Kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế thời kì 2006 - 2010 tỉnh Phú Thọ

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã thông qua chiến lược phát triển kinh tế-xã hội giai đoạn 2001-2010 với mục tiêu cơ bản là đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Căn cứ vào chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của cả nước, các ngành, các lĩnh vực, các tỉnh, thành phố đã xây dựng qui hoạch phát triển ngành, qui hoạch vùng và qui hoạch các địa phương. Các qui hoạch này đã có đóng góp cho sự chỉ đạo của các cấp, các ngành, các địa phương và làm căn cứ cho việc xây dựng các kế hoạch phát triển ngành, vùng ... Mục tiêu phát triển đối với một Quốc gia hay bất cứ địa phương nào cũng bao gồm ba mục tiêu là tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và mục tiêu về phát triển xã hội. Trong đó chuyển dịch cơ cấu kinh tế thể hiện sự biến đổi về chất của nền kinh tế cho nên kế hoạch chuyển dịch cơ cấu kinh tế mang tính mục tiêu. Vì thế kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế có một vai trò rất quan trọng trong hệ thống kế hoạch hoá phát triển kinh tế-xã hội của Quốc gia cũng như của bất cứ địa phương nào. Phú Thọ là một tỉnh miền núi phía Bắc nước ta, được biết đến nhiều qua nhiều di tích lịch sử nổi tiếng như Đền Hùng hay đặc biệt hơn đây chính là “đất tổ Vua Hùng”. Từ ngày tách tỉnh (1/1/1999) đến nay, tình hình kinh tế-xã hội Phú Thọ có nhiều khởi sắc, tốc độ tăng trưởng khá, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, tăng dần tỉ trọng công nghiệp, dịch vụ. Tuy nhiên, đến nay tỉnh Phú Thọ vẫn nằm trong những tình nghèo của cả nước. Cơ cấu ngành kinh tế thời kì 2001-2005, nông nghiệp chiếm 26%, công nghiệp-xây dựng chiếm 40% và dịch vụ chiếm 34% GDP của tỉnh. Trong khi đó cơ cấu ngành kinh tế của cả nước,nông nghiệp chiếm 20,5%, công nghiệp chiếm 41%, dịch vụ chiếm 38,5% GDP của cả nước. Trong thời gian tới, cơ cấu kinh tế của tỉnh có tiếp tục chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá- hiện đại hoá, phù hợp với xu hướng chuyển dịch chung của cả nước hay không thì việc đặt ra kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là rất quan trọng. Kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là việc chủ động xác định các mục tiêu chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong thời kì kế hoạch, đưa ra các chính sách, giải pháp cần thiết để đạt được mục tiêu đó và tạo ra một cơ cấu ngành có hiệu quả cao nhất. Chính vì vậy mà trong thời gian thực tập vừa qua, em đã đi sâu nghiên cứu và lựa chọn đề tài “kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế thời kì 2006-2010 tỉnh Phú Thọ” làm luận văn tốt nghiệp cho mình.

doc103 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2849 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế thời kì 2006 - 2010 tỉnh Phú Thọ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã thông qua chiến lược phát triển kinh tế-xã hội giai đoạn 2001-2010 với mục tiêu cơ bản là đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Căn cứ vào chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của cả nước, các ngành, các lĩnh vực, các tỉnh, thành phố đã xây dựng qui hoạch phát triển ngành, qui hoạch vùng và qui hoạch các địa phương. Các qui hoạch này đã có đóng góp cho sự chỉ đạo của các cấp, các ngành, các địa phương và làm căn cứ cho việc xây dựng các kế hoạch phát triển ngành, vùng ... Mục tiêu phát triển đối với một Quốc gia hay bất cứ địa phương nào cũng bao gồm ba mục tiêu là tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và mục tiêu về phát triển xã hội. Trong đó chuyển dịch cơ cấu kinh tế thể hiện sự biến đổi về chất của nền kinh tế cho nên kế hoạch chuyển dịch cơ cấu kinh tế mang tính mục tiêu. Vì thế kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế có một vai trò rất quan trọng trong hệ thống kế hoạch hoá phát triển kinh tế-xã hội của Quốc gia cũng như của bất cứ địa phương nào. Phú Thọ là một tỉnh miền núi phía Bắc nước ta, được biết đến nhiều qua nhiều di tích lịch sử nổi tiếng như Đền Hùng hay đặc biệt hơn đây chính là “đất tổ Vua Hùng”. Từ ngày tách tỉnh (1/1/1999) đến nay, tình hình kinh tế-xã hội Phú Thọ có nhiều khởi sắc, tốc độ tăng trưởng khá, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, tăng dần tỉ trọng công nghiệp, dịch vụ. Tuy nhiên, đến nay tỉnh Phú Thọ vẫn nằm trong những tình nghèo của cả nước. Cơ cấu ngành kinh tế thời kì 2001-2005, nông nghiệp chiếm 26%, công nghiệp-xây dựng chiếm 40% và dịch vụ chiếm 34% GDP của tỉnh. Trong khi đó cơ cấu ngành kinh tế của cả nước,nông nghiệp chiếm 20,5%, công nghiệp chiếm 41%, dịch vụ chiếm 38,5% GDP của cả nước. Trong thời gian tới, cơ cấu kinh tế của tỉnh có tiếp tục chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá- hiện đại hoá, phù hợp với xu hướng chuyển dịch chung của cả nước hay không thì việc đặt ra kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là rất quan trọng. Kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là việc chủ động xác định các mục tiêu chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong thời kì kế hoạch, đưa ra các chính sách, giải pháp cần thiết để đạt được mục tiêu đó và tạo ra một cơ cấu ngành có hiệu quả cao nhất. Chính vì vậy mà trong thời gian thực tập vừa qua, em đã đi sâu nghiên cứu và lựa chọn đề tài “kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế thời kì 2006-2010 tỉnh Phú Thọ” làm luận văn tốt nghiệp cho mình. 2. Mục đích nghiên cứu của đề tài Nghiên cứu những lí luận chung về kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong hệ thống kế hoạch 5 năm phát triển kinh tế - xã hội cấp tỉnh. Từ đó đánh giá thực hiện kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế thời kì 2001-2005 ở tỉnh Phú Thọ. Qua đó rút ra những kết quả đã đạt được, những hạn chế và nguyên nhân của nó trong quá trình thực hiện kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. Trên cơ sở đó nhằm xây dựng kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế cho thời kì kế hoạch tiếp theo-thời kì 2006-2010 và tìm ra các giải pháp cần thiết nhất để thực hiện kế hoạch này một cách hiệu quả nhất. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. Phạm vi nghiên cứu của đề tài chỉ tập trung vào kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế thời kì 2001-2005 để nhằm xây dựng kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế thời kì 2006-2010 và tìm các giải pháp cần thiết để thực hiện kế hoạch đó trên địa bàn tỉnh Phú Thọ. 4. Phương pháp nghiên cứu Các phương pháp đã sử dụng trong đề tài là: - Phương pháp phân tích so sánh tổng hợp - Phương pháp kinh tế lượng - Các phương pháp thống kê 5. Kết cấu của đề tài Để đạt được mục đích nghiên cứu của đề tài, ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài kết cấu gồm 3 chương sau: Chương 1: Lí luận chung về kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong hệ thống kế hoạch 5 năm phát triển kinh tế-xã hội cấp tỉnh. Chương 2: Đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế thời kì 2001-2005 của tỉnh Phú Thọ. Chương 3: Kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế thời kì 2006-2010 của tỉnh Phú Thọ và các giải pháp thực hiện. Khi nghiên cứu đề tài này, do bản thân còn nhiều hạn chế nên chắc chắn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong sự giúp đỡ của thầy, cô giáo và sự đóng góp của các bạn. CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ KẾ HOẠCH CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ TRONG HỆ THỐNG KẾ HOẠCH 5 NĂM PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI TỈNH I. HỆ THỐNG KẾ HOẠCH 5 NĂM PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI CẤP TỈNH 1. Vị trí của kế hoạch cấp tỉnh trong hệ thống kế hoạch Kế hoạch 5 năm phát triển kinh tế-xã hội là sự cụ thể hoá các chiến lược và quy hoạch phát triển trong lộ trình phát triển dài hạn của tỉnh. Nó xác định các mục tiêu, chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế, nâng cao phúc lợi xã hội trong thời kì 5 năm và xác định các cân đối, các chính sách phân bổ nguồn lực, vốn cho các chương trình phát triển của khu vực kinh tế nhà nước và khuyến khích sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân. Nghị quyết đại hội IX của Đảng cộng sản Việt Nam đã xác định “xây dựng kế hoạch 5 năm trở thành công cụ chủ yếu của hệ thống kế hoạch hoá phát triển kinh tế-xã hội”. Cũng như cấp Quốc gia, kế hoạch 5 năm phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh giữ vị trí trung tâm trong hệ thống kế hoạch cấp tỉnh. Thời hạn 5 năm là thời hạn trùng lặp với nhiệm kì làm việc của cơ quan Chính Phủ, là thời hạn theo đó lợi ích đầu tư bắt đầu có sau một năm hoặc một vài năm. Những kế hoạch trong phạm vi 5 năm thường chính xác hơn, dễ thực thi hơn những kế hoạch có thời gian dài hơn. Mục tiêu chủ yếu của việc lập kế hoạch 5 năm phát triển kinh tế-xã hội cấp tỉnh bao gồm: (1) Xác định mục tiêu tổng quát và các mục tiêu, chỉ tiêu chủ yếu phát triển kinh tế-xã hội của địa phương trong giai đoạn 5 năm như: mục tiêu tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, huy động tiết kiệm, các chỉ tiêu về phúc lợi xã hội. (2) Xác định các chương trình và lĩnh vực phát triển. Đây là cơ sở để hoàn thành các nhiệm vụ và các mục tiêu phát triển của kì kế hoạch 5 năm. (3) Phần các giải pháp lớn của kế hoạch 5 năm sẽ bao gồm hai nội dung cơ bản: Thứ nhất là xác định các cân đối vĩ mô chủ yếu như cân đối vốn đầu tư, cân đối xuất nhập khẩu, cán cân thanh toán quốc tế. Thứ hai là xây dựng, hoàn thiện những vấn để cơ chế quản lý, các chính sách kinh tế, về hiệu lực bộ máy quản lý và các vấn đề tổ chức thực hiện. 2. Các bộ phận cấu thành kế hoạch 5 năm phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh Kế hoạch là một công cụ quản lý và điều hành vĩ mô nền kinh tế quốc dân, nó vừa là sự cụ thể hoá các mục tiêu định hướng của chiến lược phát triển theo từng thời kì bằng hệ thống các chỉ tiêu mục tiêu và chỉ tiêu biện pháp định hướng và hệ thống các chính sách, cơ chế áp dụng trong thời kì kế hoạch.Vì vậy kế hoạch mục tiêu và kế hoạch biện pháp là hai bộ phận cấu thành nên hệ thống kế hoạch 5 năm phát triển kinh tế-xã hội của Quốc gia cũng như của tỉnh (địa phương). Một là, các kế hoạch mục tiêu (còn được gọi là các kế hoạch phát triển) xác định những mục tiêu tổng quát và các mục tiêu chỉ tiêu chủ yếu phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh trong giai đoạn 5 năm như: mục tiêu tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, các chỉ tiêu về phúc lợi xã hội. Như vậy các kế hoạch mục tiêu như kế hoạch tăng trưởng kinh tế, kế hoạch chuyển dịch cơ cấu kinh tế, kế hoạch hoá phúc lợi xã hội. Hai là, các kế hoạch biện pháp đưa ra các mục tiêu, chỉ tiêu cũng như các chính sách và giải pháp nhằm thực hiện các mục tiêu, chỉ tiêu của kế hoạch mục tiêu. Như vậy, các kế hoạch biện pháp bao gồm: kế hoạch các yếu tố nguồn lực: kế hoạch lao động, kế hoạch vốn đầu tư, kế hoạch bảo đảm ngân sách, kế hoạch phát triển thương mại, kế hoạch tài chính- tiền tệ. Hai bộ phận này có mối quan hệ trực tiếp với nhau. Hiện nay, trong nội dung đổi mới lập kế hoạch gắn với nguồn lực cân đối hơn sự gắn kết của hai bộ phận này với nhau. 3. Kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong hệ thống kế hoạch 5 năm của tỉnh 3.1. Vị trí của kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế Kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là một bộ phận trong hệ thống kế hoạch 5 năm phát triển kinh tế-xã hội của địa phương nhằm xác định quy mô, tỉ trọng của từng ngành trong tổng thể nền kinh tế địa phương, các chỉ tiêu của từng ngành kinh tế về tốc độ tăng trưởng, nhu cầu sử dụng các yếu tố nguồn lực như lao động, vốn... đồng thời đưa các chính sách và giải pháp hiệu quả để thực hiện được các chỉ tiêu đó. Trong hệ thống kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội, kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế có ý nghĩa đặc biệt, nó bao hàm cả ý nghĩa của kế hoạch mục tiêu và kế hoạch biện pháp. + Là kế hoạch mục tiêu vì: Thứ nhất, mục tiêu phát triển của Quốc gia hay của địa phương đều bao gồm ba mục tiêu là tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và mục tiêu về phát triển xã hội. Trong đó, mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế thể hiện sự thay đổi bản chất của nền kinh tế. Vì vậy, kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế mang tính mục tiêu. Thứ hai, kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế nhằm thực hiện các mục tiêu đặt ra trong kế hoạch tăng trưởng kinh tế. Nó bao hàm mục tiêu về chuyển dịch cơ cấu kinh tế như qui mô và tỉ trọng nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ trong GDP. + Là kế hoạch biện pháp vì kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là kế hoạch cụ thể của kế hoạch tăng trưởng kinh tế. Thật vậy, kế hoạch tăng trưởng kinh tế phải kế hoạch tăng trưởng trong từng ngành kinh tế từ đó sẽ dẫn đến mục tiêu chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ấy. Quan niệm như trên có một ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình xây dựng và triển khai thực hiện kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. Tuy nhiên, việc thực hiện kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế phải được tiến hành từng bước với sự nỗ lực của từng ngành, phải được xây dựng trên yêu cầu của kế hoạch tăng trưởng kinh tế, kế hoạch các yếu tố nguồn lực đặt ra nhưng đồng thời kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế còn bao hàm nội dung chủ động, tích cực đặc biệt là trong việc tìm ra cơ chế, chính sách, giải pháp để phát triển từng ngành do chính kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế đặt ra. Với vai trò và ý nghĩa như vậy của kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế thì kế hoạch này giữ một vị trí quan trọng trong hệ thống kế hoạch hoá phân tử kinh tế-xã hội đối với một Quốc gia hay bất cứ một địa phương nào. 3.2. Mối quan hệ giữa kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế với các kế hoạch khác Nếu như cơ cấu kinh tế được hình thành từ chuyên môn hoá sản xuất, thì cơ cấu lãnh thổ hình thành từ việc bố trí sản xuất theo không gian địa lí. Sự khác nhau về điều kiện tự nhiên, kinh tế, nguồn lao động, kết cấu hạ tầng và các điều kiện xã hội khác tạo cho mỗi vùng có những đặc thù, thế mạnh riêng. Như vậy, có thể nói kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế có mối quan hệ mật thiết với với kế hoạch phát triển vùng (lãnh thổ), bởi mục đích của chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là tìm ra được những ngành mũi nhọn, những sản phẩm lợi thế của địa phương còn kế hoạch phát triển vùng đảm bảo hình thành và phát triển có hiệu quả các ngành, phù hợp với điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội phong tục, tập quán, truyền thống của mỗi vùng nhằm khai thác hiệu quả thế mạnh của từng vùng. Kế hoạch hoá chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là một bộ phận trong hệ thống kế hoạch hoá phát triển kinh tế-xã hội. Nó gắn liền với kế hoạch hoá các yếu tố nguồn lực như kế hoạch lao động, kế hoạch vốn đầu tư. Bởi các dấu hiệu về nguồn lực là cơ sở để đề xuất các phương án chuyển dịch. Chẳng hạn, địa phương nào có lợi thế về tài nguyên thiên nhiên sẽ phát huy lợi thế về đặc sản…, nếu địa phương nào có lợi thế về nguồn lao động thì sẽ phát huy những ngành sử dụng nhiều lao động như công nghiệp dệt may, da giày…Còn những địa phương nào có lợi thế về vốn sẽ phát huy những ngành đòi hỏi nhiều vốn như điện, điện tử… + Kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế có mối quan hệ với kế hoạch lao động thể hiện bởi: - Kế hoạch lao động là kế hoạch biện pháp của kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. Bởi nó nhằm thực hiện các mục tiêu của kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế, tạo ra các điều kiện về lao động để thực hiện kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế; kế hoạch lao động phải được xây dựng trên cơ sở các yếu tố cầu do kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế đặt ra - Những nhân tố chi phối tổng lượng nhu cầu sức lao động xã hội chủ yếu là do: Thứ nhất, qui mô và tốc độ tăng trưởng kinh tế. Sự tăng trưởng của nền kinh tế nếu coi các yếu tố khác không đổi thì nó phụ thuộc vào số lượng lao động và năng suất lao động. Nếu với mức năng suất lao động nhất định trên cùng một phương hướng, lượng nhu cầu sức lao động xã hội do qui mô và tốc độ tăng trưởng nền kinh tế quyết định. Thứ hai, sự thay đổi trong cơ cấu ngành kinh tế, cơ cấu sản phẩm cũng gây ảnh hưởng đến tổng nhu cầu sức lao động xã hội. Xuất phát từ nhu cầu sử dụng sức lao động khác nhau, có hoạt động cần một lượng sức lao động lớn, có hoạt động chỉ cần tương đối ít sức lao động, bởi vậy kết cấu hoạt động kinh tế cũng gây ảnh hưởng đến tổng lượng nhu cầu sức lao động xã hội. Vì vậy, việc tính toán nhu cầu sức lao động phải được dựa trên việc xác định sự biến đổi về tỉ trọng cơ cấu các ngành kinh tế tạo nên GDP. + Kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế có mối quan hệ với kế hoạch vốn đầu tư, bởi: - Kế hoạch vốn đầu tư chính là kế hoạch một yếu tố nguồn lực có liên quan trực tiếp và là tiền đề quan trọng nhất để thực hiện kế hoạch tăng trưởng kinh tế, kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. Vì vậy, nó là kế hoạch biện pháp nhằm thực hiện mục tiêu của kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. Nó xác định quy mô, cơ cấu vốn đầu tư theo ngành căn cứ vào mục tiêu chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. - Kế hoạch vốn đầu tư là kế hoạch khối lượng vốn tài chính (tiền) cần thiết để thực hiện kế hoạch tái sản xuất giản đơn và kế hoạch tái sản xuất mở rộng tài sản của địa phương, tăng cường cơ sở vật chất, kĩ thuật của nền kinh tế. Bảo đảm nguồn tiền vốn đầu tư sẽ là cơ sở để biến các yếu tố vật chất của vốn đầu tư thành vốn sản xuất cần thiết cho hoạt động trong các ngành kinh tế được diễn ra. II. NỘI DUNG LẬP KẾ HOẠCH CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ 1. Phân tích các yếu tố có liên quan đến chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế 1.1. Yếu tố tự nhiên Đây là một trong những nhóm nhân tố hết sức quan trọng và có tác động trực tiếp đến phát triển ngành cũng như thực hiện chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. Nhóm yếu tố tự nhiên bao gồm đất đai, thời tiết, khí hậu, tài nguyên thiên nhiên ... Đối với ngành nông nghiệp thì những yếu tố này là tư liệu sản xuất chủ yếu. Qui mô và cơ cấu sản xuất nông nghiệp phụ thuộc rất lớn vào quỹ đất tự nhiên cũng như độ phì nhiêu và cấu tạo thổ nhưỡng. Những yếu tố này sẽ quyết định đến việc trồng cây gì, nuôi con gì cũng như cơ cấu cây trồng vật nuôi ở mỗi địa phương. Nguồn tài nguyên thiên nhiên là cơ sở để phát triển nông nghiệp, công nghiệp khai thác, công nghiệp chế biến và là nguồn cung cấp nhiên nhiên liệu cho nhiều ngành khác. Những địa phương mà có lợi thế về tài nguyên thiên nhiên sẽ có thuận lợi hơn để phát triển những ngành này hơn là những địa phương không có lợi thế về tài nguyên thiên nhiên. Tuy nhiên, do tính chất không có khả năng tái tạo và quy mô hạn chế của đa số tài nguyên nên chúng ta phải có sự đánh giá một cách chuẩn mực và có khoa học về nguồn lợi này để đưa ra các chỉ tiêu kế hoạch hợp lí và thực hiện chúng. Như vậy, yếu tố tự nhiên có thể gợi mở cho việc lựa chọn cơ cấu ngành kinh tế mang những dấu hiệu lợi thế và đặc sản; và tạo điều kiện để phát triển cơ cấu ngành theo hướng có hiệu quả hơn. 1.2. Yếu tố lao động Lao động là một trong những yếu tố cực kì quan trọng, có ảnh hưởng đặc biệt, tạo động lực rất lớn đối với việc thực hiện kế hoạch. Một kế hoạch để thực hiện thành công không thể không có sự đóng góp của các nguồn lực như lao động, vốn... Lao động là một trong những yếu tố đầu vào không thể thiếu trong qúa trình sản xuất. Lao động không chỉ là một bộ phận của nguồn lực phát triển mà còn là một bộ phận dân số, những người được hưởng lợi ích từ những kết quả của qúa trình sản xuất, từ sự phát triển. Do vậy lao động tác động qua lại với qúa trình tăng trưởng kinh tế cũng như chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. Tuy nhiên, trong qúa trình hoạt động sản xuất thì số lượng lao động mới là điều kiện cần, điều kiện đủ chính là chất lượng lao động- đó là những người lao động có trình độ, có kĩ năng tay nghề, có kinh nghiệm sản xuất nhất định. Đây chính là bộ phận góp phần vào việc tăng năng suất ...Trong nền kinh tế thị trường như hiện nay thì thước đo chính là giả cả sức lao động biểu hiện bằng tiền cồng, tiền lương, thông qua thị trường lao động. Những người lao động có kĩ năng, tay nghề... có mức tiền công, tiền lương cao. Mà ngay từ cuối thế kỉ 19, E.Engel đã nhận thấy rằng, khi thu nhập của các gia đình tăng lên thì tỉ lệ chi tiêu cho lương thực thực phẩm giảm đi, nên có thể suy ra tỉ trọng nông nghiệp trong toàn bộ nền kinh tế sẽ giảm đi khi thu nhập tăng lên. Qua qúa trình nghiên cứu họ phát hiện ra xu hướng chung là khi thu nhập tăng lên thì tỉ lệ chi tiêu cho hàng tiêu dùng lâu bền tăng phù hợp với tăng thu nhập, còn chi tiêu cho tiêu dùng cao cấp tăng nhanh hơn tốc độ tăng thu nhập. Như vậy, quy luật tiêu thụ sản phẩm của E.Engel đã làm rõ tính xu hướng của việc chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong qúa trình phát triển. Hiện nay, một thực tế là phân công lao động xã hội còn nhiều bất cập, không hợp lý đã gây ra một gánh nặng cho qúa trình phát triển kinh tế-xã hội nói chung, các địa phương nói riêng và tác động tiêu cực đến chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. Vì vậy, quản lý kế hoạch để cân đối quan hệ cung cầu sức lao động một cách hợp lý là một nội dung quan trọng để xác định hướng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh một cách phù hợp. 1.3. Yếu tố vốn Bất kể một lĩnh vực, một ngành nào không thể phát triển nếu không có sự đầu tư. Đầu tư chính là một yếu tố bất định trong chi tiêu. Khi đầu tư tăng lên có nghĩa là nhu cầu về chi tiêu cũng tăng lên. Mặt khác đầu tư sẽ dẫn đến tăng vốn sản xuất, nghĩa là tăng thêm nhà máy, thiết bị, phương tiện vận tải mới…được đưa vào sản xuất làm tăng quy mô sản xuất của địa phương. Vốn đầu tư và vốn sản xuất được coi là yếu tố quan trọng trong qúa trình sản xuất. Nếu lao động và tài nguyên chỉ được coi là yếu tố đầu vào của qúa trình sản xuất thì yếu tố sản xuất vừa được coi là yếu tố đầu vào, vừa được coi là sản phẩm đầu ra của quá trình sản xuất kinh doanh. Vốn đầu tư không chỉ là cơ sở để tạo ra vốn sản xuất, tăng năng lực sản xuất của các doanh nghiệp và của nền kinh tế địa phương, mà nó còn là điều kiện để nâng cao trình độ khoa học-công nghệ góp phần đáng kể vào việc đầu tư theo chiều sâu, hiện đại hoá quá trình sản xuất. Việc tăng vốn đầu tư cũng góp phần vào việc giải quyết công ăn việc làm cho người lao động thông qua việc đầu tư vào các công trình xây dựng và mở rộng quy mô sản xuất. Điều này cho thấy sự tác động của vốn đầu tư đến phát triển ngành công nghiệp và xây dựng cơ bản cũng như sự tác động theo hướng tích cực vào ngành dịch vụ. Ở Việt nam, trong những năm qua việc sử dụng vốn đầu tư đã góp phần vào qúa trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo hướng gia tăng tỉ trọng các ngành công nghiệp, đặc biệt với sự tham gia của vốn và công nghệ nước ngoài, một số ngành kinh tế như thăm dò, khai thác dầu khí, thông tin ... đã có bước phát triển quan trọng, thúc đẩy ngành công nghiệp phát triển. Tóm lại, để thực hiện tốt chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế thì cần phải có chính sách đào tạo nguồn nhân lực kĩ thuật cao cũng như có các chính sách, giải pháp thu hút được càng nhiều vốn càng tốt kể cả vốn đầu tư trong nước và ngoài nước vào đầu tư. 1.4. Yếu tố thị trường + Thị tr