Việt Nam đang trong giai đoạn mở cửa hội nhập với các nước trong khu vực và trên thế giới, thêm vào đó nhiều vấn đề chưa được giải quyết đồng bộ như các yếu tố về pháp luật, luật định, quy chế…Do đó việc điều hành quản trị hoạt động ngân hàng ít nhiều bị ảnh hưởng. Thực tế xảy ra nhiều ngân hàng có những biểu hiện không đồng bộ, không thống nhất, các vụ việc vi phạm quy chế, nghiệp vụ vẫn lập đi lập lại, chưa được giải quyết triệt để. Muốn uốn nắn và phát hiện sai sót kịp thời nhằm nâng cao chất lượng kinh doanh ngân hàng đòi hỏi phải có một bộ phận kiểm toán nội bộ hoạt động một cách có hiệu quả tại mỗi ngân hàng.
Việc hình thành một tổ chức kiểm toán nội bộ trong ngân hàng sẽ làm chi phí quản lý tăng lên trong khi các ngân hàng chưa thấy được các lợi ích mang lại từ kiểm toán. Đây là một trong những lý do làm cho các ngân hàng nhất là các ngân hàng có quy mô hoạt động nhỏ chưa tổ chức bộ phận kiểm toán. Các ngân hàng này thường kết hợp giữa bộ phận kế toán với bộ phận kiểm toán. Điều này trái với các nguyên tắc “bất kiêm nhiệm” và không đúng với tính chất, nội dung của kiểm toán nội bộ. Bên cạnh đó, nhiều ngân hàng hiện nay đã có bộ phận kiểm toán nội bộ nhưng hoạt động còn yếu kém, lỏng lẻo chỉ mang tính hình thức nên tác dụng giám sát và kiểm tra còn yếu. Một phần do bản thân kiểm toán viên chưa được đào tạo đầy đủ về chuyên môn kiểm toán, thiếu kinh nhiệm trong kiểm toán. Mặt khác kiểm toán viên cũng chưa được giao đầy đủ “quyền hạn trách nhiệm”. Vì vậy công tác kiểm toán đôi khi mất tính khách quan, chỉ kiểm toán và đưa ra những kết luận tốt, những mặt ưu điểm, còn sai sót thì bỏ qua.
Chính vì vậy việc hình thành một hệ thống kiểm toán nội bộ là một tất yếu đối với các ngân hàng Thương mại. Đồng thời việc hoàn thiện công tác này là một điều rất cần thiết không chỉ cho bản thân các ngân hàng Thương mại mà còn cho cả hệ thống nền kinh tế
Quy trình kiểm toán có ý nghĩa rất to lớn là một yếu tố quyết định hiệu quả hoạt động của một phòng kiểm toán nội bộ trong một ngân hàng. Cho tới nay các ngân hàng Thương mại nói chung cũng như Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quân đội nói riêng đều đang trong quá trình xây dựng và hoàn thiện quy trình kiểm toán nội bộ phù hợp với đặc điểm hoạt động của mỗi ngân hàng. Ngân hàng hàng nào có một quy trình kiểm toán nội bộ chặt chẽ hiệu quả ngân hàng đó sẽ có uy tín và ưu thế cạnh tranh trên thị trường tiền tệ - vốn là một thị trường khó tính
Ngoài phần mở đầu và kết luận luận văn bao gồm 3 chương:
Chương I: Những vấn đề chung về kiểm toán nội bộ trong ngân hàng Thương mại
Chương II: Thực trạng áp dụng quy trình kiểm toán nội bộ tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quân đội
Chương III: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện quy trình kiểm toán tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quân đội
100 trang |
Chia sẻ: ducpro | Lượt xem: 2509 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Hoàn thiện quy trình kiểm tóan nội bộ tại ngân hàng thương mại Cổ phần Quân Đội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Việt Nam đang trong giai đoạn mở cửa hội nhập với các nước trong khu vực và trên thế giới, thêm vào đó nhiều vấn đề chưa được giải quyết đồng bộ như các yếu tố về pháp luật, luật định, quy chế…Do đó việc điều hành quản trị hoạt động ngân hàng ít nhiều bị ảnh hưởng. Thực tế xảy ra nhiều ngân hàng có những biểu hiện không đồng bộ, không thống nhất, các vụ việc vi phạm quy chế, nghiệp vụ vẫn lập đi lập lại, chưa được giải quyết triệt để. Muốn uốn nắn và phát hiện sai sót kịp thời nhằm nâng cao chất lượng kinh doanh ngân hàng đòi hỏi phải có một bộ phận kiểm toán nội bộ hoạt động một cách có hiệu quả tại mỗi ngân hàng.
Việc hình thành một tổ chức kiểm toán nội bộ trong ngân hàng sẽ làm chi phí quản lý tăng lên trong khi các ngân hàng chưa thấy được các lợi ích mang lại từ kiểm toán. Đây là một trong những lý do làm cho các ngân hàng nhất là các ngân hàng có quy mô hoạt động nhỏ chưa tổ chức bộ phận kiểm toán. Các ngân hàng này thường kết hợp giữa bộ phận kế toán với bộ phận kiểm toán. Điều này trái với các nguyên tắc “bất kiêm nhiệm” và không đúng với tính chất, nội dung của kiểm toán nội bộ. Bên cạnh đó, nhiều ngân hàng hiện nay đã có bộ phận kiểm toán nội bộ nhưng hoạt động còn yếu kém, lỏng lẻo chỉ mang tính hình thức nên tác dụng giám sát và kiểm tra còn yếu. Một phần do bản thân kiểm toán viên chưa được đào tạo đầy đủ về chuyên môn kiểm toán, thiếu kinh nhiệm trong kiểm toán. Mặt khác kiểm toán viên cũng chưa được giao đầy đủ “quyền hạn trách nhiệm”. Vì vậy công tác kiểm toán đôi khi mất tính khách quan, chỉ kiểm toán và đưa ra những kết luận tốt, những mặt ưu điểm, còn sai sót thì bỏ qua.
Chính vì vậy việc hình thành một hệ thống kiểm toán nội bộ là một tất yếu đối với các ngân hàng Thương mại. Đồng thời việc hoàn thiện công tác này là một điều rất cần thiết không chỉ cho bản thân các ngân hàng Thương mại mà còn cho cả hệ thống nền kinh tế
Quy trình kiểm toán có ý nghĩa rất to lớn là một yếu tố quyết định hiệu quả hoạt động của một phòng kiểm toán nội bộ trong một ngân hàng. Cho tới nay các ngân hàng Thương mại nói chung cũng như Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quân đội nói riêng đều đang trong quá trình xây dựng và hoàn thiện quy trình kiểm toán nội bộ phù hợp với đặc điểm hoạt động của mỗi ngân hàng. Ngân hàng hàng nào có một quy trình kiểm toán nội bộ chặt chẽ hiệu quả ngân hàng đó sẽ có uy tín và ưu thế cạnh tranh trên thị trường tiền tệ - vốn là một thị trường khó tính
Nhận thức được tầm quan trọng của quy trình kiểm toán nội bộ và xuất phát từ mong muốn tìm hiểu sâu sắc hơn nữa quy trình kiểm toán trong quá trình thực tập tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quân đội nên em đã chọn đề tài của luận văn tốt nghiệp đại học là:
“ Hoàn thiện quy trình kiểm toán nội bộ tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quân đội ”
Ngoài phần mở đầu và kết luận luận văn bao gồm 3 chương:
Chương I: Những vấn đề chung về kiểm toán nội bộ trong ngân hàng Thương mại
Chương II: Thực trạng áp dụng quy trình kiểm toán nội bộ tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quân đội
Chương III: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện quy trình kiểm toán tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quân đội
Chuyên đề được hoàn thành với sự hướng dẫn tận tình của thầy giáo TS. Ngô Trí Tuệ. Do vốn kiến thức hạn chế và bước đầu đi vào thực tế nên bài viết này không tránh khỏi những sai sót, em rất mong được sự đóng góp của thầy cô để bài viết được hoàn thiện hơn.
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ KIỂM TOÁN NỘI BỘ TRONG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
I. Đặc điểm ngân hàng Thương mại
Ngân hàng Thương mại là một loại hình tổ chức tín dụng có hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi, cho vay, cung ứng dịch vụ thanh toán và các dịch vụ ngân hàng khác.
Tầm quan trọng của ngân hàng Thương mại được thể hiện qua các chức năng của nó. Các chức năng của Ngân hàng Thương mại có thể nêu ra dưới các khía cạnh khác nhau, nhưng nhìn chung được nhiều nhà kinh tế chấp nhận ở các chức năng sau:
1. Chức năng trung gian tín dụng
Đây là chức năng đặc trưng cơ bản nhất của Ngân hàng Thương mại và có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Trung gian tài chính là hoạt động cầu nối giữa cung và cầu vốn trong xã hội, khơi nguồn vốn từ những người có thể vì lý do gì đó không dùng nó một cách sinh lợi sang những người có ý muốn dùng nó để sinh lợi.
Một mặt Ngân hàng Thương mại huy động và tập trung các nguồn vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi của các chủ thể trong nền kinh tế để hình thành nguồn vốn cho vay; mặt khác trên cơ sở số vốn đã huy động được, ngân hàng cho vay để đáp ứng nhu cầu vốn sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng…của các chủ thể kinh tế, góp phần đảm bảo sự vận động liên tục của guồng máy kinh tế xã hội thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Như vậy ngân hàng Thương mại vừa là người đi vay vừa là người cho vay. Vai trò trung gian ngày càng trở nên phong phú hơn như việc phát hành thêm trái phiếu, cổ phiếu chứng chỉ tiền gửi và hiện nay phổ biến là tiền gửi tiết kiệm…
Ngày nay, quan niệm vai trò trung gian tín dụng trở nên biến hoá hơn. Sự phát triển của thị trường tài chính làm xuất hiện những khía cạnh khác của chức năng này. Ngân hàng có thể đứng làm trung gian giữa ngân hàng (phát hành cổ phiếu) với những nhà đầu tư; chuyển giao các mệnh lệnh trên thị trường chứng khoán; đảm nhận việc mua bán trái phiếu ngân hàng. Do đó ngân hàng không chỉ làm trung gian giữa người gửi tiền và người vay tiền mà còn là trung gian giữa người đầu tư và người cần vay vốn trên thị trường. Thông qua chức năng trung gian tín dụng, Ngân hàng Thương mại đã và đang thực hiện chức năng xã hội của mình, làm cho sản phẩm xã hội được tăng lên, vốn đầu tư được mở rộng và từ đó góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế, cải thiện đời sống của nhân dân.
2. Chức năng làm trung gian thanh toán và quản lý các phương tiện thanh toán
Chức năng này là sự kế thừa và phát triển chức năng ngân hàng là thủ quỹ của các ngân hàng, tức là ngân hàng tiến hành nhập tiền vào tài khoản hay chi trả tiền theo lệnh của chủ tài khoản. Công việc của người thủ quỹ chính là ở chỗ làm trung gian thanh toán. Ngày nay hầu hết các khoản thanh toán chi trả về hàng hoá dịch vụ giữa các chủ thể kinh tế( các ngân hàng và cá nhân ) đều được chuyển giao cho ngân hàng thực hiện, việc thanh toán trở nên tiện lợi, tiết kiệm được nhiều chi phí, mọi quan hệ thanh toán được thực hiện bằng cách các chủ thể mở tài khoản tại ngân hàng và yêu cầu ngân hàng thực hiện các khoản chi trả hoặc uỷ nhiệm cho ngân hàng thực hiện việc thu nhận các khoản tiền vào tài khoản của mình.
Trong khi làm trung gian thanh toán ngân hàng tạo ra những công cụ lưu thông tín dụng và độc quyền quản lý các công cụ đó (séc, giấy chuyển ngân, thẻ thanh toán… ) đã tiết kiệm cho xã hội rất nhiều về chi phí lưu thông, đẩy nhanh tốc độ luân chuyển vốn, thúc đẩy quá trình lưu thông hàng hoá. Khách hàng của ngân hàng không phải chi trả với nhau bằng các bao tiền rất tốn kém, mà chỉ cần ra lệnh cho ngân hàng thông qua các phương tiện, ngân hàng sẽ ghi nợ tài khoản người này ghi có tài khoản người kia nhanh chóng. Việc làm trung gian thanh toán của ngân hàng ngày nay đã phát triển đến tầm mức rất mức rất đa dạng không chỉ là trung gian thanh toán truyền thống như trước mà còn quaảnlý các phương tiện thanh toán. Đây là vai trò ngày càng chiếm vị rí rất quan trọng phù hợp với sự phát triển và tiến bộ của khoa học kỹ thuật.3. Chức năng tạo tiền trong hệ thống ngân hàng hai cấp
Các ngân hàng có khả năng tạo ra tiền gửi khi họ cho vay hoặc đầu tư, tức là ngân hàng mở rộng cung tiền tệ bằng cho vay và đầu tư. Khi một ngân hàng cho một cá nhân hoặc ngân hàng vay, nó taok ra trên sổ sách của nó một khoản tiền gửi dành cho quyền lợi của người đi vay. Tương tự như vậy, khi ngân hàng mua trái phiếu kho bạc hoặc các loại chứng khoán khác cho danh mục của mình thì tiền gửi được tạo ra cho quyền lợi của những người bán chứng khoán này. Nói cách khái quát, ngân hàng có khả năng tạo ra tiền dưới chiêu bài gửi mới bằng cách cấp phát tín dụng cho khách hàng và đầu tư vào chứng khoán. Tiền gửi được tạo ra qua việc cho vay và đầu tư của ngân hàng được gọi là ”tiền gửi thứ cấp”. Cũng giống như đối với tất cả các loại tiền gửi của ngân hàng, tiền gửi thứ cấp là những giấy nợ của ngân hàng tạo ra. Tuy nhiên sự khác biệt quan trọng giữa giấy nợ của một ngân hàng với giấy nợ của các người đi vay là giấy nợ của ngân hàng được chấp nhận như là tiền. Khách hàng cảm thấy an tâm khi chấp nhận tờ giấy nợ tiền gửi của một ngân hàng hơn là những rủi ro và bất tiện khác của giấy nợ do các nhà kinh doanh khác tạo ra.
Khả năng tạo tiền của ngân hàng Thương mại gắn liền với việc ngân hàng cung cấp một cơ chế cho việc thực hiện thanh toán dưới hình thức tiền tệ, tài khoản séc và các phuơng tiện giao dịch khác và thường được công chúng chấp nhận rộng rãi. Không có một định chế tài chính nào khác có thể cung cấp một công cụ với khả năng không hạn chế cho việc thanh toán cho các bên thứ ba theo yêu cầu. Hệ thống Ngân hàng Thương mại có một vai trò trung tâm trong việc tạo ra quỹ khả dụng cho việc mua hàng hoá và dịch vụ trong nền kinh tế hiện đại bằng cách cung cấp tài khoản giao dịch cho khách hàng. Tài khoản giao dịch hiện vẫn còn là hình thức chính của tiền tệ ở phần lớn các quốc gia, nó tượng trưng cho nợ (lời hứa thanh toán) của một ngân hàng, tượng trưng cho phương thức chính được công chúng ngày nay sử dụng để thanh toán. Các quỹ chảy tự do xuyên qua các biên giới địa dư và chính trị, bởi vì các ngân hàng riêng lẻ sẵn lòng thanh toán ngay lập tức bất kỳ hối phiếu nào ký phát cho họ. Toàn bộ hệ thống dựa trên niềm tin của công chúng và sự tự nguyện chấp nhận tiền gửi ngân hàng như là một phương tiện trung gian cho việc thanh toán hàng hoá và dịch vụ. Trong lịch sử, các ngân hàng là các định chế độc nhất cung cấp tài khoản thanh toán và đáp ứng chủ yếu nhu cầu của khách hàng ngân hàng. Tuy nhiên tính độc nhất này đang đang dần dà biến mất trước sự phát triển rầm rộ của những nhà cung cấp dịch vụ tài chính đang nhảy vào thị trường người truyền thống và lôi cuốn đi những khách hàng quý giá nhất của ngân hàng. Chính vì vậy rủi ro kinh doanh của ngân hàng ngày càng tăng đòi hỏi các ngân hàng Thương mại phải đổi mới liên tục để theo kịp nhu cầu của các “thượng đế”
4. Chức năng tài trợ ngoại thương, mở rộng nghiệp vụ ngân hàng quốc tế
Một trong những đặc điểm rõ nhất của công nghiệp ngân hàng Thương mại là các hoạt động ngân hàng đã trở nên toàn cầu hoá do các ngân hàng đều có các chi nhánh vượt ra khỏi nước mình và tham gia vào các trung tâm tài chính ở nước ngoài. Ngày nay xu hướng toàn cầu hoá khuh vực hoá với những đặc trưng tự do hoá Thương mại và tự do hoá tài chính ngày càng rộng khắp và mạnh mẽ đã và đang đòi hỏi ngân hàng các nước đẩy mạnh hoạt động kinh doanh đối nội đối ngoại với các ngân hàng Thương mại ở các quốc gia khác nhau. Mở rộng hoạt động kinh doanh đối ngoại các ngân hàng Thương mại sẽ thu được nhiều lợi ích: tranh thủ được các nguồn vốn trên thị trường quốc tế thông qua các ngân hàng nước ngoài hoặc các chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại trong nước để đầu tư phát triển kinh tế đất nước; có điều kiện tiếp cận và học hỏi công nghệ ngân hàng tiên tiến, nhất là ở các khâu thanh toán, kinh doanh ngoại hối, thẩm định dự án, phòng ngừa rủi ro, kiểm soát nội bộ và giám sát tài chính; góp phần quan trọng khuyến khích mở rộng xuất khẩu, kiểm soát tốt nhập khẩu; tạo điều kiện, cơ hội mở rộng thị trường, tìm kiếm bạn hàng trên những lĩnh vực kinh doanh khác nhau.
Một trong những chức năng quan trọng nhất do các ngân hàng thực hiện trong việc tham gia vào nghiệp vụ ngân hàng quốc tế là tài trợ xuất nhập khẩu và nền Thương mại giữa các quốc gia. Giống như Thương mại trong nước, hoạt động ngoại thương đòi hỏi các phương pháp tài trợ khác nhau, hoạt động ngoại thương bao gồm ứng tiền trước, tài khoản mở, uỷ thác, nhờ thu và thư tín dụng, tín dụng chiết khấu hối phiếu, bảo lãnh, mua và bán séc du lịch…Từ lâu, các ngân hàng chỉ liên quan đến một quá trình riêng biệt trong các giao dịch mậu dịch quốc tế như cung cấp một khoản tiền cho vay hoặc một L/C. Nhưng từ khi tài trợ trở thành một phần không thể thiếu đối với nhiều giao dịch Thương mại, các ngân hàng đã phát triển các dịch vụ này, kết hợp việc cho vay của ngân hàng với các nguồn bảo trợ từ các cơ quan xuất khẩu của chính phủ, ngân hàng thuê mua tài chính quốc tế và các nguồn tài trợ phi ngân hàng khác, cùng với bảo hiểm rủi ro chính trị và kinh tế.
Để có thể tham gia hoạt động kinh doanh đối ngoại thì đòi hỏi các ngân hàng phải có những điều kiện hết sức ngặt nghèo, nguyên tắc chặt chẽ, phương châm linh hoạt…như: năng lực tài chính, trình độ quản lý, khả năng tự động hoá cơ giới hoá, đội ngũ cán bộ …Đây là một đỏi hỏi nhưng cũng là một cơ hội lớn đối với sự phát triển của các ngân hàng Thương mại.
Như vậy, Ngân hàng Thương mại tiến hành các hoạt động nghiệp vụ của mình thông qua việc sử dụng không chỉ bằng vốn riêng của mình mà chủ yếu bằng vốn huy động của khách hàng. Cho dù sử dụng vốn nào thì các ngân hàng Thương mại vẫn phải chịu rủi ro rất lớn trong hoạt động của mình. Nếu như các ngân hàng không thu hồi được số nợ mà họ đã cho vay thì các tổ chức trung gian tài chính không những mất vốn tự có của bản thân mình mà còn có nguy cơ không thể hoàn trả được số tiền đã huy động của khách hàng. Hoạt động trên một lĩnh vực rất nhạy cảm là kinh doanh tiền tệ do đó các ngân hàng Thương mại phải đối mặt với nhiều rủi ro lớn nhất là trong một môi trường chưa hoàn thiện về các chính sách, kỹ thuật, trình độ …như: trình độ của cán bộ nhân viên thấp, thông tin thiếu...Chính vì vậy đòi hỏi các ngân hàng phải tự tổ chức cho mình một bộ máy kiểm soát nội bộ tốt để giám sát tất cả các hoạt động của mình, giảm thiểu tối đa các rủi ro trong kinh doanh. Và kiểm toán nội bộ là yêú tố quyết định chất lượng của một hệ thống kiểm soát nội bộ.
Hiện nay kiểm toán nội bộ đang là một vấn đề cấp bách của các ngân hàng Thương mại Việt Nam, vì đa số các ngân hàng chưa thực sự coi trọng vấn đề này, nhất là Việt Nam đang trong giai đoạn hội nhập mở cửa, các ngân hàng phải tăng năng lực hoạt động và uy tín của mình để có thể cạnh tranh với các ngân hàng khác.
II. Kiểm toán nội bộ trong ngân hàng Thương mại.
Hoạt động kiểm toán trên thế giới đã có trên 100 năm nay và ngày càng phát triển mạnh mẽ, thâm nhập vào mọi nghành, mọi lĩnh vực kinh tế. Kiểm toán là một hoạt động mới xuất hiện ở nước ta hơn 10 năm nay nhưng đã có những bước phát triển lớn và ngày càng khẳng định rõ vai trò của mình trong việc xác minh và bày tỏ ý kiến, tạo niềm tin cho những người quan tâm, củng cố nề nếp hoạt động tài chính và góp phần nâng cao hiệu quả, năng lực quản lý.
Ngày nay trên thế giới xuất hiện nhiều loại hình kiểm toán khác nhau, nếu phân loại theo chủ thể kiểm toán có kiểm toán nhà nước, kiểm toán độc lập, kiểm toán nội bộ. Cùng với sự ra đời và phát triển của các tổ chức kiểm toán độc lập, kiểm toán nhà nước, hoạt động kiểm toán nội bộ cũng phát triển đem lại những trợ giúp tích cực cho các doanh nhiệp trong quá trình sản xuất kinh doanh.
Cho đến nay kiểm toán nội bộ có nhiều cách hiểu khác nhau:
Theo liên đoàn quốc tế (IFAC): “Kiểm toán nội bộ là một hoạt động đánh giá được lập ra cho một ngân hàng như là một loại dịch vụ cho ngân hàng đó có chức năng kiểm tra, đánh giá và giám sát thích hợp và hiệu quả hệ thống kế toán và kiểm soát nội bộ ”
Theo Các chuẩn mực hành nghề kiểm toán nội bộ ban hành tháng 5 năm 1978 : “ Kiểm toán nội bộ là một chức năng thẩm định độc lập dc thiết lập bên trong một tổ chức để xem xét và đánh giá các hoạt động của một tổ chức đó với tư cách là một sự trợ giúp cho tổ chức đó”.
Như vậy kiểm toán nội bộ là một bộ máy thực hiện chức năng kiểm toán trong phạm vi đơn vị, phục vụ yêu cầu quản lý nội bộ đơn vị do các kiểm toán viên không chuyên nghiệp tiến hành.
Để làm đúng và chọn vẹn chức năng của mình, kiểm toán nội bộ có nhiệm vụ sau đây:
- Kiểm tra và đánh giá tính phù hợp, tính hiệu lực và hiệu quả của hệ thống kiểm toán nội bộ trong đơn vị, trong ngân hàng.
- Kiểm tra và xác nhận chất lượng độ tin cậy của thông tin kinh tế, tài chính của các báo cáo tài chính, báo cáo kế toán quản trị của ngân hàng trước khi trình ký duyệt và công bố.
- Kiểm tra và đánh giá sự tuân thủ các nguyên tắc hoạt động, quản lý kinh doanh, đặc biệt sự tuân thủ luật pháp, chính sách, chế độ tài chính, kế toán, chính sách, nghị quyết, quyết định của hội đồng quản trị, của Ban Giám đốc ngân hàng.
- Phát hiện những sơ hở, yếu kém, gian lận trong quản lý, bảo về tài sản của ngân hàng; đề xuất các giải pháp nhằm cải tiến, hoàn thiện hệ thống quản lý, điều hành kinh doanh của ngân hàng.
Tại Việt Nam, sau Quyết định 832 – TC/QĐ/CĐKT ngày 28 tháng 10 năm 1997 hàng loạt các Tæng c«ng ty thành lập kiểm toán nội bộ, đồng thời quy chế kiểm toán nội bộ cũng được ban hành kèm theo hướng dẫn các Tæng c«ng ty nhà nước tổ chức thực hiện công tác kiểm toán nội bộ của Tæng c«ng ty và từng c«ng ty thành viên. Trong quy chế đó có quy định rõ : C«ng ty phải thường xuyên tổ chức kiểm toán nội bộ nhằm đánh giá về chất lượng và độ tin cậy của thông tin kế toán, tài chính; về bảo vệ an toàn tài sản của c«ng ty; về chấp hành pháp luật, chính sách chế độ của Nhà nước cũng như các quyết định, nghị quyết của hội đồng quản trị, của Ban giám đốc c«ng ty đối với hoạt động của c«ng ty.
Theo quy chế kiểm toán nội bộ ban hành, Kiểm toán nội bộ của ngân hàng Thương mại được thực hiện bởi một bộ phận của ngân hàng. Bộ phận này hoạt động không thực hiện một hoạt động tác nghiệp hay điều hành nào mà hoạt động theo các tiêu chuẩn chuyên môn mà các ngân hàng quy định phù hợp với các thông lệ quốc tế và các chuẩn mực của kiểm toán nội bộ. Với các nước phát triển, kiểm toán nội bộ của ngân hàng Thương mại có thẩm quyền thực hiện kiểm toán tất cả các lĩnh vực hoạt động của ngân hàng. Phạm vi kiểm toán bao gồm: tất cả các bộ phận các đơn vị, tất cả các loại thu nhập chi phí, tất cả các hoạt động của ngân hàng.
Vậy đối với hệ thống các ngân hàng Thương mại Việt Nam nói chung thì kiểm toán nội bộ được tổ chức như thế nào? Quy trình hoạt động ra sao?
1. Bộ máy kiểm toán nội bộ
Bộ máy kiểm toán nội bộ của các Ngân hàng Thương mại cổ phần Việt Nam được tổ chức nhằm mục đích giúp Tổng Giám đốc kiểm soát hoạt động kinh doanh của Ngân hàng và các đơn vị thành viên theo đúng quy định của pháp luật và quy định nội bộ của Ngân hàng cổ phần.
Bộ máy kiểm toán nội bộ Bao gồm Tổng kiểm toán và các Phó Tổng kiểm toán (giúp việc cho Tổng kiểm toán ), kiểm toán trưởng và các kiểm toán viên. Tổng kiểm toán điều hành bộ máy kiểm toán nội bộ. Các kiểm toán viên bố trí tại trụ sở chính của Ngân hàng do Tổng kiểm toán phụ trách; các kiểm toán viên bố trí tại các chi nhánh Ngân hàng do Kiểm toán trưởng phụ trách nếu chi nhánh có phòng kiểm toán nội bộ hoặc do Tổng kiểm toán phụ trách nếu chi nhánh không có phòng kiểm toán nội bộ. Quy chế tổ chức và hoạt động của Bộ máy kiểm toán nội bộ do Tổng giám đốc trình Hội đồng Quản trị phê chuẩn.
Tổng kiểm toán, Phó tổng kiểm toán, kiểm toán trưởng và các kiểm toán viên phải có đầy đủ các tiêu chuẩn quy định tại Điều lệ mẫu của các Ngân hàng.
Tổng kiểm toán do Tổng Giám đốc đề nghị Hội đồng Quản trị bổ nhiệm miễn nhiệm. Phó Tổng kiểm toán và kiểm toán viên do Tổng giám đốc bổ nhiệm, miễn nhiệm theo đề nghị của Tổng kiểm toán
Bộ máy kiểm toán nội bộ có nhiệm vụ sau:
- Kiểm tra công tác quản lý và điều hành của ngân hàng và các đon vị thành viên theo đúng pháp luật và Điều lệ Ngân hàng.
- Kiểm soát nhằm mục đích bảo đảm quy trình thực hiện các hoạt động nghiệp vụ kinh doanh theo đúng quy định của pháp luật về hoạt động ngân hàng và quy định nội bộ của Ngân hàng Thương mại.
- Giám sát việc chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của Ngân hàng Thương mại về bảo đảm an toàn trong hoạt động kinh doanh Ngân hàng của các ngân hàng Thương mại và các đơn vị thành viên
- Đánh giá mức độ bảo đảm an toàn trong hoạt động kinh doanh ngân hàng và kiến nghị các biện pháp nâng cao khả năng