Xuất khẩu là một cơ sở của nhập khẩu và hoạt động kinh doanh để đem lại lợi
nhuận lớn, là phương tiện thúc đẩy phát triển kinh tế. Mở rộng xuất khẩu để tăng
thu ngoại tệ, tạo điều kiện cho nhập khẩu và phát triển cơ sở hạ tầng. Nhà nước ta
luôn luôn coi trọng và thúc đẩy các ngành kinh tế hướng theo xuất khẩu, khuyến
khích các thành phần kinh tế mở rộng xuất khẩu để giải quyết công ăn việc làm và
tăng thu ngoại tệ.
33 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2233 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Hoạt động xuất khẩu da giầy Việt Nam sau 1990, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
z
TIỂU LUẬN:
Hoạt động xuất khẩu da giầy
Việt Nam sau 1990
Lời nói đầu
Mặt hàng giày dép là mặt hàng xuất khẩu chủ lực của nước ta trong giai đoạn
2001 - 2010. Ngành đã có đóng góp to lớn trong kim ngạch xuất khẩu, hiện đứng
thứ ba sau dầu thô và dệt may, có triển vọng rất tolớn và sẽ phát triển rất mạhh tự
hoàn thiện thành một ngành công nghiệp sản xuất giày thực thụ. Vấn đề cấp bách
đặt ra hiện nay là làm thế nào Việt Nam có thể tự sản xuất giày mà không lệ thuộc
vào phía nước ngoài từ nguyên - phụ liệu mẫu mã cho đến đầu ra của sản phẩm. Vì
vậy việc tìm ra giải pháp hữu hiệu để thúc đẩy xuất khẩu da giày là rất quan trọng.
Chương I
Cơ sở lý luận của hoạt động xuất khẩu
I. Khái niệm và vai trò xuất khẩu trong nền kinh tế
1. Khái niệm về hoạt động xuất khẩu.
Xuất khẩu là một cơ sở của nhập khẩu và hoạt động kinh doanh để đem lại lợi
nhuận lớn, là phương tiện thúc đẩy phát triển kinh tế. Mở rộng xuất khẩu để tăng
thu ngoại tệ, tạo điều kiện cho nhập khẩu và phát triển cơ sở hạ tầng. Nhà nước ta
luôn luôn coi trọng và thúc đẩy các ngành kinh tế hướng theo xuất khẩu, khuyến
khích các thành phần kinh tế mở rộng xuất khẩu để giải quyết công ăn việc làm và
tăng thu ngoại tệ.
2. Vai trò của xuất khẩu trong nền kinh tế.
a) Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu.
Công nghiệp hoá đất nước đòi hỏi phải có số vốn rất lớn để nhập khẩu máy
móc, thiết bị, kỹ thuật, vật tư và công nghệ tiên tiến.
Nguồn vốn để nhập khẩu có thể được hình thành từ các nguồn như :
- Liên doanh đầu tư nước ngoài với nước ta.
- Vay nợ, viện trợ, tài trợ.
- Thu từ hoạt động du lịch, dịch vụ.
- Xuất khẩu sức lao động…
Trong các nguồn vốn như đầu tư nước ngoài, vay nợ và viện trợ… cũng phải
trả bằng cách này hay cách khác. Để nhập khẩu, nguồn vốn quan trọng nhất là từ
xuất khẩu. Xuất khẩu quyết định quy mô và tốc độ tăng của nhập khẩu.
Thời kỳ 1986- 1990 nguồn thu của nước ta về xuất khẩu chiếm 3/4 tổng nguồn
thu ngoại tệ, năm 1994 thu xuất khẩu đã đảm bảo được 80% nhập khẩu so với
24,6% năm 1986. Với xu hướng này các năm sau kim ngạch xuất khẩu đều tăng lên
so với các năm trước đó.
b) Xuất khẩu góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế sang nền kinh tế hướng
ngoại.
Thay đổi cơ cấu sản xuất và tiêu dùng một cách có lợi nhất, đó là thành quả
của cuộc cách mạng khoa học, công nghệ hiện đại. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế
trong qúa trình công nghiệp hoá ở nước ta là phù hợp với xu hướng phát triển của
kinh tế thế giới.
Sự tác động của xuất khẩu đối với sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế có
thể được nhìn nhận theo các hướng sau :
+ Xuất khẩu những sản phẩm của nước ta cho nước ngoài.
+ Xuất phát từ nhu cầu của thị trường thế giới để tổ chức sản xuất và xuất
khẩu những sản phẩm mà các nước khác cần. Điều đó có tác động tích cực đến
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển.
+ Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành liên quan có cơ hội phát triển thuận
lợi. Ví dụ, khi phát triển dệt xuất khẩu sẽ tạo cơ hội cho việc phát triển ngành sản
xuất nguyên liệu như bông hay thuốc nhuộm. Sự phát triển của công nghiệp chế
biến thực phẩm xuất khẩu, (dầu thực vật, chè…) kéo theo sự phát triển của ngành
công nghiệp chế tạo thiết bị.
+ Xuất khẩu tạo ra khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ, cung cấp đầu vào
cho sản xuất, khai thác tối đa sản xuất trong nước.
+ Xuất khẩu tạo ra những tiền đề kinh tế - kỹ thuật nhằm đổi mới thường
xuyên năng lực sản xuất trong nước. Nói cách khác, xuất khẩu là cơ sở tạo thêm vốn
và kỹ thuật, công nghệ tiên tiến từ thế giới bên ngoài vào Việt Nam nhằm hiện đại
hoá nền kinh tế nước ta.
+ Thông qua xuất khẩu, hàng hoá của Việt Nam sẽ tham gia vào cuộc cạnh
tranh trên thị trường thế giới về giá cả, chất lượng. Cuộc cạnh tranh này đòi hỏi phải
tổ chức lại sản xuất cho phù hợp với nhu cầu với thị trường.
+ Xuất khẩu còn đòi hỏi các doanh nghiệp phải luôn đổi mới và hoàn thiện
công tác quản lý sản xuất, kinh doanh, nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành.
c) Xuất khẩu tạo thêm công ăn việc làm và cải thiện đời sống của nhân dân.
Trước hết, sản xuất hàng xuất khẩu thu hút hàng triệu lao động, tạo ra
nguồn vốn để nhập khẩu vật phẩm tiêu dùng thiết yếu phục vụ đời sống của nhân
dân.
d) Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại
của nước ta.
Xuất khẩu và các quan hệ kinh tế đối ngoại và làm cho nền kinh tế nước
ta gắn chặt với phân công lao động quốc tế. Thông thường hoạt động xuất khẩu ra
đời sớm hơn các hoạt động kinh tế đối ngoại nên có thúc đẩy các quan hệ này phát
triển. Chẳng hạn xuất khẩu và sản xuất hàng xuất khẩu thúc đẩy các quan hệ này
phát triển. Chẳng hạn xuất khẩu và sản xuất hàng xuất khẩu thúc đẩy quan hệ tín
dụng, đầu tư, vận tải Quốc tế… Đến lượt nó chính các quan hệ kinh tế đối ngoại lại
tạo tiền đề cho mở rộng xuất khẩu.
Tóm lại, đẩy mạnh xuất khẩu được coi là vấn đề có ý nghĩa chiến lược để phát
triển kinh tế, thực hiện công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước.
II. Quy trình xuất khẩu.
Trước khi tiến hành xuất khẩu hàng hoá chủ hàng phải chuẩn bị bộ hồ sơ gồm
:
Hợp đồng ngoại thương (1bản sao), Packing list (3 bản chính), tờ khai hải
quan (3 bản chính), hợp đồng ủy thác, giấy phép (nếu có). Quy trình thông quan
xuất khẩu gồm các bước sau :
Bước 1 : Chủ hàng phải tiến hành đăng ký tờ khai hải quan. Công thức 1 sẽ
tiến hành kiểm tra bộ hồ sơ của chủ hàng, kiểm tra khai báo của chủ hàng và cho
đăng ký tờ khai đồng thời tiến hành nhập dữ liệu.
Bước 2 : Bước này do lãnh đạo chi cục đảm nhiệm, có quyền quyết định hình
thức và tỉ lệ kiểm tra, giải quyết những vướng mắc phát sinh và xác nhận thông
quan.
Bước 3 : Đây là bước kiểm hoá và tính thuế do công chức 2 đảm nhiệm. Họ sẽ
tiến hành kiểm tra thực tế lô hàng, kiểm tra tính thuế của chủ hàng. Trên cơ sở tính
thuế của chủ hàng, ra thông báo thu thuế hoặc biên lai thuế.
Bước 4 : Sau khi thu thuế và lệ phí hải quan và tiến hành hoạt động kế toán
thuế và phúc tập hồ sơ, chủ hàng sẽ nhận được hàng.
Tuy nhiên, đối vói hàng được miễn kiểm tra và không thuế thì không phai qua
bước 3.
Khi nộp thuế, thời điểm nộp đối với hàng xuất khẩu là 15 ngày kể từ ngày
doanh nghiệp nhận được thông báo thuế, ở đây là 15 ngày theo lịch.
Nhà nước cũng quy định rõ những hàng hoá của doanh nghiệp được hưởng
chế độ miễn kiểm tra thực tế hoặc miễn kiểm tra toàn bộ lô hàng ; kiểm tra với tỷ lệ
hoặc xác suất không quá 10% ; kiểm tra toàn bộ lô hàng (100% lô hàng). Việc xác
định hình thức và tỷ lệ kiểm tra căn cứ vào số lần vi phạm, mức độ xử phạt hành
chính và số nợ thuế.
III. đặc điểm và vai trò của ngành da giày trên thị trường thế giới và thị
trường Việt Nam.
Ngành công nghiệp giày dép của nhiều nước, nhất là các nước đang phát
triển, có vị trí rất quan trọng trong giai đoạn đầu của qúa trình phát triển kinh tế đất
nước, góp phần tạo ra công ăn việc làm, tham gia vào qúa trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế, tăng thu ngoại tệ qua đẩy mạnh xuất khẩu. Đối với Việt Nam, ngành công
nghiệp giày dép cũng có tầm quan trọng như vậy. Phát triển ngành giầy dép Việt
Nam là phù hợp với xu hướng chuyển dịch cơ cấu đầu tư và cơ cấu kinh tế của thế
giới. Xu hướng chung là những nước công nghiệp và nhiều nước đang phát triển sẽ
tập trung vào việc phát triển các ngành kỹ thuật cao, sử dụng ít lao động, loại bỏ
dần những ngành sử dụng nhiều lao động, hàm lượng khoa học kỹ thuật thấp như
sản xuất giày dép, may mặc.
Các sản phẩm giày và đồ da luôn chiếm vị trí được quan tâm trong đời sống
của mỗi con người vì chúng là một bộ phận của cái mặc, là biểu tượng của trình độ
và tình trạng tiêu dùng của xã hội. Ngày nay, thông qua tiêu dùng xã hội chúng còn
tượng trưng cho nền kinh tế thịnh vượng hay sa sút của một quốc gia, là tiếng nói
bản sắc của cộng đồng sử dụng.
Da giày là một trong những ngành đóng góp chủ yếu vào sự tăng trưởng GDP
cũng như tăng thu nhập chung của đất nước ở thời kỳ trước 2020. Công nghiệp da
giày phát triển sẽ có nguồn thu ngoại tệ sánh được với các mặt hàng coi như “đầu
vị” trong xuất khẩu của nông nghiệp và công nghiệp tiêu dùng. Những năm của
thập niên 90, thế kỷ 20 mặt hàng da giày được xếp vào hạng thứ ba về giá trị xuất
khẩu sau các mặt hàng gạo, dầu khí nhưng đến năm 1999 lại được nâng lên hạng hai
chỉ sau mặt hàng gạo và hiện nay đứng ở vị trí thứ ba sau dầu thô và dệt may. Năm
2001, Bộ thương mại thông báo tất cả các mặt hàng có thuế nhập khẩu xấp xỉ 20%
sẽ được giảm xuống theo Hiệp định chung về thuế quan ưu đãi đã được ký kết. Như
vậy thuế nhập khẩu sẽ bị cắt giảm 20% hoặc ít hơn khi Việt Nam tham gia hoàn
toàn vào khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) sau khi Chính phủ thông qua
danh mục các mặt hàng cắt giảm thuế giai đoạn 2001 -2006. Bộ tài chính đã đưa ra
lộ trình cắt giảm thuế hàng giàydép có đế bằng cao su theo Hiệp định ưu đãi thuế
quan (CEPT/AFTA) như sau: Năm 2001 : 50% ; 2002 : 40% ; 2003 : 35% ; 2004 :
30% ; 2005 : 20% ; 2006 : 5%. Với việc ký kết Hiệp định thương mại Việt - Mỹ
được hưởng quy chế tối huệ quốc (MFN) của Mỹ, trong thời gian tới xuất khẩu
hàng giày dép vào thị trường Mỹ sẽ tăng trưởng rất nhanh.
Tuy nhiên theo nhận xét của các chuyên gia trong ngành, năm 2000 tình hình
sản xuất kinh doanh da giày trên thế giới đang gặp khó khăn. Nền kinh tế Mỹ, Nhật
EU suy giảm, lượng cầu hạ thấp, tiền tệ của thị trường chính (đồng EU) mất giá,
bệnh bò điên và lở mồm long móng gây khủng hoảng nguyên liệu da làm giá đầu
vào tăng… Ngành da giày Việt Nam cũng là nạn nhân của tình trạng này. Nhưng
đáng quan tâm nhất là việc Trung Quốc gia nhập WTO. Lợi thế của ngành da giày
Việt Nam là nhân công rẻ, dồi dào, được hưởng nhiều ưu đãi thuế quan từ những thị
trường lớn nhưng với Trung Quốc với việc các rào cản thương mại được loại bỏ dần
dần, nhân công của họ dồi dào hơn ta và có một bề da dày lịch sử, công nghệ hiện
đại cùng nhiều ưu đãi của Chính phủ Trung Quốc về thuế giá điện, giá thuê đất…
dẫn đến sản phẩm của họ đến tay người tiêudùng thấp hơn ta nhiều.
Hiện nay có gần 75% trong tổng số hơn 11 tỷ đôi giày dép trên thế giới do các
nước đang phát triển ở Châu á, Nam Mỹ…sản xuất. Trong khi đó các nước phát
triển và các nước công nghiệp lại tiêu thụ gần 45% tổng sản lượng giày. Điều này
cho thấy, thế giới thứ 3 ngày càng trở nên mạnh mẽ hơn trong sản xuất giày dép. Họ
đẩy các nước công nghiệp xuống đến mức độ đáng lo ngại với hai lý do chính : Thứ
nhất, đối với các nước đang phát triển sản xuất chủ yếu hàng da như ấn Độ, Nam
Mỹ quan tâm nhiều hơn đến nhu cầu tận dụng mọi nguồn tài nguyên mà không gây
thiệt hại cho nước họ. Thứ hai, mặt bằng chi phí lao động đem lại cho họ lợi thế đến
nỗi những công nghệ tinh vi nhất sẵn có ở các nước phát triển và công nghiệp mới
(CNM) cũng không thể cứu vãn nổi. Ngoài ra, các nước đang phát triển còn có
nhiều lợi thế khác bao gồm chính sách trợ giá cùng các chính sách khuyến khích
khác của quốc gia đã dẫn đến một sân chơi cạnh tranh không thật công bằng. Tuy
vậy, tình trạng không đồng đều vẫn xảy ra như : Nam Mỹ có nhiều da, da chất
lượng cao mà vẫn bị tụt sau ASEAN về sản xuất giày, trong 10 năm qua, sản lượng
giày Nam Mỹ chỉ tăng 15% mà ASEAN lại tăng gấp đôi. Nhiều chuyên gia nghĩ
rằng thế giới sắp trải qua sự suy giảm lớn về sản lượng giày. Có thể các nhà sản
xuất lớn trong liên đoàn giày thế giới ở ý, Pháp, Mỹ, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha…
cũng sẽ phải nhường vị trí cho các nhà sản xuất ở các khu vực khác đặc biệt là ở
ASEAN. Nền công nghiệp giày trên thế giới được chia làm 5 nhóm nước. Các nước
có định hướng xuất khẩu, các nước nhập khẩu có định hướng, các nước được tôn
vinh là “chuyên gia” về thiết kế và sản xuất thời trang có chất lượng cao, các nước
lấy buôn bán là chính, các nước đang cần tổ chức lại. Dự đoán rằng công nghiệp
giày ở nước phát triển và công nghiệp mới lần lượt sẽ phát triển thành một hoạt
động dịch vụ và sẽ được tổ chức với sự phối hợp giữa các hoạt động sản xuất, xuất
khẩu và các dịch vụ khác. Khái quát như sau : Sản xuất ở nội tại các nước phát triển
và công nghiệp mới sẽ giảm tới mức tối thiểu (dưới 20% khoảng 2/3 sản lượng của
họ được sản xuất tại các nhà máy đã chuyển ra ngoài biên giới, khoảng 1/3 sản
lượng giày là phải nhập khẩu hoàn toàn).
Các chuyên gia thuộc Liên đoàn giày Châu Âu cho rằng trong tương lai khó
mà tìm ra bất cứ một sản phẩm nào được sản xuất toàn bộ trong cùng một nước.
Triển vọng của thị trường toàn cầu sẽ được mở rộng, bởi ngành vận tải được cải
thiện và chi phí bảo dưỡng của ngành này sẽ giảm thấp. Tuy nhiên dự báo trung hạn
còn gặp nhiều yếu tố thường hay thayđổi bất ngờ, khó lường. Do đó, cũng rất khó
mà hình dung được trong tương lai những nước nào sẽ có chi phí thấp để tiếp tục
duy trì sản xuất và xuất khẩu giày mạnh. Chi phí lao động chắc chắn có ý nghĩa lớn
đối với sản xuất giày nhưng chưa hẳn đã là đủ điều kiện để trở thành một giải pháp
duy nhất trong sự suy xét để phát triển nghề giày.
Chương II
Tình hình kinh doanh xuất khẩu da giày của Việt Nam
I. Thực trạng và xuất khẩu da giày Việt Nam trước 1990 và các nguyên nhân
dẫn đến khó khăn trong xuất khẩu.
1. Thực trạng xuất khẩu da giày Việt Nam
1.1. Thực trạng xuất khẩu da giày Việt Nam trên thị trường Đông Âu và
Liên Xô cũ.
Trước 1990 ngành da giày Việt Nam chủ yếu thực hiện các hợp đồng hợp tác
gia công mũ giày cho Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu, tiến hành các hoạt
động sản xuất găng tay cao su xuất khẩu cho thị trường Đông Âu với đồng vốn ít ỏi.
Do yêu cầu của sự hợp tác và phân công lao động giữa các nước XHCN cũ, năm
1987, Liên hiệp các xí nghiệp da giày thuộc Bộ công nghiệp nhẹ được thành lập với
nhiệm vụ chủ yếu là gia công mũ giày da, giày vải, găng tay bảo hộ lao động và
hàng mềm xuất khẩu theo các hiệp định kinh tế với Liên Xô cũ và các nước Đông
Âu. Từ đó, ngành da giày Việt Nam đã thực sự trở thành ngành kinh tế -kỹ thuật
độc lập nhưng cơ sở vật chất kỹ thuật còn nghèo nàn, lạc hậu. Sản phẩm làm ra với
mẫu mã đơn giản, chất lượng không cao. Kim ngạch xuất khẩu năm 1987 đạt
33,27tr Rup/USD, năm 1990 đạt 125 tr Rup/USD. Toàn ngành có hơn 50 đơn vị gia
công sản xuất da giày được hình thành trên toàn quốc.
Khi Liên Xô và các nước Đông Âu tan rã đã tác động sâu sắc đến ngành da
giày non trẻ và mới khởi sắc ở Việt Nam. Hầu hết các doanh nghiệp đều không có
việc làm, nhiều doanh nghiệp phải đóng cửa hoặc giải thể, 2/3 trong số 25000 lao
động của ngành phải rời sản xuất và tự lo cuộc sống. Kim ngạch xuất khẩu đang ở
mức 125 tr.Rup/USD tụt xuống 30tr Rup/USD vào năm 1991 và 48tr Rup/USD vào
năm 1992 (chủ yếu là giao nốt số hàng tồn đọng từ năm 1990).
1.2. Thực trạng ngành da giày xuất khẩu.
Trong giai đoạn này ngành da giày Việt Nam chủ yếu thực hiện các hợp đồng
hợp tác gia công mũ giày cho Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu. Khi khối này
tan rã ngành da giày phải trải qua một thời kỳ đầy khó khăn do thiếu đơn hàng (tuy
nhiên giai đoạn này kéo dài không lâu). Trước thực trạng ấy rất nhiều doanh nghiệp
đã bị phá sản hoặc thua lỗ nặng nề. Tuy nhiên vẫn còn một số doanh nghiệp biết
cách tháo gỡ và khắc phục được khó khăn để vươn lên trở thành một trong những
gương mặt sáng của công nghiệp thủ đô.
Ngành da giày Việt Nam chỉ tạo ra được trên 25000 chỗ làm việc cho người
lao động với trình độ kỹ thuật, tay nghề còn kém, hiệu quả làm việc chưa cao. Đồng
thời bị lệ thuộc quá nhiều vào việc cung ứng nguyên vật liệu phụ liệu, hoá chất, phụ
tùng, máy móc từ nước ngoài và nhất là từ chính đối tác đặt sản xuất hoặc mua sản
phẩm của ta, đây chính là nguyên nhân gây ra rất nhiều hạn chế về hiệu quả sản
xuất kinh doanh của các doanh nghiệp ảnh hưởng đến thế cạnh tranh của sản phẩm.
Tình trạng quá yếu kém về tài lực, vốn đầu tư đều phải tự vay với lãi suất cao,
nhiều doanh nghiệp chưa kịp thích ứng với sự thay đổi về chính sách của Nhà nước
nên phần lớn các doanh nghiệp là thực hiện gia công cho nước ngoài.
Ngoài yếu kém về vốn, do ngành mới phát triển nên chưa có đủ uy tín và điều
kiện để trực tiếp xuất khẩu sản phẩm mà phải thông qua nhiều tầng nấc trung gian
mới đưa được hàng tới nơi tiêu thụ ở nước ngoài. Trình độ quản lý kỹ thuật công
nghệ, thiết kế và phát triển mẫu mốt quản lý và vận hành sản xuất kinh doanh của
cán bộ Việt Nam còn yếu kém do mới hình thành ngành kinh tế kỹ thuật, chưa có
trường lớp đào tạo. Phần lớn cán bộ chưa thể tự mình chủ động độc lập điều hành
sản xuất và kỹ thuật một cách khoa học đồng bộ, đúng tiến độ và có chất lượng.
2. Các nguyên nhân dẫn đến khó khăn trong xuất khẩu.
Vào đầu những năm 90 các doanh nghiệp da giày Việt Nam đều rơi vào tình
trạng khó khăn do nhiều nguyên nhân khác nhau.
Thứ nhất, sự lạc hậu về nhà xưởng, trang thiết bị, đặc biệt là việc bố trí mặt
bằng, trang bị kỹ thuật, máy móc bất hợp lý và lãng phí, vệ sinh công nghiệp kém,
môi trường công nghiệp lạc hậu là đặc điểm phổ biến của các doanh nghiệp ở các
nước đã từng hoạt động theo mô hình quản lý kế hoạch hoá quan liêu bao cấp mà
Việt Nam là một trong những điển hình. Đây thực sự là một trở lực cho việc đưa cái
mới vào hoạt động quản lý.
Thứ hai là hoạt động trong điều kiện thiếu thông tin và do vậy không nhanh
nhạy với thị trường. Phần lớn các doanh nghiệp đều lúng túng trong việc tổ chức
hoạt động thông tin điều đó một phần quan trọng bắt nguônf từ mô hình và cơ cấu
tiêu dùng tổ chức doanh nghiệp chưa có sự đổi mới cần thiết, phần khác do sự hỗ
trợ bên ngoài như các cơ quan Nhà nước cán bộ, sở quản lý ngành chuyên ngành
còn yếu.
Thứ ba là do phần lớn các doanh nghiệp có cán bộ dôi dư lớn không mạnh dạn
đổi mới cơ cấu doanh nghiệp, còn theo mô hình tổ chức phòng ban cũ, do vậy
không tạo ra sự chuyển biến đồng bộ và tác phong mới trong hoạt động sản xuất
kinh doanh và sự đồng bộ trong việc giải quyết vấn đề chất lượng.
Ngoài ra nhận thức về quản lý chất lượng sản phẩm còn nhiều điều chưa rõ,
nhận thức về tác động của cơ chế thị trường còn phiến diện nặng về tác động tiêu
cực, từ đó tìm cách đối phó bằng các biện pháp không cơ bản, như móc nối mua bán
không trung thực, không thấy được yếu tố cơ bản của sự cạnh tranh là uy tín, chất
lượng sản phẩm, chất lượng dịch vụ.
Vấn đề sở hữu và quan hệ sở hữu trong khu vực Nhà nước chưa được giải
quyết triệt để cũng làm hạn chế sự vươn lên, sáng tạo, dám nghĩ dàm làm của đội
ngũ cán bộ quản lý. Bên cạnh đó cơ chế quản lý ở tầm vĩ mô còn những hạn chế, gò
bó chưa đảm bảo quyền tự chủ sản xuất kinh doanh và sự chịu trách nhiệm của các
doanh nghiệp. Tổ chức các doanh nghiệp của ta nằm trong các quan hệ ràng buộc
phức tạp và nhìn chung là cồng kềnh cán bộ công nhân đông mà không mạnh, trình
độ kiến thức tay nghề hiểu biết về cơ chế thị trường còn hạn chế. Phần lớn các
doanh nghiệp thuộc loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ năng lực tài chính yếu, khả
năng đổi mới công nghệ hạn chế. Đại bộ phận doanh nghiệp phụ trách một hoặc vài
sản phẩm theo chu trình khép kín từ khâu đầu đến sản phẩm cuối cùng.
Bên cạnh những nguyên nhân gây ra tình trạng khó khăn trong hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp xuất khẩu nói chung, doanh nghiệp da giày Việt
Nam rơi vào tình trạng khó khăn do một số nguyên nhân khác. Chủ yếu là do việc
các nhà quản lý chưa thích ứng kịp với những đòi hỏi khắc nghiệt của cơ chế thị
trường mới được vận hành trong nền kinh tế đất nước. Mặt khác, một số thị trường
truyền thống thuộc các nước xã hội chủ nghĩa cũ không còn được duy trì do biến
động chính trị về phía doanh nghiệp là sự thiếu vốn trầm trọng, đội ngũ công nhân
tay nghề kém…
3. Đánh giá thực trạng của ngành da giày và hoạt động xuất khẩu.
Công nghiệp da giầy là ngành sản xuất gắn liền với nhu cầu mặc và thời trang:
Ngành công nghiệp da giày Việt Nam có vị trí quan trọng đối với nền kinh tế, là
ngành thu hút nhiều lao động, cung cấp nhiều sản phẩm tiêu dùng trong nước