Hoàn thiện nội dung phân tích tài chính doanh nghiệp trong hoạt động cho vay của Ngân hàng Kỹ thương chi nhánh Hà Nội – Techcombank chi nhánh Hà Nội

Xu thế toàn cầu hóa đã và đang tác động ngày một sâu sắc tới tất cả các nền kinh tế trên thế giới, các quốc gia muốn phát triển không thể không tham gia vào quá trình hội nhập. Ngành ngân hàng tài chính là một trong những ngành kinh tế trụ cột của quốc gia cũng có rất nhiều điều chỉnh để phù hợp với yêu cầu theo sự thay đổi của nền kinh tế. Thực hiện mở cửa ngành ngân hàng đồng nghĩa chúng ta sẽ chấp nhận những cạnh tranh ngày một gay gắt hơn giữa các ngân hàng trong nước và ngân hàng nước ngoài, cạnh tranh giữa ngân hàng thương mại cổ phần và ngân hàng thương mại quốc doanh. Chính cạnh tranh buộc các ngân hàng phải thực hiện đa dạng hóa các khách hàng, đa dạng hóa các loại hình dịch vụ, cung cấp, nâng cao chất lượng các dịch vụ … Khách hàng của các ngân hàng thương mại chủ yếu là các cá nhân, doanh nghiệp, các tổ chức của nền kinh tế. Trong xu thế hiện nay, đối tượng khách hàng đầy tiềm năng của các ngân hàng đó chính là các doanh nghiệp, ngân hàng thực hiện càng nghiệp vụ như cho vay, bảo lãnh, cầm cố, thế chấp … đối với các khách hàng là doanh nghiệp. Để thực hiện các nghiệp vụ đó, ngân hàng phải tiến hành phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp, để đảm bảo khả năng thu hồi vốn, đảm bảo tính khả thi của các dự án, tính khả thi của những công việc mà doanh nghiệp tiến hành làm. Ngân hàng Thương mại Cổ phần Kỹ thương Việt Nam là một trong những ngân hàng thương mại lớn, với phương tiện thiết bị hiện đại, đã thu được rất nhiều thành tựu trong 17 năm hoạt động vừa qua. Trong quá trình thực tập, nghiên cứu tại ngân hàng Thương mại Cổ phần Kỹ thương Việt Nam – chi nhánh Hà Nội (Techcombank – chi nhánh Hà Nội), em thấy hoạt động phân tích tài chính doanh nghiệp trong hoạt động cho vay của ngân hàng chưa thực sự hiệu quả, chính điều này đã làm giảm tính nhanh nhạy trong hoạt động của ngân hàng, gây khó khăn trong việc hợp tác với khách hàng, đặc biệt là khách hàng doanh nghiệp, một đối tượng khách hàng đầy tiềm năng hiện nay. Chính vì vậy, tôi quyết định chọn đề tài cho chuyên đề thực tập là: “Hoàn thiện nội dung phân tích tài chính doanh nghiệp trong hoạt động cho vay của Ngân hàng Kỹ thương chi nhánh Hà Nội – Techcombank chi nhánh Hà Nội”. Chuyên đề thực tập chia làm ba phần: Chương 1: Phân tích tài chính doanh nghiệp trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại Chương 2: Thực trạng nội dung phân tích tài chính doanh nghiệp trong hoạt động cho vay của Techcombank – chi nhánh Hà Nội Chương 3: Giải pháp hoàn thiện nội dung phân tích tài chính doanh nghiệp trong hoạt động cho vay tại Techcombank – chi nhánh Hà Nội

doc78 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 3276 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Hoàn thiện nội dung phân tích tài chính doanh nghiệp trong hoạt động cho vay của Ngân hàng Kỹ thương chi nhánh Hà Nội – Techcombank chi nhánh Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Xu thế toàn cầu hóa đã và đang tác động ngày một sâu sắc tới tất cả các nền kinh tế trên thế giới, các quốc gia muốn phát triển không thể không tham gia vào quá trình hội nhập. Ngành ngân hàng tài chính là một trong những ngành kinh tế trụ cột của quốc gia cũng có rất nhiều điều chỉnh để phù hợp với yêu cầu theo sự thay đổi của nền kinh tế. Thực hiện mở cửa ngành ngân hàng đồng nghĩa chúng ta sẽ chấp nhận những cạnh tranh ngày một gay gắt hơn giữa các ngân hàng trong nước và ngân hàng nước ngoài, cạnh tranh giữa ngân hàng thương mại cổ phần và ngân hàng thương mại quốc doanh. Chính cạnh tranh buộc các ngân hàng phải thực hiện đa dạng hóa các khách hàng, đa dạng hóa các loại hình dịch vụ, cung cấp, nâng cao chất lượng các dịch vụ … Khách hàng của các ngân hàng thương mại chủ yếu là các cá nhân, doanh nghiệp, các tổ chức của nền kinh tế. Trong xu thế hiện nay, đối tượng khách hàng đầy tiềm năng của các ngân hàng đó chính là các doanh nghiệp, ngân hàng thực hiện càng nghiệp vụ như cho vay, bảo lãnh, cầm cố, thế chấp … đối với các khách hàng là doanh nghiệp. Để thực hiện các nghiệp vụ đó, ngân hàng phải tiến hành phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp, để đảm bảo khả năng thu hồi vốn, đảm bảo tính khả thi của các dự án, tính khả thi của những công việc mà doanh nghiệp tiến hành làm. Ngân hàng Thương mại Cổ phần Kỹ thương Việt Nam là một trong những ngân hàng thương mại lớn, với phương tiện thiết bị hiện đại, đã thu được rất nhiều thành tựu trong 17 năm hoạt động vừa qua. Trong quá trình thực tập, nghiên cứu tại ngân hàng Thương mại Cổ phần Kỹ thương Việt Nam – chi nhánh Hà Nội (Techcombank – chi nhánh Hà Nội), em thấy hoạt động phân tích tài chính doanh nghiệp trong hoạt động cho vay của ngân hàng chưa thực sự hiệu quả, chính điều này đã làm giảm tính nhanh nhạy trong hoạt động của ngân hàng, gây khó khăn trong việc hợp tác với khách hàng, đặc biệt là khách hàng doanh nghiệp, một đối tượng khách hàng đầy tiềm năng hiện nay. Chính vì vậy, tôi quyết định chọn đề tài cho chuyên đề thực tập là: “Hoàn thiện nội dung phân tích tài chính doanh nghiệp trong hoạt động cho vay của Ngân hàng Kỹ thương chi nhánh Hà Nội – Techcombank chi nhánh Hà Nội”. Chuyên đề thực tập chia làm ba phần: Chương 1: Phân tích tài chính doanh nghiệp trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại Chương 2: Thực trạng nội dung phân tích tài chính doanh nghiệp trong hoạt động cho vay của Techcombank – chi nhánh Hà Nội Chương 3: Giải pháp hoàn thiện nội dung phân tích tài chính doanh nghiệp trong hoạt động cho vay tại Techcombank – chi nhánh Hà Nội CHƯƠNG 1: PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại Hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại Khái niệm và đặc trưng Ngân hàng là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế. Ngân hàng gồm nhiều loại tùy thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế nói chung và hệ thống tài chính nói riêng, trong đó ngân hàng thương mại thường chiếm tỷ trọng lớn nhất về quy mô tài sản, thị phần và số lượng các ngân hàng. Có nhiều cách định nghĩa khác nhau về ngân hàng nhưng cách tiếp cận thận trọng nhất là xem xét ngân hàng trên phương diện các loại hình dịch vụ mà ngân hàng đang cung cấp. Theo đó: “Ngân hàng là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất – đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế”. Còn có định nghĩa dựa trên các hoạt động chủ yếu của ngân hàng, như định nghĩa theo Luật các Tổ chức tín dụng của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam: “Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động của ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng phát triển, ngân hàng đầu tư, ngân hàng chính sách và các loại hình ngân hàng khác”. “Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán”. Ngân hàng thương mại là doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ, có những đặc thù riêng trong hoạt động kinh tế - tài chính. Cũng giống như các doanh nghiệp phi tài chính, các ngân hàng thương mại luôn phải đối đầu với những thách thức của thị trường cạnh tranh và đầy biến động. Hơn nữa, kinh doanh tiền tệ là loại hình kinh doanh đặc biệt, có liên quan đến hầu hết các lĩnh vực khác trong nền kinh tế. Ngân hàng thương mại có đặc điểm giống như các doanh nghiệp khác trong nền kinh tế, cũng sử dụng các yếu tố sản xuất như lao động, tư liệu lao động, đối tượng lao động (tiền vốn) làm yếu tố đầu vào, để sản xuất ra những yếu tố đầu ra dưới hình thức dịch vụ tài chính mà khách hàng yêu cầu. Tuy nhiên, khác với các doanh nghiệp khác, ngân hàng thương mại là loại hình doanh nghiệp đặc biệt, trong hoạt động kinh doanh thể hiện qua các đặc trưng cơ bản sau: Vốn và tiền vừa là phương tiện, vừa là mục đích kinh doanh nhưng đồng thời cũng là đối tựơng kinh doanh của ngân hàng thương mại. Và chính đặc điểm này sẽ bao trùm hơn và rộng hơn so với các loại hình doanh nghiệp khác. Ngân hàng thương mại kinh doanh chủ yếu bằng vốn của người khác. Vốn tự có của ngân hàng chiếm một tỷ lệ rất thấp trong tổng nguồn vốn hoạt động, nên việc kinh doanh luôn gắn liền với một rủi ro mà ngân hàng buộc phải chấp nhận với một mức độ mạo hiểm nhất định. Bởi vì trong hoạt động kinh doanh hằng ngày của mình, ngân hàng thương mại không những phải bảo đảm nhu cầu thanh toán, chi trả như mọi khi loại hình doanh nghiệp khác, mà còn phải đảm bảo tốt nhu cầu chi trả tiền gửi của khách hàng. Từ đó cho thấy, việc phân tích khả năng thanh khoản của ngân hàng có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại có liên quan đến nhiều mặt, nhiều lĩnh vực hoạt động và nhiều đối tượng khách hàng khác nhau, là hoạt động chứa nhiều rủi ro, bởi lẽ nó tổng hợp tất cả các rủi ro của khách hàng, đồng thời rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngân hàng có thể gây ảnh hưởng lớn cho nền kinh tế hơn bất kỳ rủi ro của loại hình doanh nghiệp nào vì tính chất lây lan có thể làm rung chuyển toàn bộ hệ thống kinh tế. Hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại có những đặc thù riêng mả các doanh nghiệp trong các ngành khác không có. Đồng thời, diễn tiến liên tục trong mỗi loại hình nghiệp vụ và các sản phẩm của ngân hàng thương mại có mối liên hệ với nhau rất chặt chẽ. Điều này sẽ gây khó khăn trong việc tách riêng từng mặt hoạt động của ngân hàng để phân tích kết quả tài chính. Hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại Hoạt động huy động vốn Một ngân hàng bao giờ cũng bắt đầu hoạt động của mình bằng việc huy động vốn. Đối tượng huy động vốn của ngân hàng là tất cả các nguồn tiền nhàn rỗi trong dân cư, các khoản tiền gửi (thanh toán và tiết kiệm của khách hàng) là một trong những nguồn quan trọng. Các ngân hàng đã trả lãi cho tiền gửi như là phần thưởng cho khách hàng về việc sẵn sàng hi sinh nhu cầu tiêu dùng trước mắt và cho phép ngân hàng sử dụng tạm thời để kinh doanh. Tiền gửi là nguồn quan trọng nhất của ngân hàng thương mại, tuy nhiên,khi cần các ngân hàng thường vay mượn từ nhiều nguồn khác nhau như: vay từ ngân hàng nhà nước nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách trong chi trả, hoặc vay từ các tổ chức tín dụng khác, các ngân hàng có thể vay mượn lẫn nhau hoặc vay của các tổ chức tín dụng khác trên thị trường liên ngân hàng. Các ngân hàng đang có dự trữ vượt yêu cầu do có kết dư gia tăng bất ngờ về khoản tiền huy động hoặc giảm cho vay sẽ có thể sẵn sàng cho các ngân hàng khác vay để tìm kiếm lãi suất cao hơn. Giống như các doanh nghiệp khác, các ngân hàng cũng vay mượn bằng cách phát hành các giấy nợ như kỳ phiếu, tín phiếu, trái phiếu trên thị trường vốn. Khả năng vay mượn còn phụ thuộc vào trình độ phát triển của thị trường tài chính, tạo khả năng chuyển đổi cho các công cụ nợ dài hạn của ngân hàng, nghiệp vụ tương đối phức tạp. Ngân hàng cần nghiên cứu kỹ thị trường để quyết định quy mô, mệnh giá, lãi suất và thời hạn vay mượn thích hợp. Từ các biện pháp huy động vốn như trên, các ngân hàng phải có biện pháp sử dụng vốn cho phù hợp, đảm bảo khả năng hoạt động được suôn sẻ, tạo niềm tin cho khách hàng. Hoạt động sử dụng vốn Việc sử dụng vốn chính là quá trình tạo nên các loại tài sản khác nhau của ngân hàng thương mại, trong đó tín dụng, ngân quỹ và đầu tư là ba lại tài sản lớn và quan trọng. Hoạt động tín dụng Theo Luật các Tổ chức tín dụng của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, hoạt động tín dụng bao gồm cho vay, cho thuê tài chính, chiết khấu, bảo lãnh và một số hoạt động khác do Ngân hàng Nhà nước quy định. Ngân hàng sử dụng vốn của mình để thực hiện các hoạt động như cho vay, chiết khấu, bảo lãnh … nhằm thu một số lợi nhuận về cho ngân hàng bằng việc thu lãi cho các hoạt động đó, việc thu lãi phụ thuộc vào quy mô, thời gian và lãi suất. Do đó, để tăng quy mô tín dụng các ngân hàng đã sử dụng các biện pháp như mở rộng mạng lưới, đa dạng hóa các loại hình tín dụng, phát triển công nghệ mới nhằm gia tăng tiện ích cho khách hàng, giảm lãi suất hoặc cung cấp các điều kiện ưu đãi … Bên cạnh đó, các ngân hàng cũng có những giải pháp nhằm ngăn ngừa rủi ro tín dụng, rủi ro xảy ra có thể làm giảm thu nhập dự tính và có thể gây thua lỗ hoặc phá sản cho ngân hàng. Hoạt động ngân quỹ Ngân quỹ bao gồm tiền mặt trong két và tiền gửi tại các ngân hàng khác. Tiền mặt gồm nội tệ và ngoại tệ, dùng để chi trả nhanh chóng, tuy nhiên, tiền mặt không sinh lời và việc bảo quản tương đối khó khăn vì phải đối mặt với các đối tượng trộm cướp, làm tiền giả … Tiền gửi tại ngân hàng khác gồm tiền gửi tại ngân hàng nhà nước, tại các ngân hàng và tổ chức tín dụng khác, mục đích là để thực hiện dự trữ bắt buộc. Mức dự trữ bắt buộc phải duy trì dưới mức tiền gửi tại ngân hàng trung ương. Bên cạnh đó, ngân hàng thương mại nắm giữ các loại tiền gửi này còn vì mục tiêu thanh toán tiện lợi: các khoản thanh toán giữa các ngân hàng được thanh toán qua ngân hàng nhà nước hoặc qua ngân hàng đại lý. Ngân hàng với vai trò thủ quỹ cho nền kinh tế, có trách nhiệm chi trả kịp thời mọi nhu cầu của người gửi tiền dưới hình thức chuyển khoản và cả bằng tiền mặt. Do vậy, ngân hàng luôn phải dữ một lượng ngân quỹ phù hợp để chi trả khi có yêu cầu. Hoạt động đầu tư Ngân hàng thực hiện các hoạt động đầu tư nhằm tăng thu nhập cho ngân hàng, tăng ngân quỹ và tạo một nguồn lực tài chính mạnh, đảm bảo khả năng thanh khoản cho ngân hàng, các hoạt động đầu tư chủ yếu gồm: Cung cấp dịch vụ ủy thác và tư vấn: ngân hàng sẵn sàng tư vấn về đầu tư, quản lý tài chính, về thành lập, mua bán và sát nhập doanh nghiệp. Cung cấp dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán: cung cấp cho khách hàng cơ hội mua cổ phiếu, trái phiếu và các chứng khoán khác mà không phải nhờ đến người kinh doanh chứng khoán. Trong một vài trường hợp, ngân hàng tổ chức ra công ty chứng khoán hoặc công ty môi giới chứng khoán. Cung cấp các dịch vụ bảo hiểm: đảm bảo việc hoàn trả của ngân hàng cho khách hàng trong trường hợp khách hàng bị chết, bị tàn phế hay gặp rủi ro trong hoạt động, mất khả năng thanh toán. Cung cấp các dịch vụ đại lý: nhiều ngân hàng trong quá trình hoạt động không thể thiết lập chi nhánh hoặc văn phòng ở khắp mọi nơi. Nhiều ngân hàng cung cấp dịch vụ ngân hàng đại lý cho các ngân hàng khác như thanh toán hộ, phát hành các chứng chỉ tiền gửi, làm ngân hàng đầu mối trong đồng tài trợ. Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại Khái niệm hoạt động cho vay Ngân hàng là tổ chức tài chính quan trọng của nền kinh tế, thực hiện chức năng trung gian tài chính, tạo phương tiện thanh toán và là trung gian thanh toán trong nền kinh tế. Ngân hàng là trung gian tài chính với hoạt động chủ yếu là chuyển tiết kiệm thành đầu tư. Để thực hiện được vai trò này, ngân hàng phải huy động vốn và cho vay. Cho vay là hoạt động mang lại mức sinh lời cao nhất trong cơ cấu tài sản của ngân hàng, là một quan hệ kinh tế, trong đó người cho vay chuyển giao quyền sử dụng một khoản tiền trong thời gian nhất định cho người đi vay với cam kết khi đến hạn trả nợ, người đi vay có nghĩa vụ trả cho người cho vay cả vốn gốc và tiền lãi. Theo đó, hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại là hoạt động phải đảm bảo các nguyên tắc nhất định nhằm mục tiêu tính an toàn và mục tiêu sinh lợi. Các nguyên tắc bao gồm: Thứ nhất, khách hàng phải cam kết trả gốc và lãi với thời gian xác định. Thứ hai, khách hàng phải cam kết sử dụng đúng mục đích đã thỏa thuận với ngân hàng. Thứ ba, ngân hàng tài trợ dựa trên phương án có hiệu quả. Để đảm bảo được các nguyên tắc trên, giữ được mục tiêu an toàn và sinh lợi, các ngân hàng tiến hành phân loại cho vay, Phân loại cho vay Việc cho vay của ngân hàng có thể được phân chia dựa trên nhiều tiêu thức khác nhau: Theo tiêu thức thời gian được chia thành cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn Theo hình thức tài trợ được chia thành cho vay, bảo lãnh, cho thuê, chiết khấu thương phiếu … Theo đối tượng khách hàng được chia thành cho vay nhà nước, tổ chức tín dụng, doanh nghiệp, hộ gia đình, cá nhân … Ngoài ra, có thể phân chia theo các tiêu thức khác như theo ngành kinh tế, theo rủi ro, theo tài sản đảm bảo … Nếu phân chia theo nghiệp vụ tín dụng thì có các loại cho vay sau: Thấu chi Thấu chi là nghiệp vụ cho vay qua đó ngân hàng cho phép người vay được chi trội trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến giới hạn nhất định và trong khoảng thời gian xác định. Giới hạn này được gọi là hạn mức thấu chi. Để được thấu chi khách hàng phải làm đơn xin ngân hàng hạn mức thấu chi và thời gian thấu chi. Trong quá trình hoạt động, khách hàng có thể ký séc, lập ủy nhiệm chi … vượt quá số dư tiền gửi để chi trả. Khi khách hàng có tiền nhập về tài khoản tiền gửi ngân hàng sẽ thu nợ gốc và lãi. Số lãi mà ngân hàng phải trả: Lãi suất thấu chi × thời gian thấu chi × số tiền thấu chi Thấu chi là hình thức tín dụng ngắn hạn, linh hoạt, thủ tục đơn giản … vì vậy chỉ sử dụng đối với khách hàng có độ tin cậy cao, thu nhập đều đặn và kỳ thu nhập ngắn. Cho vay trực tiếp từng lần Là hình thức cho vay tương đối phổ biến của ngân hàng đối với khách hàng không có nhu cầu vay thường xuyên, không có điều kiện để cấp hạn mức thấu chi. Theo từng kỳ hạn nợ của hợp đồng, ngân hàng sẽ thu gốc và lãi. Trong quá trình khách hàng sử dụng tiền vay, ngân hàng sẽ kiểm soát mục đích và hiệu quả, nếu thấy có dấu hiệu vi phạm hợp đồng ngân hàng sẽ thu nợ trước hạn hoặc chuyển nợ quá hạn. Nói chung, nghiệp vụ cho vay trực tiếp từng lần tương đối đơn giản, ngân hàng có thể kiểm soát từng món vay cách biệt. Cho vay theo hạn mức Đây là nghiệp vụ tín dụng theo đó ngân hàng thỏa thuận cấp cho khách hàng hạn mức tín dụng. Đây là hình thức cho vay thuận tiện cho những khách hàng vay mượn thường xuyên, vốn vay tham gia thường xuyên vào quá trình sản xuất kinh doanh. Trong nghiệp vụ này, ngân hàng không xác định trước kỳ hạn nợ, do đó tạo chủ động quản lý ngân quỹ cho khách hàng. Tuy nhiên, do các lần vay không tách biệt thành các kỳ hạn nợ cụ thể nên ngân hàng khó kiểm soát hiệu quả sử dụng từng lần vay. Ngân hàng chỉ có thể phát hiện vấn đề khi khách hàng nộp báo cáo tài chính hoặc dư nợ lâu không giảm sút. Cho vay luân chuyển Là nghiệp vụ cho vay dựa trên luân chuyển hàng hóa, doanh nghiệp khi mua hàng thiếu vốn, ngân hàng có thể cho vay mua hàng và sẽ thu nợ khi bán hàng. Khi vay khách hàng chỉ cần gửi đến ngân hàng các chứng từ hóa đơn nhập hàng và số tiền cần vay, các khoản phải thu và cả hàng hóa trong kho trở thành vật bảo đảm cho khoản cho vay. Cho vay luân chuyển rất thuận tiện cho khách hàng, thủ tục chỉ cần thực hiện một lần cho nhiều lần vay. Khách hàng được đáp ứng nhu cầu vốn kịp thời, vì vậy, việc thanh toán cho người cung cấp sẽ nhanh gọn. Cho vay trả góp Cho vay trả góp là hình thức tín dụng theo đó ngân hàng cho phép khách hàng trả gốc làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã thỏa thuận, thường được áp dụng cho các khoản trung và dài hạn. Cho vay trả góp có rủi ro cao do khách hàng thường thế chấp bằng hàng hóa mua trả góp. Cho vay gián tiếp Ngân hàng cho vay qua các tổ đội, hội, nhóm sản xuất, hội nông dân … Các tổ chức này đứng ra tín chấp cho các thành viên vay, hoặc các thành viên trong nhóm bảo lãnh một thành viên vay. Điều này rất thuận tiện khi người vay không có đủ tài sản để thế chấp. Vay gián tiếp thường được áp dụng đối với thị trường có nhiều món vay nhỏ, người vay phân tán, cách xa ngân hàng. Trong trường hợp như vậy, cho vay qua trung gian có thể tiết kiệm chi phí cho vay. Quy trình cho vay Trong các hoạt động của ngân hàng thương mại, cho vay là hoạt động chủ yếu, chiếm tỉ trọng lớn nhất và đem lại thu nhập chính cho ngân hàng. Để quá trình cho vay được diễn ra thuận lợi, giảm thiểu rủi ro và đảm bảo việc thu hồi vốn, tăng khoản thu cho ngân hàng, các ngân hàng cần đưa ra quy trình cho vay một cách hợp lý và quản lý nó có hiệu quả. Qua đó, việc tìm hiểu khái niệm, ý nghĩa và nội dung quy trình cho vay là phần không thể thiếu trong quá trình tìm hiểu hoạt động cho vay của ngân hàng. Khái niệm quy trình cho vay: Quy trình cho vay là bảng tổng hợp mô tả công việc của ngân hàng từ khi tiếp nhận hồ sơ vay vốn của một khách hàng cho đến khi quyết định cho vay, giải ngân, thu nợ và thanh lý hợp đồng cho vay Ý nghĩa của quy trình cho vay + Về mặt hiệu quả, một quy trình cho vay hợp lý sẽ giúp cho ngân hàng nâng cao chất lượng cho vay và giảm thiểu rủi ro cho vay. + Về mặt quản lý, quy trình cho vay có tác dụng: - Làm cơ sở cho việc phân định quyền, trách nhiệm cho các bộ phận trong hoạt động cho vay. - Làm cơ sở để thiết lập các hồ sơ, thủ tục vay vốn. Quy trình cho vay Bước 1: Lập hồ sơ vay vốn Bước này do cán bộ tín dụng thực hiện ngay sau khi tiếp xúc khách hàng. Nhìn chung một bộ hồ sơ vay vốn cần phải thu thập các thông tin như: - Năng lực pháp lý, năng lực hành vi dân sự của khách hàng - Khả năng sử dụng vốn vay - Khả năng hoàn trả nợ vay (vốn vay + lãi) Bước 2: Phân tích khách hàng Phân tích khách hàng là xác định khả năng hiện tại và tương lai của khách hàng trong việc sử dụng vốn vay + hoàn trả nợ vay. Mục tiêu: - Tìm kiếm những tình huống có thể xảy ra dẫn đến rủi ro cho ngân hàng, dự đoán khả năng khắc phục những rủi ro đó, dự kiến những biện pháp giảm thiểu rủi ro và hạn chế tổn thất cho ngân hàng. - Phân tích tính chân thật của những thông tin đã thu thập được từ phía khách hàng trong bước 1, từ đó nhận xét thái độ, thiện chí của khách hàng làm cơ sở cho việc ra quyết định cho vay. Bước 3: Ra quyết định cho vay Trong khâu này, ngân hàng sẽ ra quyết định đồng ý hoặc từ chối cho vay đối với một hồ sơ vay vốn của khách hàng Khi ra quyết định, thường mắc 2 sai lầm cơ bản: - Đồng ý cho vay với một khách hàng không tốt - Từ chối cho vay với một khách hàng tốt. Cả 2 sai lầm đều ảnh hưởng đến hoạt đông kinh doanh cho vay, thậm chí sai lầm thứ 2 còn ảnh hưởng đến uy tín của ngân hàng. Do đó, quá trình phân tích tín dụng đặc biệt quan trọng để biết được tình hình tài chính của khách hàng, giúp ngân hàng ra quyết định cho vay hợp lý. Bước 4: Giải ngân Ở bước này, ngân hàng sẽ tiến hành phát tiền cho khách hàng theo hạn mức cho vay đã ký kết trong hợp đồng cho vay. Nguyên tắc giải ngân: phải gắn liền sự vận động tiền tệ với sự vận động hàng hóa hoặc dịch vụ có liên quan, nhằm kiểm tra mục đích sử dụng vốn vay của khách hàng và đảm bảo khả năng thu nợ. Nhưng đồng thời cũng phải tạo sự thuận lợi, tránh gây phiền hà cho công việc sản xuất kinh doanh của khách hàng. Bước 5: Giám sát quá trình cho vay Nhân viên tín dụng thường xuyên kiểm tra việc sử dụng vốn vay thực tế của khách hàng, hiện trạng tài sản đảm bảo, tình hình tài chính của khách hàng,... để đảm bảo khả năng thu nợ. Bước 6: Thanh lý hợp đồng cho vay
Luận văn liên quan