Nền kinh tế phát triển càng ngày càng năng động hơn, đây là tính tất yếu của xu thế toàn cầu hoá, khu vực hoá và hiện đang phát triển mạnh mẽ, tác động đến toàn bộ lĩnh vực của đời sống xã hội. Đối với doanh nghiệp sản xuất sản phẩm hay kinh doanh dịch vụ thì giá thành luôn là yếu tố rất quan trọng để doanh nghiệp có thể tái sản xuất và tìm kiếm lợi nhuận. Chi phí và giá thành chính là thước đo mức chi phí tiêu hao phải bù đắp sau mỗi chu kì sản xuất kinh doanh. Vì trước khi quyết định lựa chọn sản xuất bất kì sản phẩm nào thì bản thân doanh nghiệp phải nắm bắt được nhu cầu thị trường, giá cả thị trường và điều tất yếu phải xác định đúng đắn mức chi phí sản xuất, tiêu hao sản phẩm mà doanh nghiệp phải đầu tư. Mặt khác giá thành còn là công cụ quan trọng để doanh nghiệp có thể kiểm soát tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh, xem xét hiệu quả của các biện pháp tổ chức kĩ thuật. Có thể nói chi phí và giá thành là tấm gương phản chiếu toàn bộ biện pháp, tổ chức quản lý kinh tế, liên quan đến tất cả các yếu tố chi phí trong sản xuất. Đảm bảo việc hạch toán chi phí và giá thành chính xác, kịp thời, phù hợp với đặc điểm hình thành và phát sinh chi phí ở từng doanh nghiệp là yêu cầu có tính xuyên suốt trong quá trình hạch toán. Do đó chi phí và giá thành với các chức năng vốn có của nó đã trở thành mục tiêu kinh tế có ý nghĩa quan trọng trong quản lý hiệu quả và chất lượng sản xuất kinh doanh. Điều này đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phải vận dụng các phương thức tổ chức, quản lý tổ chức kinh doanh sao cho có hiệu quả để hạ thấp giá thành sản phẩm, giúp doanh nghiệp có thể tự tin đứng vững trên thị trường trong điều kiện cạnh tranh khốc liệt như hiện nay.
Công ty Cổ phần Lilama 10 là công ty hoạt động nhiều năm trong lĩnh vực xây lắp. Đây là một ngành kinh tế kĩ thuật tổng hợp có vị trí hết sức quan trọng trong xây dựng và phát triển đất nước, là ngành sản xuất vật chất trang bị tài sản cố định, năng lực cho những ngành khác trong nền kinh tế quốc dân. Doanh nghiệp xây lắp là đơn vị kinh tế cơ sở, là nơi trực tiếp sản xuất kinh doanh, gồm một tập thể lao động nhất định có nhiệm vụ sử dụng các tư liệu lao động và đối tượng lao động để sản xuất ra các sản phẩm xây lắp phục vụ cho nhu cầu tái sản xuất của nền kinh tế. Đặc điểm nổi bật của ngành xây lắp là vốn đầu tư lớn, thời gian thi công dài nên phải tổ chức nghiệm thu và thanh toán theo từng phần khối lượng công trình chứ không chở đến khi công trình hoàn tất mới thanh toán như trong công nghiệp. Phần lớn số vốn của ngành xây lắp bỏ vào những công trình chưa hoàn thành. Vì vậy phải cố gắng tập trung tiền vốn để rút ngắn thời hạn thi công xây dựng. Những thông tin về chi phí và giá thành đóng một vai trò quan trọng, những thông tin này giúp cho các nhà quản trị phân tích, đánh giá chính xác được tình hình sử dụng vật tư, lao động, tiền vốn có hiệu quả, từ đó đề ra những biện pháp hạ giá thành nâng cao chất lượng sản phẩm.
83 trang |
Chia sẻ: dansaran | Lượt xem: 2385 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp trong Công ty Cổ phần Lilama 10, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu
Nền kinh tế phát triển càng ngày càng năng động hơn, đây là tính tất yếu của xu thế toàn cầu hoá, khu vực hoá và hiện đang phát triển mạnh mẽ, tác động đến toàn bộ lĩnh vực của đời sống xã hội. Đối với doanh nghiệp sản xuất sản phẩm hay kinh doanh dịch vụ thì giá thành luôn là yếu tố rất quan trọng để doanh nghiệp có thể tái sản xuất và tìm kiếm lợi nhuận. Chi phí và giá thành chính là thước đo mức chi phí tiêu hao phải bù đắp sau mỗi chu kì sản xuất kinh doanh. Vì trước khi quyết định lựa chọn sản xuất bất kì sản phẩm nào thì bản thân doanh nghiệp phải nắm bắt được nhu cầu thị trường, giá cả thị trường và điều tất yếu phải xác định đúng đắn mức chi phí sản xuất, tiêu hao sản phẩm mà doanh nghiệp phải đầu tư. Mặt khác giá thành còn là công cụ quan trọng để doanh nghiệp có thể kiểm soát tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh, xem xét hiệu quả của các biện pháp tổ chức kĩ thuật. Có thể nói chi phí và giá thành là tấm gương phản chiếu toàn bộ biện pháp, tổ chức quản lý kinh tế, liên quan đến tất cả các yếu tố chi phí trong sản xuất. Đảm bảo việc hạch toán chi phí và giá thành chính xác, kịp thời, phù hợp với đặc điểm hình thành và phát sinh chi phí ở từng doanh nghiệp là yêu cầu có tính xuyên suốt trong quá trình hạch toán. Do đó chi phí và giá thành với các chức năng vốn có của nó đã trở thành mục tiêu kinh tế có ý nghĩa quan trọng trong quản lý hiệu quả và chất lượng sản xuất kinh doanh. Điều này đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phải vận dụng các phương thức tổ chức, quản lý tổ chức kinh doanh sao cho có hiệu quả để hạ thấp giá thành sản phẩm, giúp doanh nghiệp có thể tự tin đứng vững trên thị trường trong điều kiện cạnh tranh khốc liệt như hiện nay.
Công ty Cổ phần Lilama 10 là công ty hoạt động nhiều năm trong lĩnh vực xây lắp. Đây là một ngành kinh tế kĩ thuật tổng hợp có vị trí hết sức quan trọng trong xây dựng và phát triển đất nước, là ngành sản xuất vật chất trang bị tài sản cố định, năng lực cho những ngành khác trong nền kinh tế quốc dân. Doanh nghiệp xây lắp là đơn vị kinh tế cơ sở, là nơi trực tiếp sản xuất kinh doanh, gồm một tập thể lao động nhất định có nhiệm vụ sử dụng các tư liệu lao động và đối tượng lao động để sản xuất ra các sản phẩm xây lắp phục vụ cho nhu cầu tái sản xuất của nền kinh tế. Đặc điểm nổi bật của ngành xây lắp là vốn đầu tư lớn, thời gian thi công dài nên phải tổ chức nghiệm thu và thanh toán theo từng phần khối lượng công trình chứ không chở đến khi công trình hoàn tất mới thanh toán như trong công nghiệp. Phần lớn số vốn của ngành xây lắp bỏ vào những công trình chưa hoàn thành. Vì vậy phải cố gắng tập trung tiền vốn để rút ngắn thời hạn thi công xây dựng. Những thông tin về chi phí và giá thành đóng một vai trò quan trọng, những thông tin này giúp cho các nhà quản trị phân tích, đánh giá chính xác được tình hình sử dụng vật tư, lao động, tiền vốn có hiệu quả, từ đó đề ra những biện pháp hạ giá thành nâng cao chất lượng sản phẩm.
Cùng với sự đổi mới trong chế độ kế toán của nhà nước, nhiều bước cải tiến đã được thực hiện trong công tác kế toán cho phù hợp với những thay đổi nhanh chóng của nền kinh tế, tuy nhiên còn nhiều hạn chế mà bộ phận kế toán của Công ty Cổ phẩn Lilama 10 còn chưa khắc phục kịp thời. Trải qua một khoảng thời gian không dài được học tập và thực tế tại công ty, với sự giúp đỡ của các cán bộ công nhân viên trong phòng kế toán, cũng như việc nhận thức được tầm quan trọng của công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong hoạt động của công ty, em đã chọn đề tài :’’ Hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp trong Công ty Cổ phần Lilama 10”.
PHẦN MỘT: LÝ LUẬN CHUNG VỀ KẾ TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH TRONG CÁC DOANH NGHIỆP XÂY LẮP
Đặc điểm của hoạt động xây lắp ảnh hưởng đến kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm
Xây dựng cơ bản là ngành sản xuất vật chất quan trọng mang tính chất công nghiệp nhằm tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền kinh tế quốc dân.
Một bộ phận lớn của thu nhập quốc dân, của quỹ tích lũy cùng với vốn đầu tư của nước ngoài được sử dụng trong lĩnh vực xây dựng cơ bản.So với các ngành sản xuất khác, ngành XDCB có những đặc điểm về kinh tế - kỹ thuật riêng biệt, thể hiện rất rõ nét ở sản phẩm xây lắp và quá trình tạo ra sản phẩm của ngành. Điều này đã chi phối đến công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong các doanh nghiệp xây lắp.
Sản phẩm xây lắp là những công trình xây dựng, vật kiến trúc... có quy mô lớn, kết cấu phức tạp mang tính đơn chiếc, thời gian sản xuất sản phẩm xây lắp lâu dài...Do đó, việc tổ chức quản lý và hạch toán sản phẩm xây lắp phải lập dự toán (dự toán thiết kế, dự toán thi công). Quá trình sản xuất xây lắp phải so sánh với dự toán, lấy dự toán làm thước đo, đồng thời để giảm bớt rủi ro phải mua bảo hiểm cho công trình xây lắp.
Sản phẩm xây lắp cố định tại nơi sản xuất còn các điều kiện sản xuất (xe máy, thiết bị thi công, người lao động...) phải di chuyển theo địa điểm đặt sản phẩm. Đặc điểm này làm cho công tác quản lý sử dụng, hạch toán tài sản, vật tư rất phức tạp do ảnh hưởng của điều kiện thiên nhiên, thời tiết và dễ mất mát hư hỏng...
Sản phẩm xây lắp từ khi khởi công cho đến khi hoàn thành công trình bàn giao đưa vào sử dụng thường kéo dài. Nó phụ thuộc vào quy mô, tính phức tạp về kỹ thuật của từng công trình. Quá trình thi công được chia thành nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn lại chia thành nhiều công việc khác nhau, các công việc thường diễn ra ngoài trời chịu tác động rất lớn của các nhân tố môi trường như nắng, mưa, lũ lụt...Đặc điểm này đòi hỏi việc tổ chức quản lý, giám sát chặt chẽ sao cho bảo đảm chất lượng công trình đúng như thiết kế, dự toán.
Sản phẩm xây lắp được tiêu thụ theo giá dự toán hoặc giá thỏa thuận với chủ đầu tư (giá đấu thầu), do đó tính chất hàng hóa của sản phẩm xây lắp không thể hiện rõ (vì đã quy định giá cả, người mua, người bán sản phẩm xây lắp có trước khi xây dựng thông qua hợp đồng giao nhận thầu).
Những đặc điểm trên đã ảnh hưởng rất lớn đến kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong các doanh nghiệp xây lắp. Công tác kế toán vừa phải đáp ứng yêu cầu chung về chức năng, nhiệm vụ kế toán của một doanh nghiệp sản xuất vừa phải đảm bảo phù hợp với đặc thù của loại hình doanh nghiệp xây lắp
Vai trò, nhiệm vụ của kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp xây lắp
Nền kinh tế thị trường hiện nay đang phát triển có sự điều tiết của nhà nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Thị trường là nơi diễn ra các hoạt động mua bán, trao đổi hàng hoá theo quy luật cung - cầu. Vì vậy doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển thì phải có chỗ đứng vững vàng trên thị trường, phải không ngừng chiếm lĩnh và mở rộng thị trường. Đối với các doanh nghiệp xây lắp, các công trình phải hoàn thành đúng thời hạn, chất lượng đảm bảo, giá thành hợp lý. Điều này đòi hỏi các doanh nghiệp phải chú trọng tốt công tác kế toán chi phí sản xuất và tính toán chính xác giá thành sản phẩm. Công tác kế toán này được chú trọng sẽ có ý nghĩa rất lớn đối với bản thân doanh nghiệp, với nhà nước và cả với các bên có liên quan.
Đối với doanh nghiệp, nếu làm tốt công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sẽ giúp doanh nghiệp nhận thức đúng đắn thực trạng của quá trình sản xuất, quản lý và cung cấp thông tin kịp thời chính xác cho các cán bộ quản lý để có biện pháp phù hợp nhằm tiết kiệm tối đa chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm và tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. Có như vậy doanh nghiệp mới tăng lợi thế cạnh tranh, đảm bảo sử dụng vốn có hiệu quả cũng như có sự chủ động về tài chính.
Đối với nhà nước công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm có ảnh hưởng trực tiếp đến thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập mà doanh nghiệp phải nộp cho nhà nước. Mặt khác với các doanh nghiệp mà nhà nước đầu tư vốn thì nhà nước cần quan tâm xem vấn đề sử dụng vốn như thế nào.
Công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm còn ảnh hưởng cả đến bên thứ ba, đó chính là ngân hàng, nhà đầu tư, khách hàng…để bản thân họ thực hiện các quyết định đầu tư phù hợp, có lợi cho bản thân.
Kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm còn có vai trò quan trọng trong doanh nghiệp xây lắp, xét trên góc độ quản lý. Thông qua chỉ tiêu giá thành doanh nghiệp có thể đánh giá được hiệu quả của quá trình sản xuất, chứng minh được khả năng phát triển và việc sử dụng các yếu tố vật chất đã thực sự hợp lý hay chưa. Ngoài ra nó còn cho biết chất lượng của sản phẩm cũng như trình độ tổ chưc sản xuất, các biện pháp kinh tế kĩ thuật mà doanh nghiệp đã thực hiện trong quá trình sản xuất kinh doanh của mình.
Theo quy định hiện hành trong xây dựng cơ bản hiện nay, chỉ áp dụng hình thức đấu thầu và chỉ định thầu, không áp dụng hình thức giao thầu. Vì vậy để trúng thầu xây dựng thi công một công trình thì phải xây dựng một giá thầu hợp lý cho công trình đó dựa trên định mức đơn giá xây dựng do nhà nước ban hành trên cơ sở giá thành của doanh nghiệp đồng thời phải đảm bảo kinh doanh có lãi. Muốn đạt được những điều trên, kế toán cần thực hiện tốt những nhiệm vụ sau:
Phàn ánh đầy đủ, chính xác, kịp thời toàn bộ chi phí sản xuất thực tế phát sinh
Kiểm tra tình hình thực hiện các định mức chi phí vật tư, lao động, sử dụng máy thi công và các chi phí khác phát sinh ngoài dự toán, các khoản thiệt hại, mất mát, hư hỏng.
Kiểm tra việc tính toán chi phí và giá thành cho từng hạng mục công trình, công trình, từng sản phẩm và lao vụ, vạch ra cac biện pháp hạ tổng giá thành một cách hợp lý.
Xác định đúng đắn công tác xây lắp đã hoàn thành, từ đó làm cơ sở bàn giao và thanh toán giá trị trong công việc đó. Định kì kiểm tra và đánh giá giá thành thi công dở dang theo nguyên tắc đã được quy định
Bản chất và nội dung kinh tế của kế toán chi phí và tính giá thành sản phẩm
Khái niệm và phân loại chi phí sản xuất
2.1.1. Khái niệm chi phí sản xuất
Chi phí sản xuất kinh doanh là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các hao phí về lao động sống và lao động vật hoá mà doanh nghiệp đã bỏ ra có liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh trong một thời kì nhất định
Theo kế toán tài chính, chi phí được nhận thức như những khoản phí tổn thực tế phát sinh gắn liền với hoạt động của doanh nghiệp để đạt được một sản phẩm, một dịch vụ, của cải nhất định.
Theo kế toán quản trị, chi phí có thể là dòng phí tổn thực tế gắn liền với hoạt động sản xuất hàng ngày khi tổ chức thực hiện, kiểm tra, ra quyết định, chi phí cũng có thể là dòng phí tổn ước tính để thực hiện dự án, những phí tổn mất đi do chọn lựa phương án, hy sinh cơ hội kinh doanh.
Trong kinh doanh, ngoài những chi phí có tính chất sản xuất còn có thể phát sinh những chi phí không có tính chất sản xuất. Để hiểu đúng khái niệm trên ta cần phân biệt giữa chi phí và chi tiêu của doanh nghiệp. Chi tiêu là sự chi ra, sự giảm đi thuần tuý của tài sản không kể các khoản đó đã dùng vào việc gì và dùng như thế nào. Như vậy, chi phí sản xuất chỉ được tính là chi phí của kỳ hạch toán những hao phí về tài sản và lao động có liên quan đến khối lượng sản phẩm sản xuất ra trong kỳ chứ không phải là mọi khoản chi ra trong kỳ hạch toán. Ngược lại, chi tiêu là sự giảm đi đơn thuần các loại vật tư tài sản, tiền vốn của doanh nghiệp, bất kể nó được dùng vào việc gì. Tổng số chi tiêu trong kỳ của doanh nghiệp gồm: Chi tiêu cho quá trình cung cấp ( chi mua sắm vật tư, hàng hoá…), chi tiêu cho quá trình sản xuất kinh doanh( chi cho sản xuất, chi cho chế tạo sản phẩm, cho công tác quản lý) và chi tiêu cho cho quá trình tiêu thụ sản phẩm( chi cho vận chuyển, bốc dỡ, chi cho quảng cáo…). Chi phí và chi tiêu là hai khái niệm khác nhau nhưng có quan hệ mật thiết với nhau, chi tiêu là cơ sở phát sinh chi phí, không có chi tiêu thì không có chi phí.
2.1.2. Phân loại chi phí sản xuất
Chi phí sản xuất kinh doanh có rất nhiều loại, nhiều khoản, khác nhau về nội dung, tính chất…trong quá trình kinh doanh. Xuất phát từ các mục đích và yêu cầu khác nhau của quản lý, chi phí sản xuất cũng được phân loại theo những tiêu thức khác nhau.
Xét về mặt lý luận và thực tiễn, có rất nhiều cách phân loại chi phí khác nhau như phân theo nội dung kinh tế, theo công dụng, theo vị trí, theo quan hệ của chi phí với quá trình sản xuất…Mỗi cách phân loại này đều đáp ứng ít nhiều cho mục đích quản lý, hạch toán, kiểm tra, kiểm soát chi phí phát sinh…ở các góc độ phát sinh. Vì thế các cách phân loại đều tồn tại, bổ sung cho nhau và giữ vai trò nhất định trong quản lý chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm.
2.1.2.1. Phân loại chi phí theo tính chất và nội dung của kinh tế (yếu tố)
Căn cứ để phân loại: căn cứ vào tính chất, nội dung của chi phí- không phân biệt chi phí thuộc chức năng kinh doanh nào.
Các loại chi phí: có 7 yếu tố chi phí như sau:
Yếu tố chi phí nguyên liệu, vật liệu: bao gồm toàn bộ giá trị nguyên liệu, vật liệu chính, vật liệu phụ, phụ tùng thay thế, công cụ, dụng cụ…sử dụng vào sản xuất- kinh doanh (loại trừ giá trị vật liệu dùng không hết nhập lại kho và phế liệu thu hồi).
Yếu tố chi phí nhiên liệu, động lực được sử dụng vào quá trình sản xuất- kinh doanh trong kì (trừ số dùng không hết nhập lại kho và phế liệu thu hồi).
Yếu tố chi phí tiền lương và các khoản phụ cấp lương: phản ánh tổng số tiền lương và phụ cấp mang tính chất lương phải trả cho toàn bộ công nhân, viên chức.
Yếu tố chi phí bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn: phản ánh phần bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn trích theo tỉ lệ quy định trên tổng số tiền lương và phụ cấp lương phải trả cho công nhân viên.
Yếu tố chi phí khấu hao tài sản cố định: phản ánh tổng số khấu hao tài sản cố định phải trích trong kì của tất cả tài sản cố định sử dụng cho sản xuất kinh doanh trong kì.
Yếu tố chi phí dịch vụ kinh doanh mua ngoài: phản ánh toàn bộ chi phí mua ngoài dùng vào sản xuất kinh doanh.
Yếu tố chi phí khác bằng tiền: phản ánh toàn bộ chi phí khác bằng tiền chưa phản ánh ở các yếu tố trên dùng vào hoạt động sản xuất kinh doanh trong kì.
Phân loại chi phí sản xuất theo yếu tố có tác dụng cho biết nội dung, kết cấu, tỷ trọng từng loại chi phí đã sử dụng vào quá trình sản xuất trong tổng chi phí sản xuất của doanh nghiệp. Số liệu chi phí sản xuất theo yếu tố là cơ sở để xây dựng các dự toán chi phí, xác định nhu cầu về vốn, xây dựng các kế hoạch về lao động, vật tư, tài sản…trong doanh nghiệp. Nó còn là cơ sở để phân tích tình hình thực hiện dự toán chi phí sản xuất, cung cấp số liệu lập thuyết minh BCTC ( phần sản xuất kinh doanh theo yếu tố ) từ đó để tính và tổng hợp thu nhập quốc dân.
2.1.2.2. Phân loại chi phí theo khoản mục
Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp : giá trị nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ, nhiên liệu…dùng trực tiếp cho thi công xây lắp như: gỗ, gạch, đá,đinh, kẽm, than, củi, dầu lửa, bê tông đúc sẵn, thiết bị vệ sinh, thiết bị thông gió, chiếu sáng, truyền dẫn…
Chi phí nhân công trực tiếp: tiền lương, phụ cấp, khoản phải trả khác cho công nhân trực tiếp thi công. Chi phí nhân công trực tiếp không bao gồm khoản trích bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn của công nhân trực tiếp xây lắp.
Chi phí sử dụng máy thi công: chi phí liên quan đến hoạt động của máy thi công- nhiên liệu, tiền lương, phụ cấp của công nhân điều khiển máy, khấu hao, bảo dưỡng, sửa chữa…Chi phí sử dụng máy thi công không bao gồm khoản trích bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn của công nhân điều khiển và phục vụ máy thi công.
Chi phí sản xuất chung: chi phí tổ chức phục vụ xây lắp phát sinh trong phạm vi công trường xây dựng, như tiền lương nhân viên quản lý dựng, công cụ dụng cụ thi công, chi phí lán trại tạm thời, điện nước, điện thoại, tài liệu kĩ thuật, khoản trích bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn của công nhân trực tiếp xây lắp, công nhân điều khiển và phục vụ máy thi công và nhân viên quản lý xây dựng.
Cách phân loại chi phí sản xuất này có ý nghĩa rất lớn trong việc xác định địa điểm sử dụng chi phí, công dụng của từng khoản mục chi phí và mức phân bổ từng khoản chi phí đó giúp cho việc xác định chỉ tiêu giá thành được nhanh chóng và kịp thời.
2.1.2.3. Phân loại chi phí theo mối quan hệ giữa chi phí với mức độ hoạt động
Để thuận lợi cho việc lập kế hoạch và kiểm tra chi phí đồng thời làm căn cứ ra quyết định kinh doanh, toàn bộ chi phí sản xuất được phân loại theo mối quan hệ với công việc hoàn thành. Việc phân loại này có tác dụng cung cấp thông tin để hoạch định và kiểm soát chi phí, nghiên cứu mối quan hệ chi phí- khối lượng- lợi nhuận, phân tích điểm hoà vốn để ra quyết định kinh doanh; cung cấp thông tin để kiểm soát hiệu quả hoạt động kinh doanh theo dạnh số dư đảm phí (kế toán quản trị).
Biến phí: là những chi phí thay đổi tỷ lệ với mức độ hoạt động của doanh nghiệp. Xét về tổng số, biến phí thay đổi tỷ lệ thuận với khối lượng hoạt động. Còn xét trên một khối lượng hoạt động thì biến phí thường là hằng số đối với mọi mức hoạt động. Trong doanh nghiệp xây lắp, biến phí gồm: chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sử dụng máy thi công.
Định phí: là những chi phí mà về tổng số không thay đổi khi có sự thay đổi mức độ hoạt động của đơn vị. Về tổng số thì chi phí cố định không thay đổi, nhưng ngược lại nếu xét trên một đơn vị khối lượng hoạt động thì nó tỷ lệ nghịch với mức độ hoạt động
Chi phí hỗn hợp: là loại chi phí mà bản thân nó gồm cả các yếu tố của biến phí và định phí. Xét ở mức độ hoạt động căn bản chi phí hỗn hợp thường thể hiện các đặc điểm của định phí, còn ở mức độ vượt quá mức căn bản thì nó thể hiện đặc điểm của biến phí
2.1.2.4. Phân loại chi phí theo khả năng quy nạp
Chi phí trực tiếp: là những chi phí liên quan trực tiếp đến từng đối tượng kế toán tập hợp chi phí như một loại sản phẩm, một hoạt động hay một địa điểm nhất định và có thể hạch toán trực tiếp cho sản phẩm, công việc đó.
Chi phí gián tiếp: là các chi phí có liên quan đến nhiều đối tượng kế toán tập hợp chi phí, không thể quy nạp trực tiếp cho từng đối tượng kế toán chi phí được, mà phải tập hợp theo từng nơi phát sinh chi phí, sau đó quy nạp cho từng đối tượng ( sản phẩm, hoạt động hay một địa điểm nhất định) theo phương pháp phân bổ gián tiếp.
Ngoài các cách phân loại ở trên thì còn rất nhiều các cách phân loại chi phí sản xuất khác như: chi phí ban đầu và chi phí chuyển đổi, chi phí cơ bản và chi phí chung, chi phí năm trước và chi phí năm nay.
2.2. Khái niệm và phân loại giá thành sản phẩm
2.2.1. Khái niệm giá thành sản phẩm
Giá thành sản phẩm là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các khoản hao phí về lao động sống và lao động vật hoá có liên quan đến khối lượng công tác, sản phẩm, lao vụ đã hoàn thành. Giá thành sản phẩm xây lắp là toàn bộ chi phí bằng tiền để hoàn thành khối lượng xây lắp theo quy định
Tất cả những khoản chi phí (bao gồm phát sinh trong kì, kì trước chuyển sang) và các chi phí trích trước có liên quan đến khối lượng sản phẩm, lao vụ, dịch vụ đã hoàn thành trong kì sẽ tạo nên chỉ tiêu giá thành sản phẩm. Nói cách khác, giá thành sản phẩm là biểu hiện bằng tiền toàn bộ các khoản chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra bất kể ở kì nào nhưng có liên quan đến khối lượng công việc, sản phẩm đã hoàn thành trong kì.
2.2.2. Phân loại giá thành sản phẩm
Do những nét đặc thù riêng của ngành xây lắp nên việc phân loại giá thành sản phẩm xây lắp cũng có những loại giá thành khác nhau như sau:
2.2.2.1. Giá thành dự toán công trình xây lắp
Là tổng số chi phí dự toán để hoàn thành khối lượng xây lắp công trình.Sản phẩm xây lắp của ngành xây dựng cơ bản thường có giá trị lớn, thời gian thi công dài, mang tính đơn chiếc, kết cấu phức tạp, quy mô lớn. Đồng thời việc đầu tư xây dựng mỗi công trình đều có liên quan đến vốn đầu tư cho công trình đó. Vì vậy, mỗi giai đoạn thiết kế có một dự toán tương ứng chính xác và cụ thể phù hợp với nội dung của từng giai đoạn đó. Giá thành dự toán được áp dụng theo định mức và khung giá quy định áp dụng cho từng vùng lãnh thổ. Giá thành dự toán nhỏ hơn giá trị dự toán công trình ở phần thu nhập chịu thuế tính trước v