngũ giáo viên, cơ sở vật chất. Cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về nhiệm vụ, tổ chức bộ máy và tài chính của các trường tiểu học và THCS của quận Hoàng Mai còn hạn chế, các trường không thể tiết kiệm để tăng thêm thu nhập cho giáo viên và tăng cường cơ sở vật chất nhằm nâng cao chất lượng giáo dục.
Xuất phát từ những yêu cầu, hạn chế nêu trên, tác giả chọn vấn đề “Hoàn thiện cơ chế quản lý chi ngân sách cấp quận, huyện cho giáo dục (qua thực tế quận Hoàng Mai).
2. Tình hình nghiên cứu:
Hiện đã có rất nhiều những đề tài đã nghiên cứu liên quan đến quản lý ngân sách đối với giáo dục như:
- Đề tài “Hoàn thiện công tác quản lý tài chính đối với hoạt động giáo dục phổ thông trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi” (2006). Luận án thạc sỹ của Phạm Thị Minh Việt (2006).
- Đề tài “Tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp giáo dục công lập trên địa bàn tỉnh Hưng Yên, thực trạng và giải pháp” (2009). Luận án thạc sỹ kinh tế của Đặng Thị Hạnh.
- Đề tài “ Hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính đối với các trường trung học phổ thông công lập ở tỉnh Ninh Bình” (2010) Luận án thạc sỹ kinh tế của Đỗ Thị Phương Thảo.
-Đề tài “Hoàn thiện cơ chế quản lý chi ngân sách nhà nước cho giáo dục ở tỉnh Nghệ An” (2011). Luận án thạc sỹ kinh tế của Hồ Thị Xuân
- Đề tài “Hoàn thiện cơ chế quản lý ngân sách cấp huyện ở Việt Nam (lấy ví dụ ở huyện Yên Phong - tỉnh Bắc Ninh)”.
- Đề tài “Hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các trường Đại học và cao đẳng ở Việt Nam (2007). Luận án thạc sỹ kinh tế của Học viện Tài chính.
- Đề tài “Hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các trường Đại học và Cao đẳng ở Việt Nam”. Luận văn thạc sỹ của Nguyễn Thị Ngân Hà, - học viện Tài chính
- Đề tài “Đổi mới cơ chế chính sách tài chính trong quá trình xã hội hoá hoạt động giáo dục đại học tại Việt Nam”. Luận văn thạc sỹ của Nguyễn Quốc Huy, trường Đại học Kinh tế quốc dân..
…
Nhưng tất các các đề tài trên chưa có đề tài nào nghiên cứu về quản lý cơ chế chi ngân sách cho giáo dục cấp quận, huyện dưới góc độ kinh tế chính trị. Vì vậy đề tài vẫn có tính cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
Mục đích:
Vận dụng lý luận về ngân sách nhà nước và quản lý ngân sách nhà nước, chi ngân sách nhà nước cho giáo dục đào tạo, tầm quan trọng của giáo dục nói chung đối với sự phát triển kinh tế xã hội. Trên cơ sở đó đi sâu phân tích, đánh giá thực trạng và hạn chế của cơ chế chi ngân sách đối với hoạt động giáo dục của quận Hoàng Mai trong những năm qua.
Nhiệm vụ:
+ Khái quát lại những lý luận cơ bản về ngân sách, cơ chế quản lý chi ngân sách cấp quận, huyện cho giáo dục đào tạo.
+ Khảo sát, phân tích thực trạng cơ chế quản lý chi ngân sách cho giáo dục trên địa bàn quận Hoàng Mai từ năm 2006-2010.
+ Đề xuất một số quan điểm và giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện cơ chế quản lý chi ngân sách cấp quận, huyện cho giáo dục trong thời gian tới.
4. Phạm vi nghiên cứu
- Nội dung nghiên cứu: Cơ chế quản lý chi ngân sách nhà nước cấp quận, huyện cho giáo dục
- Về không gian: quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội
- Thời gian : Từ năm 2006-2010
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử để phân tích cơ chế quản lý chi ngân sách cấp quận, huyện cho giáo dục đồng thời sử dụng kết hợp các phương pháp điều tra, thống kê, phân tích, tổng hợp, so sánh, khái quát hoá để làm rõ nội dung nghiên cứu.
6. Đóng góp về lý luận thực tiễn của đề tài
Đề tài góp phần hệ thống cơ sở lý luận và thực tiễn về cơ chế quản lý chi ngân sách nhà nước cho giáo dục. Đánh giá thực trạng cơ chế quản lý chi ngân sách nhà nước cho giáo dục quận Hoàng Mai.
Với kết quả nghiên cứu đó, đề tài có thể làm tài liệu tham khảo cho việc lãnh đạo, điều hành quản lý chi ngân sách nói chung và cơ chế quản lý chi ngân sách cho giáo dục nói riêng, góp phần thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn quận Hoàng Mai.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài được trình bày thành 3 chương.
Chương 1: Cơ sở lý luận và kinh nghiệm thực tiễn về hoàn thiện cơ chế quản lý chi ngân sách cấp quận, huyện cho giáo dục .
Chương 2: Thực trạng cơ chế quản lý chi NSNN cho giáo dục quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội
Chương 3: Phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện cơ chế quản lý chi NSNN của quận Hoàng Mai cho giáo dục.
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM THỰC TIỄN VỀ HOÀN THIỆN CƠ CHẾ QUẢN LÝ CHI NGÂN SÁCH CẤP QUẬN, HUYỆN CHO GIÁO DỤC, ĐÀO TẠO
1.1. Những vấn đề cơ bản về cơ chế quản lý chi ngân sách cho giáo dục, đào tạo cấp quận, huyện
1.1.1. Những vấn đề cơ bản về ngân sách nhà nước và chi ngân sách Nhà nước cho giáo dục
1.1.1.1. Khái niệm về ngân sách nhà nước (NSNN)
- NSNN với tư cách là một phạm trù kinh tế bao giờ cũng gắn liền với sự xuất hiện, tồn tại của Nhà nước phát triển đến một trình độ nhất định. Sự xuất hiện của Nhà nước trong lịch sử đòi hỏi phải có những nguồn lực tài chính để đáp ứng chi tiêu nhằm phục vụ cho việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước.
NSNN là dự toán thu - chi bằng tiền của Nhà nước trong một khoảng thời gian nhất định (thường là một năm). Như vậy, NSNN là một kế hoạch tài chính cơ bản của quốc gia, trong đó gồm kế hoạch thu, kế hoạch chi và được lập theo phương pháp cân đối (thu phải đủ chi, chi không vượt thu).
Theo Luật NSNN Việt Nam thì: “NSNN là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để bảo đảm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước”.
- Về phương diện pháp lý: NSNN là một đạo luật dự trù các khoản thu, chi bằng tiền của Nhà nước trong một thời gian nhất định thường là một năm. Đạo luật này được cơ quan lập pháp của quốc gia đó ban hành.
- Về bản chất kinh tế: NSNN là hệ thống những mối quan hệ kinh tế giữa Nhà nước và xã hội, phát sinh trong quá trình Nhà nước huy động và sử dụng các nguồn tài chính nhằm đảm bảo yêu cầu thực hiện các chức năng của Nhà nước.
Các quan hệ kinh tế này bao gồm:
+ Quan hệ kinh tế giữa NSNN với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh.
+ Quan hệ kinh tế giữa NSNN với các đơn vị sự nghiệp công.
+ Quan hệ kinh tế giữa NSNN với các tầng lớp dân cư.
+ Quan hệ kinh tế giữa NSNN và thị trường tài chính.
+ Quan hệ kinh tế giữa NSNN với các hoạt động tài chính đối ngoại.
1.1.1.2. Chi ngân sách nhà nước cho giáo dục:
Chi ngân sách nhà nước cho giáo dục gắn liền với cơ cấu, nhiệm vụ của NSNN cho ngành giáo dục trong mỗi giai đoạn lịch sử và được xem xét ở các giác độ khác nhau. Nó nằm trong mối quan hệ giữa NSNN với đơn vị sự nghiệp công.
Nội dung chi ngân sách Nhà nước cho giáo dục gồm:
- Chi ngân sách cho hệ thống các trường học có:
+ Chi ngân sách cho hệ thống các trường mầm non và các trường phổ thông
+ Chi ngân sách cho các trường đại học, các học viện, các trường cao đẳng, các trường trung học chuyên nghiệp và dạy nghề.
+ Chi cho các trường Đảng, đoàn thể
- Chi ngân sách cho các cơ quan quản lý Nhà nước về giáo dục - đào tạo như: Bộ giáo dục đào tạo, Sở giáo dục, phòng giáo dục....
Theo cách phân loại chi NSNN theo yếu tố và phương thức quản lý các khoản chi cho giáo dục bao gồm:
- Chi thường xuyên: Căn cứ vào đối tượng của việc sử dụng kinh phí NSNN có thể chia thành 4 nhóm mục chi sau:
+ Các khoản chi cho con người: Chi lương, các khoản phụ cấp theo lương, chi bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn, chi phúc lợi tập thể cho giáo viên, cán bộ nhân viên, chi học bổng và trợ cấp cho học sinh sinh viên, tiền công....
+ Chi về quản lý hành chính, chi về công tác phí, công vụ phí, điện nước, xăng xe, văn phòng phẩm, chi hội nghị về công tác quản lý.
+ Chi cho hoạt động chuyên môn: Chi mua tài liệu, đồ dùng giảng dạy và học tập chi hội thảo, hội giảng, chi cho các lớp bồi dưỡng học sinh bồi dưỡng chuyên môn, các hoạt động chuyên đề về chuyên môn.
+. Chi mua sắm, sửa chữa, xây dựng nhỏ phục vụ cho hoạt động chuyên môn như: Mua sắm bàn ghế, bảng và các trang thiết bị khác, sửa chữa nhỏ trong trường...
Ngoài ra ngân sách Nhà nước còn chi tiêu cho các đơn vị thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia về giáo dục như chương trình phổ cập giáo dục tiểu học và chống mù chữ, chương trình tăng cường cơ sở vật chất trường học, chương trình công nghệ giáo dục... Hầu hết các chi khoản chi trên là những khoản chi phát sinh thường xuyên, tương đối ổn định và có thể định mức được. Do vậy trong công tác quản lý các khoản chi này phải lấy định mức làm cơ sở, riêng các khoản mua sắm sửa chữa nhỏ không phát sinh thường xuyên nên phải căn cứ vào thực trạng nhà cửa trang thiết bị, chế độ chính sách của Nhà nước trong từng thời kỳ và đặc biệt là khả năng nguồn vốn của NSNN để cấp phát và chi tiêu.
- Chi đầu tư XDCB: Tuỳ theo yêu cầu quản lý nội dung chi đầu tư XDCB được phân loại theo những tiêu thức khác nhau. Xét theo hình thức tái sản xuất TSCĐ, chi đầu tư XDCB cho giáo dục đào tạo được phân thành:
- Chi đầu tư xây dựng mới các TSCĐ phục vụ cho giáo dục đào tạo như các trường học, thư viện, phòng thí nghiệm…
- Chi cải tạo, nâng cấp mở rộng các TSCĐ hiện có nhằm tăng thêm công suất và hiện đại hoá TSCĐ như nâng cấp trường học, thư viện, xây thêm các lớp học…
1.1.1.3. Vai trò của chi NSNN đối với giáo dục đào tạo
Giáo dục là hoạt động hết sức cần thiết đối với phát triển xã hội và tăng cường kinh tế. Không thể có một xã hội phát triển ở trình độ cao mà không có một nguồn lực phát triển cả về thể chất và trí tuệ. Sản phầm của giáo dục là con người, con người là yếu tố sản xuất hết sức quan trọng. Kỹ năng của con người có tác động đến năng suất lao động, trình độ quản lý và muốn hình thành kỹ năng thì phải có giáo dục. Đặc biệt là trong bối cảnh thế giới bước sang thời đại mới - thời đại trí tuệ và trong môi trường toàn cầu hóa, trong đó, các yếu tố tri thức và thông tin trở thành những yếu tố hàng đầu và là nguồn tài nguyên giá trị nhất thì giáo dục trở thành đòn bẩy cho sự phát triển kinh tế. Chính vì vậy, đầu tư cho giáo dục chính là đầu tư cho tương lai, đầu tư hiệu quả nhất.
Đầu tư tài chính giữ vai trò như một trong những yếu tố có tính chất quyết định đối với việc hình thành, mở rộng và phát triển hệ thống giáo dục quốc dân từ giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, đào tạo công nhân, trung học chuyên nghiệp, đại học đến đào tạo sau đại học. Thông qua quan hệ tín dụng, tài chính có thể huy động các nguồn tiền tạm thời nhàn rỗi để đầu tư cho giáo dục trong việc nâng cấp trang thiết bị, đầu tư cho đội ngũ giáo viên và cho học sinh vay để tiếp tục sự nghiệp giáo dục. Trong số các nguồn lực tài chính đầu tư cho giáo dục đào tạo thì chi từ NSNN là quan trọng, đóng vai trò chủ đạo trong việc nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục bởi:
- Thứ nhất: Trong hệ thống tài chính nước ta thì tài chính Nhà nước chiếm một tỷ trọng lớn. Mà trong tài chính Nhà nước bao gồm NSNN và tín dụng Nhà nước thì NSNN có tỷ trọng lớn nhất. NSNN đảm bảo nhu cầu tiêu dùng xã hội theo chủ trương đường lối của Đảng và Nhà nước, trong đó nhu cầu giáo dục đào tạo đứng hàng đầu. Mặt khác, giáo dục đào tạo là dịch vụ công cộng, tạo ra những ngoại ứng tích cực và có vai trò quyết định đến sự phát triển nguồn nhân lực - nhân tố quyết định sự phát triển kinh tế xã hội của một quốc gia. Đầu tư từ NSNN cho giáo dục nhằm đảm bảo điều kiện tài chính cần thiết để giải quyết vấn đề phát triển của hệ thống giáo dục quốc dân ở tầm vĩ mô như về phát triển rộng khắp mạng lưới các cơ sở giáo dục, xây dựng các cơ sở giáo dục trọng điểm quốc gia, điều chỉnh quy mô và cơ cấu, nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục. Bởi vậy, NSNN là nguồn tài chính cơ bản, to lớn nhất để duy trì và phát triển hệ thống giáo dục quốc dân theo đúng chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước.
- Thứ hai, chi NSNN có tác dụng hướng dẫn, huy động các nguồn vốn khác đầu tư cho giáo dục đào tạo vì giáo dục là dịch vụ công cộng, tạo ra những ngoại ứng tích cực và có vai trò quyết định đến sự phát triển nguồn nhân lực – nhân tố quyết định sự phát triển kinh tế xã hội của một quốc gia. Chi NSNN cho giáo dục như một cú huých ban đầu để khuyến khích nhân dân đóng góp xây dựng và sửa chữa trường lớp, thu hút các nguồn từ lao động sản xuất, từ hợp đồng NCKH của các trường, đóng góp của các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế nhằm thực hiện phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng chăm lo phát triển sự nghiệp giáo dục đào tạo”, đồng thời là nguồn chính để phát huy nguồn viện trợ và vay của nước ngoài để đầu tư cho giáo dục đào tạo. Lợi ích của việc đầu tư vào giáo dục đem lại không chỉ cho những người trực tiếp được hưởng giáo dục mà còn cho cả xã hội nói chung. Tuy nhiên, trong thực tế các cá nhân hầu như không tính đến tác động này trong việc lựa chọn quyết định có nên đầu tư vào giáo dục hay không. Trong một số trường hợp, họ có thể không biết đến tác động ngoại ứng tích cực của giáo dục. Trong trường hợp khác, họ biết tác động đó song thiếu sự khuyến khích và tạo điều kiện của Nhà nước để đi đến quyết định đầu tư. Như vậy, nếu không có chi từ NSNN để hỗ trợ và khuyến khích thì mức đầu tư của tư nhân cho sự phát triển giáo dục sẽ thấp hơn khả năng sẵn có.
- Thứ ba, NSNN chi cho giáo dục đào tạo sẽ đảm bảo từng bước ổn định đời sống của đội ngũ cán bộ giảng dạy. Tuy đời sống của giáo viên còn chưa cao nhưng NSNN đã đảm bảo tiền lương chính cho đội ngũ cán bộ giảng dạy toàn ngành. Ngoài ra còn dành một phần NSNN để ưu đãi riêng cho ngành giáo dục đào tạo như phụ cấp giảng dạy, phụ cấp thâm niên, phụ cấp trách nhiệm, phụ cấp dạy thêm giờ, thêm lớp…
- Thứ tư, NSNN có vai trò điều phối cơ cấu giáo dục toàn ngành. Thông qua định mức chi ngân sách giáo dục đào tạo hàng năm đã góp phần định hướng sắp xếp cơ cấu các cấp học, mạng lưới trường. Tập trung NSNN cho những chương trình mục tiêu quốc gia như chống mù chữ, phổ cập giáo dục, xây dựng hệ thống trường dân tộc nội trú, khuyến khích phát triển giáo dục ở vùng núi và dân tộc ít người, tăng cường cơ sở vật chất các trường học…
- Thứ năm, chi từ NSNN cho giáo dục nhằm đảm bảo công bằng xã hội trong giáo dục. Ở các quốc gia không phải mọi công dân đều có khả năng chi trả các khoản chi phí trực tiếp hay gián tiếp liên quan đến việc trực tiếp hưởng thụ giáo dục. Nếu giáo dục được cung cấp hoàn toàn theo cơ chế thị trường mà không có sự đầu tư từ NSNN thì bộ phận dân cư không có khả năng chi trả các khoản chi phí giáo dục sẽ không có cơ hội được học tập, từ đó dẫn đến mất công bằng xã hội trong giáo dục. Hơn nữa, công bằng xã hội trong giáo dục còn là điều kiện quan trọng để đạt đến công bằng xã hội nói chung.
- Thứ sáu, chi của Nhà nước cho giáo dục nhằm để khắc phục khiếm khuyết của thị trường vốn. Nghiên cứu kinh tế học giáo dục, các nhà kinh tế đều cho rằng, thị trường vốn cho việc đầu tư vào giáo dục là không hoàn hảo. Có nhiều rủi ro cho cả người vay và người cho vay khi đầu tư vào giáo dục. Hầu như không có cơ sở cho việc xác định khả năng chắc chắn có việc làm và có được mức thu nhập sau khi đã kết thúc khóa học để có thể trả được các khoản nợ vay cho việc học tập của các cá nhân. Do vậy, các chủ thể cho vay vốn không dễ dàng chấp nhận bỏ vốn để cho vay đầu tư vào việc học tập của các cá nhân. Khắc phục khiếm khuyết của thị trường vốn cần thiết phải có sự can thiệp và đầu tư của Nhà nước cho giáo dục.
1.1.2. Cơ chế quản lý chi ngân sách nhà nước cho giáo dục, đào tạo
1.1.2.1 Quan niệm về cơ chế quản lý chi ngân sách nhà nước cho giáo dục, đào tạo
- Khái niệm: Cơ chế là thuật ngữ chỉ phương thức hoạt động của một hệ thống, trong đó có sự tương tác giữa các bộ phận, các yếu tố cấu thành của hệ thống nhờ đó mà hệ thống có thể tồn tại, vận hành và phát triển.
Quản lý là yêu cầu tất yếu để đảm bảo sự hoạt động bình thường của mọi quá trình và hệ thống kinh tế - xã hội. Thực chất của quản lý là thiết lập và thực hiện hệ thống các phương pháp và biện pháp khác nhau, tác động một cách có ý thức tới đối tượng của quản lý nhằm đạt được kết quả nhất định.
Cơ chế quản lý được hiểu là hệ thống các hình thức, phương pháp, biện pháp tác động vào các hoạt động kinh tế theo hướng phù hợp với qui luật khách quan và thực tiễn khách quan để đạt được những mục tiêu đã định trước.
Mục tiêu của cơ chế quản lý chi ngân sách là nhằm tổ chức định hướng, điều chỉnh cơ chế tồn tại, vận động và phát triển của hoạt động chi ngân sách nhà nước nhằm phù hợp với các qui luật khách quan và thực tiễn khách quan của môi trường tự nhiên, kinh tế xã hội để đạt được mục tiêu. Những bất cập của cơ chế chi ngân sách hiện tại luôn đặt ra yêu cầu phải không ngừng hoàn thiện cơ chế quản lý chi ngân sách. Hoàn thiện cơ chế quản lý chi NS là hoàn thiện các các hình thức, phương pháp, biện pháp tác động có tính chủ quan của con người đến các cơ chế chi ngân sách nhằm điều chỉnh cơ chế tồn tại, vận động và phát triển của các hoạt động tài chính để đạt được kết quả đã đặt ra.
Như vậy, cơ chế quản lý chi ngân sách cho giáo dục là hệ thống bao gồm bộ máy quản lý cùng với các hình thức, phương pháp, biện pháp để tổ chức, điều chỉnh quá trình tạo lập và sử dụng các khoản chi ngân sách theo các chương trình, mục tiêu quốc gia về giáo dục trong từng thời kỳ.
Cơ chế quản lý chi ngân sách cho giáo dục có tác động đến quyết định phương thức tồn tại và vận động của các hoạt động tiễn chính trong quá trình thực hiện các hoạt động giáo dục đào tạo. Sự tác động đó diễn ra theo 2 hướng: tích tực và tiêu cực. Theo hướng tích cực có nghĩa là cơ chế quản lý chi ngân sách cho giáo dục là hợp lực của các hình thức, phương pháp, biện pháp có tác động cùng chiều, phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực trong quá trình thực hiện giáo dục và đào tạo, thúc đẩy nền giáo dục quốc dân phát triển cả về qui mô, hiệu quả chất lượng.
Theo hướng tiêu cực có nghĩa là cơ chế quản lý đó là hợp lực của các hình thức, phương thức, biện pháp có tác động ngược chiều nhau, cản trở lẫn nhau và nảy sinh các mặt tiêu cực trong quá trình thực hiện các hoạt động đào tạo, kìm hãm sự phát triển của nền giáo dục.
- Vai trò cơ chế quản lý ch