Kế toán bán hàng và xác định kết quả hoạt động kinh doanh ở Công ty Cổ phần xuất nhập khẩu Hà Anh

MỤC LỤC Lời mở đầu1 Chương I : Lý luận chung về tổ chức kế toán bán hàng và xác định kết quả kinh doanh2 I. Sự cần thiết tổ chức công tác kế toán bán hàng và xác định kết quả kinh doanh tại doanh nghiệp kinh doanh thương mại2 1.Đặc điểm hoạt động kinh doanh thương mại2 2.Vai trò, nhiệm vụ của kế toán bán hàng và xác định kết quả kinh doanh3 3. Sự cần thiết và yêu cầu quản lý đối với kế toán bán hàng và xác định kết quả kinh doanh5 II. Những lý luận cơ bản về bán hàng và xác định kết quả kinh doanh5 1. Khái niệm về bán hàng, doanh thu bán hàng và điều kiện ghi nhận doanh thu5 2.Các phương pháp bán hàng8 3.Kế toán doanh thu bán hàng, thuế và các khoản giảm trù doanh thu11 Chương II: Tình hình thực tế công tác kế toán bán hàng ở công ty26 2.1. Đặc điểm chung công ty Cổ phần xuất nhập khẩu Hà Anh26 2.2.Tình hình thực tế công tác kế toán bán hàng và xác định kết quả bán hàng của công ty35 2.2.1. Đặc điểm tiêu thụ ở Công ty35 2.2.2. Các phương thức bán hàng và thanh toán tiền hàng mà công ty áp dụng35 2.2.3. kế toán doanh thu bán hàng và xác định kết quả bán hàng ở công ty Cổ phần xuất nhập khẩu Hà Anh.38 Chương III. Một số ý kiến nhận xét và kiến nghj nhằm hoàn thiện công tác kế toán bán hàng ở công ty70 3.1Nhận xét chung về tình hình kế toán bán hàng và xác định kết quả bán hàng tại công ty70 3.1.1. Ưu điểm70 3.1.2. Nhược điểm72 3.2Một số ý kiến nhằm hoàn thiện công tác kế toán bán hàng và xác định kết quả bán hàng ở công ty.72 Kết luận76 Chương I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ TỔ CHỨC CÔNG TÁC KẾ TOÁN BÁN HÀNG VÀ XÁC ĐỊNH KẾT QUẢ KINH DOANH I. SỰ CẦN THIẾT TỔ CHỨC CÔNG TÁC KẾ TOÁN BÁN HÀNG VÀ XÁC ĐỊNH KẾT QUẢ KINH DOANH TẠI DOANH NGHIỆP KINH DOANH THƯƠNG MẠI 1. Đặc điểm hoạt động kinh doanh thương mại Kinh doanh thương mại khác với hoạt động sản xuất, thực hiện chức năng cầu nối giữa sản xuất với tiêu dùng, nhằm đưa sản phẩm tới tay người tiêu dùng, phục vụ nhu cầu sản xuất,tiêu dùng cũng như xuất khẩu của họ. Do đó, đối tượng kinh doanh thương mại là hàng hóa - đó là những sản phẩm lao động được các doanh nghiệp các doanh nghiệp thương mại mua về để bán ra. Và vốn hàng hoá ở doanh nghiệp thương mại là vốn chủ yếu nhất. Thương mại có thể được hiểu là buôn bán, tức là mua hàng hóa để bán ra nhằm kiếm lời, thu tiền rồi lại tiếp tục mua hàng hoá, bán ra với số lượng nhiều hơn. Như vậy, hoạt động thương mại chỉ bao gồm quá trình mua hàng, dự trữ hàng, trao đổi và bán hàng hoá trên thị trường chứ không liên quan đến quá trình sản xuất ra sản phẩm ra sao, sản phẩm được sản xuất ở đâu ...Quá trình này được gọi là quá trình lưu chuyển hàng hoá hay lưu thông hàng hoá. Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động thương mại bao trùm lên tất cả các lĩnh vực trong cuộc sống, việc mua bán hàng hoá được dựa trên sự thoả thuận về giá cả giữa người mua và người bán. Các doanh nghiệp kinh doanh thương mại chỉ có thể bán dược hàng hoá thông qua thị trường.Thị trường chính là nơi kiểm nghiệm, là thước đo cho tất cả các mặt hàng kinh doanh của các doanh nghiệp kinh doanh thương mại.Do đó, việc đáp ứng đúng, kịp thời và đầy đủ nhu cầu thị trường là mục tiêu hàng đầu đối với bất kỳ một doanh nghiệp thương mại nào. Hoạt động kinh doanh thương mại có ảnh hưởng trực tiếp tới sản xuất và trên thực tế nó ảnh hưởng đến tất cả các chỉ tiêu kinh tế chủ yếu của một doanh nghiệp. Bởi vì nếu hàng hoá của một doanh nghiệp không tiêu thụ, không lưu thông trao đổi được trên thị trường thì doanh nghiệp đó sẽ không thu hồi được vốn, không có vốn để quay vòng và như vậy doanh nghiệp đó sẽ không tồn tại và phát triển được. Như vậy, doanh nghiệp thương mại chủ yếu có hai hoạt động đó là mua và bán. Ở đây ta chỉ quan tâm đến công tác bán hàng bởi vì hoạt động này là hoạt động chính tạo ra lợi nhuận cho các doanh nghiệp thương mại.Các doanh nghiệp thương mại sử dụng lợi nhuận để bù đắp chí phí và tiếp tục công việc kinh doanh của họ.

docx83 trang | Chia sẻ: dansaran | Lượt xem: 4231 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Kế toán bán hàng và xác định kết quả hoạt động kinh doanh ở Công ty Cổ phần xuất nhập khẩu Hà Anh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU Trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện nay, với sự cạnh tranh của các doanh nghiệp, các tổ chức, các công ty,... chuyên kinh doanh sản xuất các loại mặt hàng tương tự nhau diễn ra hết sức gay gắt. Vì vậy thị trường là vấn đề sống còn của các doanh nghiệp, mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đều phải gắn liền với thị trường cho nên bản thân các doanh nghiệp phải tự tìm nguồn mua và tiêu thụ hàng hoá của họ để tồn tại và phát triển. Kinh doanh trong cơ chế thị trường gắn trực tiếp với mục tiêu lợi nhuận. Vì vậy, trong điều kiện cạnh tranh thực hiện chính sách bán hàng và tổ chức công tác kế toán bán hàng có ảnh hưởng lớn đến doanh số bán ra và lợi nhuận của doanh nghiệp. Nó cung cấp thông tin kịp thời, chính xác cho hoạt động bán hàng. Tổ chức kế toán bán hàng và xác định kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp có ý nghĩa rất quan trọng. Quan tâm tới vấn đề này đã được sự giúp đỡ của công ty Cổ phần xuất nhập khẩu Hà anh nơi em thực tập, em chọn đề tài: “Kế toán bán hàng và xác định kết quả hoạt động kinh doanh ở Công ty Cổ phần xuất nhập khẩu Hà Anh” làm chuyên đề thực tập của mình. Mục tiêu của chuyên đề này là tìm hiểu công tác kế toán bán hàng và xác định kết quả hoạt động kinh doanh của Công ty. Trên cơ sở đó đối chiếu với chế độ kế toán của Việt nam và từ đó rút ra những ưu điểm và hạn chế trong tổ chức hoạt động kế toán bán hàng. Bài viết này của em bao gồm 3 phần chính: CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ TỔ CHỨC KẾ TOÁN BÁN HÀNG VÀ XÁC ĐỊNH KẾT QUẢ KINH DOANH CHƯƠNG II: TÌNH HÌNH THỰC TẾ CÔNG TÁC KẾ TOÁN BÁN HÀNG Ở CÔNG TY. CHƯƠNG III: MỘT SỐ Ý KIẾN NHẬN XÉT VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN CÔNG TÁC KẾ TOÁN BÁN HÀNG Ở CÔNG TY. Chương I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ TỔ CHỨC CÔNG TÁC KẾ TOÁN BÁN HÀNG VÀ XÁC ĐỊNH KẾT QUẢ KINH DOANH I. SỰ CẦN THIẾT TỔ CHỨC CÔNG TÁC KẾ TOÁN BÁN HÀNG VÀ XÁC ĐỊNH KẾT QUẢ KINH DOANH TẠI DOANH NGHIỆP KINH DOANH THƯƠNG MẠI 1. Đặc điểm hoạt động kinh doanh thương mại Kinh doanh thương mại khác với hoạt động sản xuất, thực hiện chức năng cầu nối giữa sản xuất với tiêu dùng, nhằm đưa sản phẩm tới tay người tiêu dùng, phục vụ nhu cầu sản xuất,tiêu dùng cũng như xuất khẩu của họ. Do đó, đối tượng kinh doanh thương mại là hàng hóa - đó là những sản phẩm lao động được các doanh nghiệp các doanh nghiệp thương mại mua về để bán ra. Và vốn hàng hoá ở doanh nghiệp thương mại là vốn chủ yếu nhất. Thương mại có thể được hiểu là buôn bán, tức là mua hàng hóa để bán ra nhằm kiếm lời, thu tiền rồi lại tiếp tục mua hàng hoá, bán ra với số lượng nhiều hơn. Như vậy, hoạt động thương mại chỉ bao gồm quá trình mua hàng, dự trữ hàng, trao đổi và bán hàng hoá trên thị trường chứ không liên quan đến quá trình sản xuất ra sản phẩm ra sao, sản phẩm được sản xuất ở đâu ...Quá trình này được gọi là quá trình lưu chuyển hàng hoá hay lưu thông hàng hoá. Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động thương mại bao trùm lên tất cả các lĩnh vực trong cuộc sống, việc mua bán hàng hoá được dựa trên sự thoả thuận về giá cả giữa người mua và người bán. Các doanh nghiệp kinh doanh thương mại chỉ có thể bán dược hàng hoá thông qua thị trường.Thị trường chính là nơi kiểm nghiệm, là thước đo cho tất cả các mặt hàng kinh doanh của các doanh nghiệp kinh doanh thương mại.Do đó, việc đáp ứng đúng, kịp thời và đầy đủ nhu cầu thị trường là mục tiêu hàng đầu đối với bất kỳ một doanh nghiệp thương mại nào. Hoạt động kinh doanh thương mại có ảnh hưởng trực tiếp tới sản xuất và trên thực tế nó ảnh hưởng đến tất cả các chỉ tiêu kinh tế chủ yếu của một doanh nghiệp. Bởi vì nếu hàng hoá của một doanh nghiệp không tiêu thụ, không lưu thông trao đổi được trên thị trường thì doanh nghiệp đó sẽ không thu hồi được vốn, không có vốn để quay vòng và như vậy doanh nghiệp đó sẽ không tồn tại và phát triển được. Như vậy, doanh nghiệp thương mại chủ yếu có hai hoạt động đó là mua và bán. Ở đây ta chỉ quan tâm đến công tác bán hàng bởi vì hoạt động này là hoạt động chính tạo ra lợi nhuận cho các doanh nghiệp thương mại.Các doanh nghiệp thương mại sử dụng lợi nhuận để bù đắp chí phí và tiếp tục công việc kinh doanh của họ. Trong thời đại hiện nay , xu hướng quốc tế hoá và toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới ngày càng trở nên phổ biến, mỗi quốc gia trở thành một mắt xích quan trọng trong hệ thống kinh tế đó.Trong quá trình này, hoạt động thương mại quốc tế trở thành lĩnh vực kinh tế quan trọng, thông qua thương mại quốc tế, các mối liên hệ kinh tế sẽ được thiết lập và được thực hiện trên cơ sở phát huy tiềm năng và thế mạnh của mỗi nước. Hoạt dộng chính của thương mại quốc tế là xuất nhập khẩu, đó là sự trao đổi hàng hoá, dịch vụ giữa các quốc gia thông qua mua bán trên phạm vi toàn thế giới. Thông qua xuất nhập khẩu, hàng hoá được lưu thông giữa các quốc gia đáp ứng nhu cầu tiêu dùng cho các nước này và qua đó các nước có thể phát huy được tiềm năng và thế mạnh của mình. Xuất nhập khẩu là một trong những hình thức mua bán hàng hoá rất phổ biến hiện nay được rất nhiều quốc gia chú trọng phát triển. Và ở Việt nam hiện nay, các doanh nghiệp thương mại không chỉ kinh doanh mua bán hàng hoá trong nước mà các DN này đã bắt đầu tìm kiếm và mở rộng thị trường sang các quốc gia trên thế giới. Đối tượng của xuất nhập khẩu rất phong phú, nó là những mặt hàng tiêu dùng, những phương tiện máy móc, dịch vụ....Với xuất khẩu, chỉ những mặt hàng chúng ta có lợi thế, dồi dào tiềm năng, có khả năng cạnh tranh thì khi đó xuất khẩu mới có ý nghĩa. Tóm lại, hoạt động thương mại chính là khâu trung gian giữa sản xuất và tiêu dùng.Hoạt động thương mại làm cho nền kinh tế sôi động hơn, tốc độ chu chuyển hàng hoá, tiền tệ nhanh chón hơn góp phần thúc đẩy sự phát triển phồn thịnh của một quốc gia.Và hoạt động này cũng phải tuân thủ pháp luật và sự quản lý chặt chẽ của cơ quan nhà nước. 2. Vai trò, nhiệm vụ của kế toán bán hàng và xác định kết quả a. Vai trò của kế toán bán hàng Trong nền kinh tế bao cấp thì các sản phẩm trong xã hội được phân phối công bằng cho tất cả mọi người. Mọi sản phẩm làm ra trong xã hội đều phải nộp lại cho nhà nước. Nhà nước phân phối lại cho người dân. Trong nền kinh tế này, thì sản phẩm làm ra không đủ để đáp ứng nhu cầu của con người, do đó công tác bán hàng không dược coi trọng. Nhưng trong nền kinh tế thị trường thì sản phẩm sản xuất ra dư thừa, cung vượt quá cầu rất nhiều cho nên các doanh nghiệp bắt đầu thấy rõ vai trò của công tác bán hàng. Với chính sách bán hàng hợp lý sẽ giúp cho doanh nghiệp tiêu thụ được nhiều sản phẩm hàng hoá giúp các doanh nghiệp thu hồi vốn nhanh, tăng vòng của vốn kinh doanh, đảm bảo bù đắp được chi phí, có một phần cho tích luỹ để tái sản xuất và mở rộng hoạt động kinh doanh. Hơn nữa, cạnh tranh kinh doanh hiện nay diễn ra vô cùng gay gắt và thương trường được coi là thương trường được coi là chiến trường. Doanh nghiệp nào mạnh thì sẽ chiến thắng còn doanh nghiệp nào yếu sẽ bị loại bỏ mà chỉ tiêu để đánh giá một doanh nghiệp mạnh yếu chính là khả năng tiêu thụ sản phẩm trên thị trường hay nói một cách khác là khả năng chiếm lĩnh thị trường. Vì vậy, bất kỳ một doanh nghiệp nào muốn tồn tại thì đều phải quan tâm đến việc tổ chức công tác kế toán bán hàng sao cho hiệu quả nhất để giải quyết đầu ra cho sản phẩm hàng hoá của mình. Như vậy, kế toán bán hàng có vai trò cực kỳ quan trọng đối với các doanh nghiệp. Tổ chức công tác kế toán bán hàng có vai trò quan trọng như vậy, nhưng mối quan tâm không chỉ dừng lại ở đây mà là xác định kết quả của việc tổ chức thực hiện công tác này. Đây cũng là quy luật tất yếu trong sản xuất kinh doanh, mỗi doanh nghiệp đều muốn biết mình đã thu được gì và sẽ thu dược gì sau hàng loạt các hành vi tác nghiệp. Kế toán sẽ xác định kết quả này và cung cấp thông tin cho nhà quản lý. Kết quả hoạt động kinh doanh mà chủ yếu thu từ bán hàng sẽ là nguồn lợi nhuận chính, là số tiền mà doanh nghiệp sẽ thu về. Kết quả này là đánh giá cuối cùng về hiệu quả của quá trình hoạt động của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả thì sẽ có lãi tức là số tiền thu về không chỉ bù đắp được chi phí mà còn thừa để tái đầu tư còn nếu doanh nghiệp kinh doanh không hiệu quả thì số tiền thu về không đủ bù đắp chi phí và sẽ gây rất nhiều khó khăn cho doanh nghiệp và nếu tình trạng này kéo dài thì doanh nghiệp có thể bị phá sản. Từ những thông tin mà kế toán cung cấp, nhà quản trị doanh nghiệp tiến hành phân tích, đánh giá và hoạch định kế hoạch phát triển cho thời kỳ tiếp theo. b. Nhiệm vụ của kế toán bán hàng và xác định kết quả Để tạo điều kiện cung cấp thông tin kịp thời, chính xác và đầy đủ cho nhà quản lý có những quyết định đúng đắn hữu hiệu và đánh giá được chất lượng kinh doanh của doanh nghiệp, thì kế toán bán hàng và xác định kết quả phải thực hiện những nhiệm vụ cơ bản sau: Phản ánh và ghi chép đầy đủ, kịp thời, chính xác tình hình hiện có và tình hình biến động của từng loại sản phẩm, hàng hoá theo chỉ tiêu số lượng, chất lượng, chủng loại và giá trị. Phản ánh và ghi chép đầy đủ, kịp thời và chính xác các khoản doanh thu, các khoản giảm trừ doanh thu và chi phí của từng hoạt động trong doanh nghiệp. Đồng thời theo dõi và đôn đốc các khoản phải thu của khách hàng. Phản ánh và tính toán chính xác kết quả của từng hoạt động, giám sát các tình hình thực hiện nghĩa vụ đối với nhà nước và tình hình phân phối kết quả các hoạt động. Cung cấp các thông tin kế toán phục vụ cho việc lập báo cáo tài chính và định kỳ phân tích hoạt động kinh tế liên quan đến quá trình bán hàng, xác định kết quả kinh doanh. 3.Sự cần thiết và yêu cầu quản lý đối với kế toán bán hàng và xác định kết quả Bất kỳ một doanh nghiệp nào bất kể là kinh doanh thương mại hay sản xuất thì kế toán bán hàng và xác định kết quả kinh doanh là cực kỳ cần thiết, quyết định sự phát triển hay phá sản của doanh nghiệp. Như chúng ta đã biết mục tiêu cuối cùng của mọi doanh nghiệp là tối đa hoá lợi nhuận. Lợi nhuận là kết quả tài chính cuối cùng, là chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh tế của hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.Kết quả bán hàng là số chênh lệch giữa doanh thu bán hàng và các khoản chi phí đã chi ra để có được doanh thu đó.Do đó, kết quả bán hàng có ảnh hưởng rất lớn đến tình hình tài chính của doanh nghiệp. Nếu quá trình tiêu thụ gặp khó khăn, doanh nghiệp sẽ thua lỗ sẽ không có nguồn vốn để tiếp tục quá trình kinh doanh tiếp theo, tất yếu sẽ dẫn doanh nghiệp đến bờ vực của sự phá sản. Còn nếu quá trình tiêu thụ thuận lợi thì đương nhiên doanh nghiệp có nguồn thu để tiếp tục kinh doanh và mở rộng các lĩnh vực hoạt động kinh doanh của mình. Trong doanh nghiệp, kế toán là công cụ sắc bén và hiệu quả nhất để phản ánh và giám đốc toàn diện mọi hoạt động sản xuất kinh doanh. Công tác bán hàng và xác định kết quả là một nội dung chủ yếu của công tác kế toán để phản ánh hiệu quả sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp trong một thời kỳ. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là làm sao để có được các thông tin đó kịp thời, đầy đủ và chính xác. Muốn vậy thì kế toán bán hàng và xác định kết quả phải đảm bảo các yêu cầu sau: Tổ chức chứng từ ghi chép ban đầu và trình tự luân chuyển chứng từ hợp lý. Các chứng từ ban đầu phải đầy đủ, hợp pháp, luân chuyển khoa học, tránh bỏ sót, tránh ghi chép trùng lắp, không quá phức tạp mà vẫn đảm bảo yêu càu quản lý. Xác định đúng thời điểm hàng hoá được coi là tiêu thụ để kịp thời ghi nhận doanh thu và lập báo cáo bán hàng. báo cao thường xuyên, kịp thời tình hình bán hàng và thanh toán với khách hàng chi tiêt theo từng loại hàng,tưng hợp đồng kinh tế. Xác định đúng và tập hợp đầy đủ các chi phí phát sinh đặc biệt là chi phi bán hàng phát sinh trong quá trình tiêu thụ hàng hoá, phân bổ chi phí còn lại cuối kỳ và kết chuyển chi phí cho hàng tiêu thụ trong kỳ để xác định kết quả kinh doanh. II. Những lý luận cơ bản về bán hàng và xác định kết quả 1. Khái niệm về bán hàng, doanh thu bán hàng và điều kiện ghi nhận doanh thu Bán hàng là việc chuyển quyền sở hữu sản phẩm, hàng hoá gắn với phần lớn lợi ích hoặc rủi ro cho khách hàng, đồng thời được khách hàng thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán. Quá trình bán hàng là quá trình chuyển hoá vốn từ hình thái hiện vật sang hình thái giá trị "tiền tệ". Doanh thu là tổng các lợi ích kinh tế daonh nghiệp thu được trong kỳ hạch toán, phát sinh từ hoạt động SXKD thông thường của doanh nghiệp góp phần làm tăng vốn chủ sở hữu. Doanh thu được xác định bằng giá trị hợp lý của các khoản đã thu hoặc sẽ thu được sau khi đã trừ đi các khoản chiết khấu thương mại, giảm gái hàng bán và hàng bán bị trả lại. Các loại doanh thu: Doanh thu theo từng loại hình SXKD và bao gồm: Doanh thu bán hàng Doanh thu cung cấp dịch vụ Doanh thu từ tiền lãi, tiền bản quyền, cổ tức và lợi tức được chia. Ngoài ra còn các khoản thu nhập khác. Doanh thu bán hàng là toàn bộ số tiền thu được hoặc số thu được phải thu tính theo giá bán của số sản phẩm, hàng hoá được xác định là đã bán hay đã tiêu thụ. Hay nói cách khác đó chính là toàn bộ số tiền bán hàng. Đối với mỗi một đối tượng nộp thuế khác nhau thì nội dung của doanh thu bán hàng cũng khác nhau. Đối với doanh nghiệp nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thuế thì doanh thu bán hàng là toàn bộ số tiền bán hàng( chưa có thuế GTGT) bao gồm cả phụ thu và phí thu bên ngoài giá bán( nếu có) mà doanh nghiệp được hưởng. Đối với doanh nghiệp nộp thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp, đối với những sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ không thuộc đối tượng nộp thuế GTGT thì doanh thu bán hàng là toàn bộ số tiền bán hàng thu được( bao gồm cả thuế) phụ thu và phí thu bên ngoài( nếu có) mà doanh nghiệp được hưởng. Ngoài việc hạch toán doanh thu bán hàng, kế toán còn phải theo dõi tình hình thực hiện nghĩa vụ tài chính với nhà nước thông qua các khoản thuế tiêu thụ như: thuế GTGT, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất khẩu. Trong điều kiện kinh doanh hiện nay, để đẩy mạnh việc bán ra thu hồi tiền nhanh chóng tiền hàng, doanh nghiệp cần có chế độ khuyến khích đối với khách hàng. Nếu khách hàng mua với khối lượng hàng hoá lớn sẽ được doanh nghiệp giảm giá, nếu khách hàng thanh toán sớm tiền hàng sẽ được doanh nghiệp chiết khấu thanh toán, còn nếu hàng hoá của doanh nghiệp kém phẩm chất thì khách hàng có thể không chấp nhận thanh toán và trả lại hàng hoặc yêu cầu doanh nghiệp giảm giá.Do vậy kế toán hạch toán cả các khoản giảm trừ doanh thu như: chiết khấu thương mại, giảm giá hàng bán, hàng bán bị trả lại. Các khoản này sẽ không được hạch toán vào doanh thu. Chỉ có các khoản thoả mãn các điều kiện sau mới được ghi nhận là doanh thu bán hàng:(theo chuẩn mực kế toán số 14 - Doanh thu và thu nhập khác): (1) Doanh nghiệp đã chuyển giao phần lớn rủi ro và lợi ích gắn liền với quyền sở hữu sản phẩm hoặc hàng hóa cho người mua; (2) Doanh nghiệp không còn nắm giữ quyền quản lý hàng hóa như người sở hữu hàng hóa hoặc quyền kiểm soát hàng hóa; (3) Doanh thu được xác định tương đối chắc chắn; (4) Doanh nghiệp đã thu được hoặc sẽ thu được lợi ích kinh tế từ giao dịch bán hàng. (5) Xác định được chi phí liên quan đến giao dịch bán hàng. 2. Các phương thức bán hàng Trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện nay, việc lựa chọn áp dụng các phương thức bán hàng và các chính sách khuyến khích tiêu thu góp phần quan trọng vào việc thực hiện kế hoạch tiêu thụ hàng hoá, đồng thời giúp cho doanh nghiệp có cơ sở mở rộng, chiếm lĩnh thị trường, Phương thức bán hàngcó ảnh hưởng trực tiếp đến việc sử dụng các tài khoản kế toán phản ánh tình hình xuất kho hàng hoá. Đồng thời nó có tính quyết định đối với việc xác định thời điểm bán hàng, hình thành doanh thu bán hàng và tiết kiệm chi phí bán hàng để tăng lợi nhuận. Hiện nay, các doanh nghiệp sản xuất thường sử dụng các phương thức bán hàng sau: Bán hàng theo phương thức gửi hàng : Theo phương này, định kỳ doanh nghiệp gửi hàng cho khách hàngcơ sở của thoả thuận trong hợp đồng mua bán giữa hai bên và giao hàng tại địa điểm đã quy ước trong hợp đồng. Khi xuất kho gửi hàng đi, hàng vẫn thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp nên chưa xác định là đã tiêu thụ do đó chưa được hạch toán ngay vào doanh thu, chỉ hạch toán váo doanh thu khi: + Doanh nghiệp đã nhận được tiền hàng của khách hàng trả( tiền mặt, giấy báo có của ngân hàng, séc thanh toán...). + Khách hàng đã nhận được hàng và chấp nhận thanh toán. + Khách hàng đã ứng trước tiền mua hàng về số hàng gửi đi bán. + Số hàng gửi đi bán áp dụng phương thức thanh toán theo kế hoạch thông qua ngân hàng. Bán hàng theo phương thức giao hàng trực tiếp : Theo phưong thức này bên khách hàng uỷ quyền cho cán bộ nghiệp vụ đến nhận hàng tại kho của doanh nghiệp. Khi nhận hàng xong, Người nhận ký vào hoá đơn bán hàng .... Khi đó hàng mới được doanh nghiệp coi là tiêu thụ và hạch toán vào doanh thu ngay. Bán hàng giao thẳng không qua nhập kho : Theo phương thức bán hàng này, doanh nghiệp mua hàng của người cung cấp bán thẳng cho khách hàng không qua kho của daonh nghiệp. Như vậy, nghiệp vụ mua bán diễn ra đồng thời. Phương thức này được chia làm hai trường hợp : Mua hàng giao bán thẳng cho người mua. Bán hàng giao tay ba - bên cung cấp, doanh nghiệp và người mua cùng giao nhận hàng. Trường hợp này khi bên mua nhận hàng và xác nhận vào hoá đơn bán hàng thì hàng đó được xác nhận là tiêu thụ. Phương thức này chủ yếu áp dụng trong các doanh nghiệp thương mại. Bán hàng trả góp, trả chậm : Theo phương thức này, khi giao hàng cho người mua thì số hàng đó được coi là tiêu thụ và doanh nghiệp mất quyền sở hữu về số hàng đó. Người mua sẽ thanh toán lần đầu ngay tại thời điểm mua, số tiền còn lại người mua chấp nhận trả dần ở các kỳ tiếp theo và phải chịu một tỷ lệ lãi nhất định. Thông thường thì số tiền trả ở các kỳ sau phải bằng nhau bao gồm một phần tiền gốcvà một phần lãi trả chậm. Phương thức bán hàng trao đổi hàng : Theo phương thức này, doanh nghiệp bán hàng cho khách hàng và đổi lại khách hàng giao cho doanh nghiệp vật tư, hàng hoá tương đương. Phương thức này có thể chia làm ba trường hợp : Xuất kho lấy hàng ngay. Xuất hàng trước lấy vật tư, hàng hoá sau . Nhận hàng trước, xuất hàng trả sau. Tuy nhiên trong các doanh nghiệp thương mại thì phương thức bán hàng có khác đôi chút, Bán hàng trong doanh nghiệp thương mại chỉ bao gồm hai khâu : khâu bán buôn và khâu bán lẻ. a. Bán buôn hàng hoá Bán buôn hàng hoá thường được hiểu là bán với khối lượng lớn. Và trong bán buôn hàng hoá thường sử dụng các phương thức bán hàng sau: Bán buôn qua kho : Theo phương thức này, hàng hoá xuất từ kho của doanh nghiệp thương mại để bán cho người mua. Phương thức này lại phân biệt thành hai hình thức là : Bán hàng trực tiếp qua kho và bán qua kho theo hình thức chuyển hàng. + Bán trực tiếp qua kho: Theo hình thức này, doanh nghiệp xuất hàng từ kho giao bán trực tiếp cho người mua do bên mua uỷ nhiệm đến nhận hàng trực tiếp. Chứng từ bán hàng trong trường hợp này là hoá đơn hoặc phiếu xuất kho do doanh nghiệp lập. Hàng hóa được coi là bán khi người mua đã ký nhận hàng và ký xác nhận trên chứng từ bán hàng, còn việc thanh toán tiền hàng với bên mua tuỳ thuộc vào hợp đồng đã ký giữa hai bên. + Bán hàng qua kho theo hình thức chuyển hàng : Theo hình thức này, doanh nghiệp xuất hàng từ kho chuyển đi cho người mua theo hợp đồng bằng phương tiện vận tải tự có hoặc thuê ngoài. Hàng hoá gửi đi vẫn thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp, khi nào bên mua đã nhận được hàng và chấp nhận thanh toán thì mới chuyển quyền sở hữu và doanh nghiệp coi đó là thời điểm hàng gửi đi được coi là đã bán. Chi phí vận chuyển do doanh nghiệp chịu hoặc do bên mua phải trả tuỳ theo điều kiện quy định trong hợp đồng đã ký. Chứng từ trong hình thức này là hoá đơn GTGT hoặc hoá đơn kiêm phiếu xuất kho do doanh nghiệp lập. Bán buôn vận chuyển thẳng: Đây là trường hợp tiêu thụ hàng hoá bán cho khách hàng không qua nhập kho của doanh nghiệp. Doanh nghiệp mua hàng hoá của bên cung cấp để bán thẳng cho người mua.Phương thức này bao gồm : Bán vận chuyển thẳng trực tiếp và bán vận chuyển theo hình thức chuyển hàng. b. Bán lẻ hàng hoá Trong khâu bán lẻ,chủ yếu là bán hàng thu bằng tiền mặt, và thường th
Luận văn liên quan