Kể từ khi ban hành (năm 1987) đến nay Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đã qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung và ngày càng tạo điều kiện hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Kết quả là thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể, góp phần tăng trưởng kinh tế của cả nước nói chung và các vùng kinh tế cả nước nói riêng.
Cùng với các tỉnh, thành phố trong nước, những năm qua thành phố Đà Nẵng đã có nhiều cố gắng trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài để đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội. Nét nổi bật trong thu hút vốn đầu tư nước ngoài tại Đà Nẵng là ngay từ đầu, Thành phố đã tiến hành quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội địa bàn, xác định các khu, các cụm công nghiệp để đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, tạo điều kiện thuận lợi để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. Nhờ đó, nhiều nhà đầu tư nước ngoài đã đến với Đà Nẵng để làm ăn, kinh doanh.
Đến nay, trên địa bàn thành phố Đà Nẵng có 82 dự án có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và 112 chi nhánh, văn phòng đại diện, kho trung chuyển. Nhìn chung, các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài hoạt động có hiệu quả, góp phần vào tăng trưởng kinh tế và kim ngạch xuất khẩu của thành phố, tăng thêm nguồn thu cho ngân sách, nâng cao trình độ khoa học công nghệ, tiếp thu kinh nghiệm quản lý hiện đại; giải quyết việc làm cho người lao động; làm tăng thu nhập và cải thiện rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân thành phố. Song so với yêu cầu thì hoạt động trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Đà Nẵng chưa đồng đều, quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vẫn còn những mặt yếu kém, thủ tục hành chính còn phiền hà, làm nản lòng nhà đầu tư hoặc có những sơ hở gây tổn hại cho thành phố cũng như cả nước.
Do vậy, hoàn thiện quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trên địa bàn, để các doanh nghiệp này hoạt động hiệu quả hơn, góp phần tích cực vào phát triển kinh tế - xã hội của thành phố vừa là vấn đề cấp bách, đồng thời cũng là vấn đề cơ bản lâu dài đối với Đà Nẵng. Đây cũng là lý do chủ yếu để tác giả lựa chọn đề tài: “Hoàn thiện quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại thành phố Đà Nẵng” làm Luận văn Thạc sỹ kinh doanh và quản lý chuyên ngành quản lý kinh tế làm luận văn thạc sĩ Kinh doanh và quản lý chuyên ngành Quản lý kinh tế.
98 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 3114 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Hoàn thiện quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại thành phố Đà Nẵng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Kể từ khi ban hành (năm 1987) đến nay Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đã qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung và ngày càng tạo điều kiện hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Kết quả là thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể, góp phần tăng trưởng kinh tế của cả nước nói chung và các vùng kinh tế cả nước nói riêng.
Cùng với các tỉnh, thành phố trong nước, những năm qua thành phố Đà Nẵng đã có nhiều cố gắng trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài để đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội. Nét nổi bật trong thu hút vốn đầu tư nước ngoài tại Đà Nẵng là ngay từ đầu, Thành phố đã tiến hành quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội địa bàn, xác định các khu, các cụm công nghiệp để đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, tạo điều kiện thuận lợi để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. Nhờ đó, nhiều nhà đầu tư nước ngoài đã đến với Đà Nẵng để làm ăn, kinh doanh.
Đến nay, trên địa bàn thành phố Đà Nẵng có 82 dự án có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và 112 chi nhánh, văn phòng đại diện, kho trung chuyển. Nhìn chung, các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài hoạt động có hiệu quả, góp phần vào tăng trưởng kinh tế và kim ngạch xuất khẩu của thành phố, tăng thêm nguồn thu cho ngân sách, nâng cao trình độ khoa học công nghệ, tiếp thu kinh nghiệm quản lý hiện đại; giải quyết việc làm cho người lao động; làm tăng thu nhập và cải thiện rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân thành phố. Song so với yêu cầu thì hoạt động trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Đà Nẵng chưa đồng đều, quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vẫn còn những mặt yếu kém, thủ tục hành chính còn phiền hà, làm nản lòng nhà đầu tư hoặc có những sơ hở gây tổn hại cho thành phố cũng như cả nước.
Do vậy, hoàn thiện quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trên địa bàn, để các doanh nghiệp này hoạt động hiệu quả hơn, góp phần tích cực vào phát triển kinh tế - xã hội của thành phố vừa là vấn đề cấp bách, đồng thời cũng là vấn đề cơ bản lâu dài đối với Đà Nẵng. Đây cũng là lý do chủ yếu để tác giả lựa chọn đề tài: “Hoàn thiện quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại thành phố Đà Nẵng” làm Luận văn Thạc sỹ kinh doanh và quản lý chuyên ngành quản lý kinh tế làm luận văn thạc sĩ Kinh doanh và quản lý chuyên ngành Quản lý kinh tế.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được nhiều nhà khoa học và hoạt động thực tiễn trong và ngoài nước nghiên cứu. Dưới đây là một số công trình tiêu biểu:
- Các bài báo:“Kỳ vọng đầu tư nước ngoài vào Đà Nẵng” (Phạm Hảo, Giám đốc Học viện chính trị khu vực III, Báo Đà Nẵng –11/2005); “Làm thế nào để tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Đà Nẵng” (Phan Quỳnh Hương, Trung tâm xúc tiến đầu tư – Báo Đà Nẵng – 11/2005); Môi trường và chính sách đầu tư nước ngoài tại Việt Nam” (Trần Xuân Giá, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và đầu tư, Tạp chí Kinh tế và dự báo số 3/2001)... Trong các công trình này tác giả đã đề xuất một số giải pháp nhằm tạo môi trường đầu tư thuận lợi hơn cho các nhà đầu tư.
- Các đề tài nghiên cứu như: "Đổi mới quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại tỉnh Đồng Nai” (Phan Thị Mỹ Hạnh, Luận văn Thạc sĩ kinh tế, Hà Nội, 2000); “Hoàn thiện quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn FDI ở Việt Nam hiện nay” (Nguyễn Văn Hùng, Luận văn Thạc sĩ kinh tế, Học viện CTQG Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2001); “Hoàn thiện cơ chế tổ chức và quản lý hoạt động FDI ở Việt Nam” (Nguyễn Chí Dũng, Luận án Phó tiến sĩ kinh tế - Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội, 1996)… Các đề tài này đã đề cập đến những vấn đề lý luận và thực tiễn về quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài như: vai trò, nội dung, yêu cầu quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và phân tích và quản lý nhà nước đối với hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài các doanh nghiệp này trong những năm qua, nghiên cứu kinh nghiệm của một số nước để từ đó đề ra các giải pháp nhằm hoàn thiện quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam hoặc ở các địa phương mà đề tài tiến hành nghiên cứu.
Như vậy, các công trình trên đã đề cập đến nhiều khía cạnh khác nhau của quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài nói chung và doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài nói riêng. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu cơ bản, hệ thống về quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại thành phố Đà Nẵng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở phạm vi quốc gia cũng như ở địa bàn cấp tỉnh, luận văn đề xuất phương hướng, giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước đối với loại hình doanh nghiệp này tại thành phố Đà Nẵng đến năm 2010.
- Nhiệm vụ nghiên cứu: Để thực hiện mục tiêu nghiên cứu đặt ra, luận văn tập trung giải quyết những nhiệm vụ chủ yếu sau:
+ Làm rõ những vấn đề lý luận về quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở địa bàn cấp tỉnh.
+ Tìm hiểu kinh nghiệm quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của một số địa phương trong nước và quốc tế.
+ Phân tích, đánh giá thực trạng quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trên địa bàn thành phố Đà Nẵng thời gian qua.
+ Đề xuất phương hướng, giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trên địa bàn thành phố Đà Nẵng thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, bao gồm doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài hoạt động trong các lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ trong thời gian từ 1997 đến nay, đề xuất và phương hướng, giải pháp hoàn thiện công tác này ở địa phương đến năm 2010.
Ngoài ra, luận văn cũng nghiên cứu kinh nghiệm quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của một số địa phương trong nước và quốc tế.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra, luận văn sử dụng các phương pháp khảo sát thực tế, phỏng vấn chuyên gia, phân tích, tổng hợp, so sánh… trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những quan điểm của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, đồng thời kế thừa có chọn lọc kết quả nghiên cứu của một số công trình nghiên cứu có liên quan.
6. Đóng góp mới về lý luận và thực tiễn
Luận văn có những đóng góp mới sau đây:
- Góp phần hệ thống hóa và làm rõ thêm những vấn đề lý luận về quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở địa bàn cấp tỉnh.
- Rút ra được những bài học có thể vận dụng vào thực tiễn ở thành phố Đà Nẵng từ kinh nghiệm quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của một số địa phương trong nước và quốc tế.
- Đánh giá đúng thực trạng quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Đà Nẵng, rút ra được những thành công, hạn chế và nguyên nhân của thực trạng.
- Đề xuất được phương hướng và giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Đà Nẵng đến năm 2010.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài lời mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận văn được kết cấu thành 3 chương, 9 tiết.
Chương 1: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở địa bàn cấp tỉnh.
Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại thành phố Đà Nẵng.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại thành phố Đà Nẵng đến năm 2010.
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP CÓ VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI Ở ĐỊA BÀN CẤP TỈNH
1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ DOANH NGHIỆP CÓ VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
1.1.1 Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài và doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
Tìm hiểu, nghiên cứu khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài chúng ta thấy có nhiều khái niệm khác nhau về đầu tư trực tiếp nước ngoài. Mỗi khái niệm đều cố gắng khái quát hoá bản chất và nhấn mạnh đến một khía cạnh nào đó của đầu tư trực tiếp nước ngoài. Có thể thấy rõ qua một số khái niệm sau:
Theo Synthia Day, Wallace đưa ra khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài có thể định nghĩa theo nghĩa rộng là: việc thiết lập hay giành được quyền sở hữu đáng kể trong một loạt công ty ở nước ngoài hay sự gia tăng khối lượng của một khoảng đầu tư nước ngoài nhằm đạt được quyền sở hữu đáng kể. Khái niệm này nhấn mạnh đến quyền sở hữu.
Ủy ban Liên hợp Quốc về Thương mại và phát triển (UNCTAD) định nghĩa đầu tư trực tiếp nước ngoài là: “một khoản đầu tư bao gồm mối quan hệ trong dài hạn, phản ánh lợi ích và quyền kiểm soát lâu dài của một thực thể thường trú ở một nền kinh tế (nhà đầu tư nước ngoài hoặc công ty mẹ nước ngoài) trong một doanh nghiệp thường trú ở một nền kinh tế khác với nền kinh tế của nhà đầu tư nước ngoài (doanh nghiệp đầu tư nước ngoài trực tiếp, doanh nghiệp liên doanh hoặc chi nhánh nước ngoài) [27, tr.465].
Khái niệm do Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) đưa ra năm 1997 được chấp nhận khá rộng rãi về đầu tư trực tiếp nước ngoài là: “số vốn đầu tư được thực hiện để thu được lợi ích lâu dài trong một doanh nghiệp hoạt động ở nền kinh tế khác với nền kinh tế của nhà đầu tư. Mục đích của nhà đầu tư là có được tiếng nói hiệu lực và đạt hiệu quả cao trong quản lý doanh nghiệp” [26, tr.1]. Khái niệm này cho thấy, sự khác nhau cơ bản giữa đầu tư trực tiếp nước ngoài với đầu tư gián tiếp là mục đích của các nhà đầu tư.
Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (năm 1996) đã nêu: đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền hoặc bất kỳ tài sản nào để tiến hành các hoạt động đầu tư theo quy định của Luật này” [1, tr.8]. Năm 2005, Luật đầu tư được điều chỉnh và đã đưa ra định nghĩa đầu tư nước ngoài như sau: “Đầu tư nước ngoài là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền và các tài sản hợp pháp khác để tiến hành hoạt động đầu tư”. Luật đầu tư năm 2005 không đề cập cụ thể đến khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài và đầu tư nước ngoài gián tiếp mà chỉ đưa ra khái niệm đầu tư trực tiếp, đầu tư gián tiếp. Hai khái niệm trên được hiểu: “đầu tư trực tiếp là hình thức đầu tư do nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư và tham gia quản lý hoạt động đầu tư”, “đầu tư gián tiếp là hình thức đầu tư thông qua việc mua cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu, các giấy tờ có giá khác, quỹ đầu tư chứng khoán và thông qua các định chế tài chính trung gian khác mà nhà đầu tư không trực tiếp tham gia quản lý hoạt động đầu tư”.
Dù có nhiều khái niệm khác nhau, nhưng xét về bản chất, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là một loại hình di chuyển vốn quốc tế trong đó người chủ sở hữu vốn đồng thời là người quản lý và điều hành các hoạt động sử dụng vốn. Để tham gia trực tiếp vào việc quản lý và điều hành các hoạt động sử dụng vốn, nhà đầu tư nước ngoài phải có một lượng vốn nhất định và tuân theo các hình thức đầu tư nhất định do pháp luật nước sở tại quy định.
Nói cách khác, trong đầu tư trực tiếp nước ngoài, nhà đầu tư nước ngoài sẽ sử dụng vốn, tài sản, kinh nghiệm, uy tín và nhãn hiệu sản phẩm của mình để tiến hành các hoạt động sản xuất, kinh doanh ở nước sở tại nhằm thu lợi nhuận và để đạt được những mục tiêu kinh tế - xã hội nhất định. về thực chất đây là hình thức xuất khẩu vốn, một hình thức cao hơn của xuất khẩu hàng hoá.
Với những trình bày trên, đầu tư trực tiếp nước ngoài có các đặc trưng sau:
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài không có những ràng buộc về chính trị, không để lại gánh nặng nợ nần cho nền kinh tế của nước chủ nhà nhưng có đóng góp tích cực cho phát triển kinh tế và là một bộ phận hữu cơ trong cơ cấu đầu tư của nền kinh tế nước chủ nhà;
- Trong hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài, có sự thiết lập quyền sở hữu về tư bản thực của công ty ở một nước khác; đầu tư trực tiếp nước ngoài được thực hiện bằng vốn của cá nhân hoặc tập thể do các chủ đầu tư tự quyết định đầu tư, quyết định sản xuất, kinh doanh và tự chịu trách nhiệm về các khoản lỗ, lãi. Đầu tư trực tiếp nước ngoài phát triển gắn liền với sự ra đời và hoạt động của các công ty xuyên quốc gia;
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài có mục tiêu, nhiệm vụ rõ ràng nhằm mở rộng, chiếm lĩnh thị trường của các công ty xuyên quốc gia và thu về lợi nhuận tối đa cho nhà đầu tư;
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài có sự kết hợp quyền sở hữu với quyền quản lý các nguồn vốn đã được đầu tư. Khác với hình thức đầu tư gián tiếp, trong đầu tư trực tiếp, chủ đầu tư nước ngoài điều hành toàn bộ mọi hoạt động đầu tư nếu là doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, hoặc tham gia điều hành doanh nghiệp liên doanh tuỳ theo tỷ lệ góp vốn của mình;
- Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài có kèm theo việc chuyển giao công nghệ và kỹ năng quản lý. Thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài, nước chủ nhà có thể tiếp nhận được công nghệ, kỹ thuật tiên tiến, học hỏi kinh nghiệm quản lý... Đây là những mục tiêu mà các hình thức đầu tư khác không giải quyết được;
- Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài gắn liền với sự phát triển của thị trường tài chính quốc tế và thương mại quốc tế. Trong hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài, các công ty mẹ thường chuyển giao vốn của mình qua các công ty chi nhánh. Do đó, đầu tư trực tiếp nước ngoài có liên quan chặt chẽ với dòng lưu chuyển vốn quốc tế, trong đó một công ty ở một nước tạo ra hoặc mở rộng chi nhánh ở nước khác.
Những đặc trưng trên cho thấy bản chất và những lợi thế nổi bật của đầu tư trực tiếp nước ngoài trong phát triển kinh tế của các nước đang phát triển nói riêng và của nền kinh tế thế giới nói chung. Hiện nay, trong bối cảnh hầu hết các quốc gia đều hoạt động theo cơ chế thị trường, xu thế khu vực hóa và toàn cầu hóa các hoạt động kinh tế đang ngày càng phổ biến và diễn ra với tốc độ nhanh, khoa học – kỹ thuật, công nghệ đạt đến trình độ phát triển cao... Đầu tư trực tiếp nước ngoài được sử dụng như một trong những hình thức hợp tác kinh tế, phương tiện thực hiện phân công lao động quốc tế, và được xem là một trong các điều kiện quyết định sự phát triển của nền kinh tế thế giới.
Trong hoạt động FDI, các nhà đầu tư nước ngoài là chủ thể quan trọng thành lập nên doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (hay còn gọi là doanh nghiệp FDI) và có thể nói không có FDI tất yếu không có doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là phương tiện, là cách thức để nhà đầu tư nước ngoài trực tiếp bỏ vốn và tham gia quản lý kinh doanh ở một nước khác. Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ngày càng phổ biến ở nhiều quốc gia trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng. Đến nay vẫn có nhiều quan niệm khác nhau về doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài:
- Doanh nghiệp FDI là những pháp nhân mới được thành lập tại nước nhận đầu tư. Trong đó, các đối tác có quốc tịch khác nhau và bên nước ngoài có tỷ lệ góp vốn tối thiểu đủ để trực tiếp tham gia quản lý doanh nghiệp [10, tr.59]. Quan niệm này nhấn mạnh đến vai trò sáng lập của nhà đầu tư nước ngoài trong doanh nghiệp FDI.
- Doanh nghiệp FDI là những loại hình doanh nghiệp có vốn của bên nước ngoài và có sự quản lý trực tiếp của bên nước ngoài. Doanh nghiệp này hoạt động theo luật pháp của nước sở tại để tiến hành các hoạt động kinh doanh nhằm thu được lợi ích cho tất cả các bên [10, tr.59].
Theo các tổ chức kinh tế, doanh nghiệp FDI là doanh nghiệp có tư cách pháp nhân hoặc không có tư cách pháp nhân, trong đó nhà đầu tư nước ngoài sở hữu từ 10% trở lên số cổ phần thường hay quyền bỏ phiếu (đối với doanh nghiệp có tư cách pháp nhân) hoặc tương đương (đối với doanh nghiệp không có tư cách pháp nhân) [29, tr.8].
Những quan niệm đã trình bày ở trên cho thấy sự không thống nhất trên bình diện quốc tế trong quan niệm về doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, do đặc thù của mỗi quốc gia mà có các quy định khác nhau về mô hình doanh nghiệp cho hoạt động đầu tư nước ngoài.
Ở Việt Nam, đến nay chưa có khái niệm chính thức nào khác về doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài những ghi nhận về doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được đề cập trong Luật đầu tư nước ngoài năm 1996 và Luật đầu tư năm 2005. Tuy nhiên, Luật đầu tư nước ngoài 1996 cũng không đưa ra khái niệm về doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài mà chỉ thừa nhận doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài gồm doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài. Và về mặt pháp lý, cả doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài đều hoạt động với tư cách công ty trách nhiệm hữu hạn.
Như vậy, khác với Luật doanh nghiệp và Luật doanh nghiệp nhà nước quan tâm đến tiêu chí trách nhiệm của doanh nghiệp (công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh, doanh nghiệp tư nhân) và tiêu chí nguồn gốc vốn của doanh nghiệp (công ty nhà nước, doanh nghiệp nhà nước khác), thì qui định của Luật đầu tư nước ngoài về doanh nghiệp lại nhấn mạnh theo tiêu chí tỷ lệ vốn góp của nhà đầu tư nước ngoài trong doanh nghiệp. Điều này không phù hợp với thực tiễn về quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp, bởi vì điều mà các bên thứ ba quan tâm ở doanh nghiệp không phải là nhà đầu tư có tỷ lệ góp vốn bao nhiêu,... mà là doanh nghiệp chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ tài sản trước đối tác, trước Nhà nước và các chủ thể khác như thế nào. Đây chính là điểm hạn chế trước đây của pháp luật đầu tư nước ngoài ở Việt Nam.
Để khắc phục hạn chế trên, Luật doanh nghiệp 2005 đã phân loại doanh nghiệp theo tiêu chí cách thức góp vốn và chịu trách nhiệm (công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh, doanh nghiệp tư nhân) mà không phụ thuộc vào nguồn gốc vốn góp (tức là không phân biệt doanh nghiệp của nhà đầu tư trong nước hay nước ngoài, của một nhà đầu tư hay nhiều nhà đầu tư). Luật đầu tư 2005, khi định nghĩa về doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cũng không còn sử dụng khái niệm doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp liên doanh nữa mà thay vào đó đã sử dụng khái niệm: “doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài bao gồm doanh nghiệp do nhà đầu tư nước ngoài thành lập để thực hiện hoạt động đầu tư tại Việt Nam; doanh nghiệp Việt Nam do nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần, sáp nhập, mua lại”. Vậy, theo luật doanh nghiệp 2005 và Luật đầu tư 2005, doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp liên doanh về bản chất vẫn tồn tại nhưng tên gọi pháp lý của chúng đã thay đổi. Tùy theo cách thức góp vốn và chịu trách nhiệm trong các doanh nghiệp này, chúng có thể là công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh hoặc doanh nghiệp tư nhân.
Qua phân tích ở trên, có thể hiểu: “Doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (hay còn gọi là doanh nghiệp FDI) là một hình thức tổ chức kinh doanh, trong đó có một bên hoặc các bên mang quốc tịch khác nhau cùng góp vốn, cùng quản lý cơ sở kinh tế đó vì mục tiêu sinh lời, phù hợp với các quy định luật pháp của nước sở tại và thông lệ quốc tế”.
1.1.2. Đặc điểm hoạt động của doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
Doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có nhiều loại hình, nhiều cách thức tổ chức hoạt động khác nhau. Do vậy, nhận thức các đặc điểm hoạt động của các doanh nghiệp này có vai trò quan trọng trong việc đảm bảo hiệu quả quản lý nhà nước đối với chúng. Doanh nghiệp FDI ở Việt Nam có các đặc điểm cơ bản sau:
- Doanh nghiệp FDI là những tổ chức kinh doanh có yếu tố quốc tế, chủ yếu được thành lập t