Huy động vốn tại chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn mỹ hào - Thực trạng và giải pháp

Đất nước ta đang trong thời kì đổi mới, phát triển kinh tế, ổn định chính trị và xã hội đang là nhiệm vụ trọng tâm trong giai đoạn hiện nay. Từ một nền kinh tế kém phát triển thu nhập bình quân đầu người thấp, cơ sở hạ tầng thấp kém về mọi mặt. Do vậy, để phát triển chúng ta cần phải có vốn, Đảng và nhà nước ta đã xác định phát triển kinh tế ổn định và vững chắc có trọng tâm trong đầu tư. Do đó chủ trương “vốn trong nước là quyết định, vốn nước ngoài là quan trọng” luôn được quán triệt trong quản lý kinh tế, quản lý đầu tư và đặc biệt trong hoạt động tín dụng đầu tư. Trong khi thị trường vốn ở nước ta chưa phát triển thì kênh dẫn vốn quan trọng cho hoạt kinh tế nói chung và hoạt động đầu tư đầu tư phát triển nói riêng hiện nay chính là hệ thống ngân hàng. Nhờ có hệ thống này mà vốn được lưu chuyển từ nơi thừa sang nơi thiếu, giúp cho việc lưu chuyển vốn hiệu quả, tạo vốn cho các công cuộc đầu tư góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển. Thực hiện đường lối phát triển của Đảng và Nhà nước trong những năm qua ngành ngân hàng nói chung và ngân hàng Nông nghiệp&phát triển nông thôn (NHNo&PTNT) nói riêng đã không ngừng đổi mới và hoàn thiện cho phù hợp với tình hình mới, tăng cường công tác huy động mọi nguồn vốn cho đầu tư phát triển, đẩy mạnh cho vay đối với các thành phần kinh tế, hiện đại hoá công nghệ ngân hàng. Chính vì vậy đã góp phần quan trọng vào công cuộc đầu tư thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng với tốc độ cao, kiềm chế lạm phát và ổn định đời sống nhân dân. Song bên những thành công và kết quả đạt được thì hệ thống ngân hàng nói chung và NHNo&PTNT riêng đang còn tồn tại nhiều yếu kém đó là nguồn vốn huy động có thời gian dài còn thiếu, công tác huy động còn nhiều bất cập, hệ thống ngân hàng chưa đáp ứng được nhu cầu huy động vốn cho nền kinh tế Như ta đã biết, Ngân hàng thương mại (NHTM) với vai trò trung gian tài chính trong việc huy động vốn để tái cấp vốn cho nền kinh tế là quan trọng nhất. Tuy nhiên ngân hàng là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt chủ yếu kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ cho nên bắt buộc phải hoạt động có hiệu quả để vừa đảm bảo mục tiêu an toàn trong hoạt động vừa có thể đứng vững trong nền kinh tế thị trường và qua đó thực hiện có hiệu quả vai trò dẫn vốn của mình. Chi nhánh NHNo&PTNT Mỹ Hào là một chi nhánh thành viên của NHNo&PTNT Việt Nam. Với hoạt động chủ yếu trên lĩnh vực nông nghiệp nông thôn, cũng giống như các NHTM khác, chi nhánh rất quan tâm tới nguồn vốn huy động từ nền kinh tế để có thể tiến hành hoạt động kinh doanh. Nhận thức được vấn đề này, sau một thời gian thực tập tại NHNo&PTNT Mỹ Hào, được sự giúp đỡ tận tình của ban lãnh đạo, cán bộ nhân viên phòng kế toán cũng như sự hướng dẫn của thầy giáo Lã Thị Lâm và được tiếp cận với các hoạt động của ngân hàng, em đã chọn đề tài nghiên cứu với nội dung: "HUY ĐỘNG VỐN TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN MỸ HÀO - THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP" Ngoài lời mở đầu và kết luận, bố cục của chuyên đề gồm 3 chương: Chương I: Những vấn đề lý luận chung về tình hình huy động vốn của NHTM. Chương II: Thực trạng công tác huy động vốn tại NHNo&PTNT Mỹ Hào. Chương III: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác huy động vốn tại NHNo&PTNT Mỹ Hào.

docx88 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2432 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Huy động vốn tại chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn mỹ hào - Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU Đất nước ta đang trong thời kì đổi mới, phát triển kinh tế, ổn định chính trị và xã hội đang là nhiệm vụ trọng tâm trong giai đoạn hiện nay. Từ một nền kinh tế kém phát triển thu nhập bình quân đầu người thấp, cơ sở hạ tầng thấp kém về mọi mặt. Do vậy, để phát triển chúng ta cần phải có vốn, Đảng và nhà nước ta đã xác định phát triển kinh tế ổn định và vững chắc có trọng tâm trong đầu tư. Do đó chủ trương “vốn trong nước là quyết định, vốn nước ngoài là quan trọng” luôn được quán triệt trong quản lý kinh tế, quản lý đầu tư và đặc biệt trong hoạt động tín dụng đầu tư. Trong khi thị trường vốn ở nước ta chưa phát triển thì kênh dẫn vốn quan trọng cho hoạt kinh tế nói chung và hoạt động đầu tư đầu tư phát triển nói riêng hiện nay chính là hệ thống ngân hàng. Nhờ có hệ thống này mà vốn được lưu chuyển từ nơi thừa sang nơi thiếu, giúp cho việc lưu chuyển vốn hiệu quả, tạo vốn cho các công cuộc đầu tư góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển. Thực hiện đường lối phát triển của Đảng và Nhà nước trong những năm qua ngành ngân hàng nói chung và ngân hàng Nông nghiệp&phát triển nông thôn (NHNo&PTNT) nói riêng đã không ngừng đổi mới và hoàn thiện cho phù hợp với tình hình mới, tăng cường công tác huy động mọi nguồn vốn cho đầu tư phát triển, đẩy mạnh cho vay đối với các thành phần kinh tế, hiện đại hoá công nghệ ngân hàng... Chính vì vậy đã góp phần quan trọng vào công cuộc đầu tư thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng với tốc độ cao, kiềm chế lạm phát và ổn định đời sống nhân dân. Song bên những thành công và kết quả đạt được thì hệ thống ngân hàng nói chung và NHNo&PTNT riêng đang còn tồn tại nhiều yếu kém đó là nguồn vốn huy động có thời gian dài còn thiếu, công tác huy động còn nhiều bất cập, hệ thống ngân hàng chưa đáp ứng được nhu cầu huy động vốn cho nền kinh tế… Như ta đã biết, Ngân hàng thương mại (NHTM) với vai trò trung gian tài chính trong việc huy động vốn để tái cấp vốn cho nền kinh tế là quan trọng nhất. Tuy nhiên ngân hàng là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt chủ yếu kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ cho nên bắt buộc phải hoạt động có hiệu quả để vừa đảm bảo mục tiêu an toàn trong hoạt động vừa có thể đứng vững trong nền kinh tế thị trường và qua đó thực hiện có hiệu quả vai trò dẫn vốn của mình. Chi nhánh NHNo&PTNT Mỹ Hào là một chi nhánh thành viên của NHNo&PTNT Việt Nam. Với hoạt động chủ yếu trên lĩnh vực nông nghiệp nông thôn, cũng giống như các NHTM khác, chi nhánh rất quan tâm tới nguồn vốn huy động từ nền kinh tế để có thể tiến hành hoạt động kinh doanh. Nhận thức được vấn đề này, sau một thời gian thực tập tại NHNo&PTNT Mỹ Hào, được sự giúp đỡ tận tình của ban lãnh đạo, cán bộ nhân viên phòng kế toán cũng như sự hướng dẫn của thầy giáo Lã Thị Lâm và được tiếp cận với các hoạt động của ngân hàng, em đã chọn đề tài nghiên cứu với nội dung: "HUY ĐỘNG VỐN TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN MỸ HÀO - THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP" Ngoài lời mở đầu và kết luận, bố cục của chuyên đề gồm 3 chương: Chương I: Những vấn đề lý luận chung về tình hình huy động vốn của NHTM. Chương II: Thực trạng công tác huy động vốn tại NHNo&PTNT Mỹ Hào. Chương III: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác huy động vốn tại NHNo&PTNT Mỹ Hào. Vấn đề trên là một lĩnh vực nghiên cứu phức tạp, đan xen nhiều yếu tố vĩ mô và vi mô, mang tính khách quan và chủ quan. Bản thân em trong quá trình nghiên cứu và tìm hiểu cả về lý luận, thực tiễn còn có những hạn chế nhất định, không tránh khỏi thiếu sót. Em xin chân thành cảm ơn cô giáo hướng dẫn Lã Thị Lâm và đơn vị thực tập đã giúp đỡ em trong quá trình nghiên cứu đề tài. CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TÌNH HÌNH HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI NHỮNG LÝ LUẬN CHUNG VỀ NHTM VÀ HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.1 Tổng quan về NHTM 1.1.1 Khái niệm Ngân hàng thương mại đã có một quá trình hình thành và phát triển lâu dài. Ngay nửa đầu thế kỷ XVI, ở Châu Âu đã ra đời một số ngân hàng đầu tiên mà tiền thân là những tổ chức cho vay nặng lãi. Vào thời điểm này, ngân hàng phát triển ở trình độ thấp, hoạt động của ngân hàng chỉ gói gọn trong lĩnh vực giữ hộ tiền và cho vay. Cùng với sự phát triển không ngừng của nền kinh tế, hoạt động của NHTM cũng được từng bước được củng cố và hoàn thiện, chuyển hoá dần theo hướng đa năng. Theo một số chuyên gia về ngân hàng trên thế giới thì ngân hàng trong nền kinh tế trên thị trường được quan niệm là “Ngân hàng là một doanh nghiệp đặc biệt hoạt động trong lĩnh vực tài chính tiền tệ, tuân thủ theo pháp luật theo đuổi mục tiêu lợi nhuận”. Theo luật các tổ chức tín dụng của Việt Nam được Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam khóa X, kỳ họp thứ 2 thông qua ngày 12/12/1997 “Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Và hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ, các dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán”. Theo các nhà Kinh tế học thế giới thì “Ngân hàng Thương mại là một loại hình doanh nghiệp hoạt động và kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ và tín dụng”. Theo cách tiếp cận trên phương diện những loại hình dịch vụ mà ngân hàng cung cấp thì “NHTM là một loại hình tổ chức tài chính, cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất, đặc biệt là tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất định so với bất kỳ một tổ chức nào trong nền kinh tế”. Theo tính chất và hoạt động, các loại hình ngân hàng gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng phát triển, ngân hàng đầu tư, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác và các loại hình ngân hàng khác. Qua đây chúng ta có thể thấy rằng trên mỗi phương diện khác nhau tại mỗi quốc gia khác nhau lại có những quan niệm, nhìn nhận khác nhau, tuy nhiên tất cả điều đó đều cho chúng ta những cách hiểu sâu hơn về khái niệm ngân hàng nói chung và Ngân hàng Thương Mại nói riêng đồng thời qua đó giúp chúng ta có thể hiểu rõ hơn về các hoạt động và các loại hình dịch vụ mà ngân hàng cung cấp. Tuy nhiên, để hiểu rõ hơn khái niệm về NHTM chúng ta cần xem xét đặc điểm của ngân hàng thương mại: Trước hết, hoạt động NHTM là hình thức kinh doanh kiếm lời, theo đuổi mục tiêu lợi nhuận là chủ yếu. Ngân hàng thực hiện hai hình thức hoạt động là kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng. Trong đó, hoạt động kinh doanh tiền tệ được biểu hiện ở nghiệp vụ huy động vốn dưới các hình thức khác nhau, để cấp tín dụng cho khách hàng có yêu cầu về vốn với mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận. Ngân hàng thương mại là người “đi vay để cho vay” nhằm mục đích kiếm lời. Các hoạt động dịch vụ ngân hàng được biểu hiện thông qua các nghiệp vụ sẵn có về tiền tệ, thanh toán, ngoại hối, chứng khoán, để cam kết thực hiện công việc nhất định cho khách hàng trong một thời gian nhất định nhằm mục đích thu phí dịch vụ hoặc hoa hồng. Hai là, hoạt động ngân hàng thương mại phải tuân thủ theo quy định của pháp luật, nghĩa là chỉ khi NHTM thoả mãn đầy đủ các điều kiện khắt khe do pháp luật qui định như điều kiện về vốn, phương án kinh doanh...thì mới được phép hoạt động trên thị trường. Ba là, hoạt động Ngân hàng thương mại là hình thức kinh doanh có độ rủi ro cao hơn nhiều so với các hình thức kinh doanh khác và thường có ảnh hưởng sâu sắc tới các ngành khác và cả nền kinh tế. 1.1.2 Chức năng của NHTM Tầm quan trọng của Ngân hàng thương mại được thể hiện qua các chức năng của nó. Các nhà kinh tế học đã ví ngân hàng thương mại là trái tim của nền kinh tế. Ngân hàng hút tiền về, bơm tiền đi vì thế các nguồn vốn nhàn rỗi được khơi thông đưa tiền từ nơi thừa đến nơi thiếu, giúp cho quá trình lưu chuyển tiền tệ một cách hiệu quả. Các chức năng của NHTM có thể được nêu ra dưới nhiều khía cạnh khác nhau, nhưng bao gồm ba chức năng chủ yếu: chức năng trung gian tín dụng, chức năng trung gian thanh toán và chức năng tạo tiền của ngân hàng thương mại. Ngân hàng Thương mại - trung gian tín dụng Đây là chức năng đặc trưng và cơ bản nhất của Ngân hàng thương mại và có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Thực hiện chức năng trung gian tín dụng, ngân hàng là “cầu nối” giữa cung và cầu vốn trong nền kinh tế, khơi nguồn vốn từ những người có vốn nhàn rỗi sang những người có nhu cầu về vốn. Trong nền kinh tế, do các đơn vị kinh tế có nhu cầu về tiền, vốn vào thời điểm khác nhau là khác nhau, gây ra hiện tượng thừa, thiếu tạm thời. Ngân hàng Thương mại là người trung gian có vai trò chuyển đổi kỳ hạn nợ, thay đổi thời kỳ đáo hạn của các khoản, món nợ. Ngân hàng Thương mại huy động và tập trung các nguồn vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi của các chủ thể trong nền kinh tế để hình thành nguồn vốn cho vay. Mặt khác, trên cơ sở số vốn đã huy động được, ngân hàng cho vay để đáp ứng nhu cầu vốn sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng, của các chủ thể kinh tế góp phần đảm bảo sự vận động liên tục của guồng máy kinh tế xã hội, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Như vậy, Ngân hàng Thương mại vừa là người đi vay, vừa là người cho vay. Ngân hàng Thương mại - trung gian thanh toán Việc làm trung gian thanh toán của Ngân hàng ngày nay đã phát triển đến tầm mức rất đa dạng, không chỉ là trung gian truyền thống như trước, mà còn quản lý các phương tiện thanh toán bằng cách trích số dư tiền gửi trên tài khoản của người mua chuyển sang tài khoản của người bán theo lệnh của chủ tài khoản. Đây là vai trò ngày càng chiếm vị trí rất quan trọng, phù hợp với sự phát triển và tiến bộ của khoa học kỹ thuật. Với phương pháp công nghệ hiện đại hơn, các NHTM từng bước trang bị đầy đủ các máy vi tính và các phương tiện kỹ thuật khác tạo điều kiện, thanh toán bù trừ được nhanh chóng giảm bớt chi phí và có độ chính xác cao. Như vậy Ngân hàng đã tiết kiệm cho xã hội rất nhiều về chi phí lưu thông, đẩy nhanh tốc độ luân chuyển vốn, thúc đẩy quá trình lưu thông hàng hoá. Chức năng tạo ra tiền Ngân hàng trong hệ thống Ngân hàng hai cấp Vào thế kỷ 19, hệ thống Ngân hàng hai cấp đã được hình thành, các Ngân hàng không còn hoạt động riêng lẻ mà đã tạo nên một hệ thống, trong đó Ngân hàng Trung ương là cơ quan quản lý về tiền tệ tín dụng, là Ngân hàng của các Ngân hàng, còn các Ngân hàng Thương mại chuyên kinh doanh tiền tệ. Nhờ hoạt động trong hệ thống mà các Ngân hàng Thương mại đã tạo ra bút tệ. Việc tạo ra bút tệ là sáng kiến quan trọng trong lịch sử hoạt động Ngân hàng. Chức năng tạo ra bút tệ được thực hiện thông qua hoạt động tín dụng và đầu tư của NHTM trong mối quan hệ tuỳ thuộc vào Ngân hàng trung ương (NHTW). Nhờ nhận tiền ký thác của khách hàng, Ngân hàng Thương mại có khả năng đầu tư. Nhưng khi đầu tư, Ngân hàng tạo ra tiền ký thác mới, còn gọi là tiền bút tệ, tiền chuyển khoản, từ đó Ngân hàng Thương mại trở thành người cung ứng tiền bút tệ quan trọng trong nền kinh tế. Từ những chức năng cơ bản trên ta cũng có thể thấy được vai trò to lớn của Ngân hàng Thương mại trong nền kinh tế. Hoạt động của Ngân hàng Thương mại đẩy nhanh quá trình thanh toán, giảm chi phí giao dịch và tạo môi trường thuận lợi cho quá trình lưu chuyển vốn của nền kinh tế, nâng cao chất lượng của quá trình tập trung và phân phối nguồn vốn. NHTM còn là bộ máy tạo tiền, nó có vai trò quan trọng trong việc thực thi chính sách tiền tệ và góp phần vào hoạt động điều tiết vĩ mô dưới sự tác động của Ngân hàng Trung ương và các chính sách của Nhà nước. 1.1.3 Vai trò của NHTM Cùng với sự phát triển của nhiều ngành nghề khác nhau, từ khi ra đời và phát triển Ngân hàng thương mại đã đóng góp vai trò rất quan trọng trong việc xây dựng và phát triển kinh tế thế giới. Ở tất cả các nước, hệ thống NHTM đã không ngừng phát triển, đóng vai trò tập trung những khoản tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế để cung ứng vốn cho các nhà đầu tư cần vốn. Đó là quá trình huy động vốn và sử dụng vốn của các NHTM. Bằng hoạt động của mình NHTM đã đóng góp một lượng vốn đáng kể và hàng loạt các dịch vụ Ngân hàng khác cho nền kinh tế. Một là: NHTM là nơi cung cấp tín dụng cho nền kinh tế, là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư. Là một trung gian tín dụng NHTM đã tích tụ và tập trung được một khối lượng lớn tiền tạm thời nhàn rỗi thông qua nghiệp vụ huy động vốn và thực hiện các dịch vụ Ngân hàng cho khách hàng. Từ nguồn tiền đó tiến hành cấp phát tín dụng cho các thành phần kinh tế, những tổ chức và cá nhân cần vốn để phục vụ cho nhu cầu chi tiêu của mình. Tức là Ngân hàng đóng vai trò là người môi giới giữa một bên là những người có tiền nhàn rỗi có thể cho vay và một bên là những người cần vay vốn. Thực hiện chức năng này tức là Ngân hàng đã trở thành người khơi thông và kích hoạt các nguồn vốn, làm cho nguồn tiền tệ luôn hoạt động và sinh lãi. Những hoạt động đó của NHTM đã thực sự tác động điều hòa cung cầu tiền tệ, biến những đồng tiền nhàn rỗi thành những đồng tiền hoạt động có ích, tập trung vốn vào việc tài trợ cho các ngành kinh tế khác phát triển, tạo thêm việc làm cho người lao động và bằng những khoản tín dụng nhỏ thích hợp giúp người lao động có thêm điều kiện ổn định và cải thiện đời sống. Hai là: Ngân hàng giúp cho các kinh doanh trong việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Ngân hàng tài trợ vốn cho các Doanh nghiệp trên cơ sở phải tuân thủ các điều kiện do Ngân hàng đặt ra. Trong đó các khoản tín dụng mà Doanh nghiệp nhận được đều phải trả lãi và khi hết thời gian sử dụng phải hoàn trả gốc. Vì vậy để đảm bảo an toàn tài sản cho Ngân hàng và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cho các doanh nghiệp thì trước khi cho vay, Ngân hàng cần phải thẩm định phương án sử dụng vốn vay của Doanh nghiệp, thẩm định tính khả thi của dự án, thẩm định các yếu tố liên quan đến Doanh nghiệp (Uy tín, trình độ nhân viên, tài sản đảm bảo…) một cách chính xác rõ ràng, chi tiết, qua đó cán bộ tín dụng giúp Doanh nghiệp xây dựng phương án sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Sau khi cho Doanh nghiệp vay vốn, Ngân hàng vẫn tiếp tục tiến hành giám sát quá trình sử dụng vốn vay của doanh nghiệp và thông qua hoạt động thanh toán hộ thì Ngân hàng có thể giúp doanh nghiệp quản lý tốt hơn về vốn và sử dụng vốn. Ba là: Ngân hàng khuyến khích tiết kiệm trong nền kinh tế. Bất kỳ đối tượng nào trong nền kinh tế gửi tiền vào Ngân hàng đều được hưởng lãi, điểu đó có nghĩa là khi nào thu nhập của người gửi tiền sẽ tăng lên. Người gửi tiền có thể gửi theo bất kỳ phương thức nào, bất kỳ thời hạn nào. Các cá nhân có số tiền nhàn rỗi chưa sử dụng đến thì có thể gửi vào Ngân hàng khi cần thì có thể rút ra bất cứ lúc nào. Thông qua chính sách lãi suất Ngân hàng đã khuyến khích khách hàng tiết kiệm tiêu dùng hiện tại để có tăng tiêu dùng trong tương lai. Bốn là: Hoạt động Ngân hàng có tác dụng điều tiết sự dịch chuyển của vốn đầu tư dẫn đến bình quân hóa tỷ suất lợi nhuận, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế và phát triển vùng. Trong hoạt động tài trợ của mình, Ngân hàng có thể tài trợ đối với tất cả các đơn vị cá nhân trong nền kinh tế dưới các hình thức khác nhau. Với hệ thống các Ngân hàng chuyên doanh cùng với mạng lưới chân rết của mình, NHTM có mặt ở hầu hết các địa bàn trong phạm vi cả nước. Thông qua đó Ngân hàng sẽ tiến hành cho vay đối với những ai cần vốn mà đáp ứng được các điều kiện của Ngân hàng thì Ngân hàng sẽ tiến hành cho vay. Ngoài ra khi có sự ưu tiên của nhà nước về phát triển ngành nghề hoặc vùng kinh tế nào đó thì Chính phủ đưa ra những chính sách riêng cho từng vùng và thông qua hệ thống NHTM sẽ tiến hành cung ứng vốn cho những vùng đó. Hoạt động tín dụng Ngân hàng ngày càng phát triển đã làm cho việc di chuyển vốn diễn ra một cách dễ dàng, tập trung duy trì lực lượng bình quân từ tất cả các ngành. Đồng thời với sự tác động của Ngân hàng vốn được dịch chuyển từ vùng thừa vốn sang vùng thiếu vốn đảm bảo cho sự phát triển đồng đều giữa các ngành, xóa dần sự khác biệt, thúc đẩy nền kinh tế phát triển ổn định. Năm là: Hoạt động của Ngân hàng góp phần chống lạm phát. Với đặc điểm của NHTM là một tổ chức trung gian tài chính với các hoạt động chủ yếu là huy động vốn, cho vay và thực hiện chức năng trung gian thanh toán. Lượng tiền lưu thông được Ngân hàng kiểm soát. Thông qua các khoản mục của NHTM, NHTW sẽ xác định được lượng tiền mặt đang lưu thông trong nền kinh tế, từ đó có thể có các biện pháp kiểm soát nhằm đề phòng và hạn chế những ảnh hưởng xấu có thể xảy ra. Trường hợp nếu xảy ra lạm phát thì bằng các nghiệp vụ của mình, NHTW sẽ tiến hành điều chỉnh tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tăng lãi suất chiết khấu hoặc tái chiết khấu, tham gia vào thị trường mở để tác động tới NHTM để qua nó làm thay đổi lượng tiền trong lưu thông. Sáu là: Ngân hàng tài trợ cho các hoạt động xuất nhập khẩu, thúc đẩy phát triển thương mại quốc tế. Thương mại quốc tê ngày càng phát triển, cùng với xu thế khu vực hóa và toàn cầu hóa thì các mối quan hệ kinh tế quốc tế giữa các quốc gia đóng vai trò ngày càng quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Cùng hòa chung với xu thế đó NHTM cũng đóng vai trò rất quan trọng trong việc đưa nền kinh tế của quốc gia mình hội nhập với nền kinh tế thế giới. Bằng các hoạt động của mình như tài trợ xuất nhập khẩu, thực hiện các hình thức thanh toán, bảo lãnh…đã góp phần thúc đẩy việc chu chuyển hàng hóa dịch vụ giữa các quốc gia với nhau một cách thuận lợi và nhanh chóng. 1.2 Hoạt động huy động vốn của Ngân hàng Thương mại 1.2.1 Khái niệm về huy động vốn Ngân hàng thương mại hoạt động và phát triển được chủ yếu nhờ vào lượng tiền mà nó huy động được từ nền kinh tế. Trong bối cảnh cạnh tranh quyết liệt trong lĩnh vực tài chính tiền tệ như hiện nay, để có được nguồn vốn lớn đòi hỏi các ngân hàng thương mại phải có biện pháp huy động vốn hợp lý, từ đó thu hút được lượng vốn cần thiết trong nền kinh tế, để phục vụ cho hoạt động của ngân hàng thương mại. Công tác huy động vốn của ngân hàng có thể hiểu là những công cụ, cách thức, phương pháp và chương trình cụ thể nhằm thu hút sự chú ý của các cá nhân, các tổ chức và từ đó gửi tiền vào ngân hàng trên cơ sở hai bên đều có lợi. Như vậy có thể dễ dàng nhận thấy công tác huy động vốn của ngân hàng thương mại cũng là một phần trong chính sách marketing mà ngân hàng đang sử dụng, tuy nhiên nó luôn được sự quan tâm chỉ đạo sát sao từ phía lãnh đạo ngân hàng. 1.2.2 Vai trò của nguồn vốn huy động Đối với nền kinh tế: Nước ta đang trong tiến trình xây dựng một nền kinh tế vững mạnh vận động theo cơ chế thị trường, việc này đồng thời với vấn đề phải phát triển một thị trường tài chính xứng tầm. Trong nền kinh tế thị trường, mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của các đơn vị, tổ chức kinh tế và cá nhân đều chịu sự tác động của thị trường, của các quy luật kinh tế: quy luật cạnh tranh, quy luật cung cầu, quy luật giá trị…Chính vì vậy, các doanh nghiệp để tồn tại được trên thương trường phải không ngừng đổi mới công nghệ, mở rộng quy mô sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm…Vấn đề này thực hiện được khi và chỉ khi doanh nghiệp huy động được đủ lượng vốn cần thiết và sử dụng có hiệu quả chúng vào đúng mục đích. Nguồn vốn tự có của doanh nghiệp thường không đáp ứng được nhu cầu vốn của doanh nghiêp, do đó doanh nghiệp phải đi vay vốn nhằm bù đắp cho nhu cầu đầu tư của mình. Với sự xuất hiện của thị trường tài chính và hệ thống ngân hàng thương mại thì việc vay vốn của các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, các cá nhân trở nên dễ dàng hơn. Doanh nghiệp có thể chủ động tìm kiếm vốn từ nhiều nguồn khác nhau với chi phí tiết kiệm và thủ tục đơn giản hơn rất nhiều. Chính phủ trong nhiều trường hợp cũng cần phải huy động lượng vốn nhất định để đáp ứng nhu cầu chi tiêu của mình. Ngân sách nhà nước là nguồn cung cấp chủ yếu cho kế hoạch chi tiêu của Chính phủ, song không phải lúc nào nó cũng ở trong trạng thái lành mạnh, đủ khả năng đáp ứng. Giải pháp đặt ra là có thể in thêm tiền hoặc tăng thuế, vay nợ nước ngoài nhưng việc này sẽ gây ảnh hưởng tiêu cực lên toàn bộ nền kinh tế, qua đó nảy sinh các vấn đề xã hội. Đây là điều mà các nhà hoạch định chính sách vĩ mô không muốn xảy ra. Vì vậy, Nhà nước có thể sử dụng biện pháp tích cực hơn đó là tìm kiếm nguồn vốn huy động trong và ngoài nước thông qua việc
Luận văn liên quan