Trong một nền kinh tế, doanh nghiệp thương mại giữ vai trò phân phối lưu thông hàng hoá, thúc đẩy quá trình tái sản xuất xã hội. Hoạt động của doanh nghiệp thương mại diễn ra theo chu kì T-H-T hay nói cách khác nó bao gồm hai giai đoạn mua và bán hàng hoá. Như vậy, trong hoạt động kinh doanh thương mại, bán hàng là nghiệp vụ kinh doanh cơ bản, nó giữ vai trò chi phối các nghiệp vụ khác. các chu kì kinh doanh chỉ có thể diễn ra liên tục nhịp nhàng khi khâu bán hàng được tổ chức nhằm quay vòng vốn nhanh, tăng hiệu suất sinh lời.
Trong cơ chế thị trường, sự cạnh tranh là hiện tượng tất yếu. Nó vừa là cơ hội vừa là thử thách đối với mỗi doanh nghiệp. Cơ chế thị trường cho phép đánh giá chính xác hiệu quả kinh doanh của mỗi doanh nghiệp. Doanh nghiệp nào tổ chức tốt nghiệp vụ bán hàng đảm bảo thu hồi vốn và có lãi sẽ có điều kiện tồn tại và phát triển. Ngược lại doanh nghiệp tỏ ra non kém trong tổ chức hoạt động kinh doanh thì chẳng bao lâu sẽ đi đến bờ vực phá sản, thực tế của nền kinh tế nước ta đang chứng tỏ điều đó.
Bước sang năm 2008, việc bán hàng hoá của các doanh nghiệp trên toàn quốc phải đối mặt với không ít khó khăn thử thách. Một là, sự gia tăng ngày càng nhiều của các doanh nghiệp với các loại hình kinh doanh đa dạng làm cho sự cạnh tranh ngày càng trở nên gay gắt. Thêm vào đó, cùng với chính sách mở của nền kinh tế, các doanh nghiệp Việt Nam còn phải đối mặt với sự cạnh tranh của các hãng nước ngoài. Hai là, cơ chế quản lý kinh tế còn nhiều bất cập gây không ít khó khăn trở ngại cho các doanh nghiệp. Do vậy, để có thể đứng vững trên thương trường thì doanh nghiệp phải tổ chức tốt công tác bán hàng, có chiến lược bán hàng thích hợp cho phép doanh nghiệp chủ động thích ứng với môi trường nắm bắt cơ hội, huy động có hiệu quả nguồn lực hiện có và lâu dài để bảo toàn và phát triển vốn, nâng cao hiệu quả kinh doanh. Gắn liền với công tác bán hàng và xác định kết quả kinh doanh, kế toán bán hàng và xác định kết quả kinh doanh giữ một vai trò hết sức quan trọng vì nó phản ánh toàn bộ quá trình bán hàng của doanh nghiệp cũng như việc xác định kết quả kinh doanh cung cấp thông tin cho nhà quản lý về hiệu quả, tình hình kinh doanh của từng đối tượng hàng hoá để từ đó có được những quyết định kinh doanh chính xác kịp thời và có hiệu quả.
Cũng như các doanh nghiệp khác ở Công ty Cổ Phần Tân Vĩnh Tiến đã sử dụng kế toán như một công cụ đắc lực trong điều hành hoạt động kinh doanh và quản lý các hoạt động kinh doanh của mình. Trong đó Công ty đặc biệt quan tâm đến công tác kế toán bán hàng và xác định kết quả kinh doanh. Vì vậy mà việc tổ chức công tác kế toán và xác định kết quả kinh doanh nói riêng ở Công ty đã đi vào nề nếp và đạt hiệu quả cao trong kinh doanh.
Nội dung chuyên đề gồm ba phần:
Phần I: Những lý luận chung về kế toán bán hàng và xác định kết quả kinh doanh trong doanh nghiệp thương mại.
Phần II: Tình hình thực tế công tác kế toán và xác định kết quả kinh doanh ở Công ty Cổ Phần Tân Vĩnh Tiến.
Phần III: Hoàn thiện công tác kế toán bán hàng và xác định kết quả kinh doanh ở Công ty Cổ Phần Tân Vĩnh Tiến.
79 trang |
Chia sẻ: dansaran | Lượt xem: 3872 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Kế toán bán hàng và xác định kết quả kinh doanh ở Công ty Cổ Phần Tân Vĩnh Tiến, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU
Trong một nền kinh tế, doanh nghiệp thương mại giữ vai trò phân phối lưu thông hàng hoá, thúc đẩy quá trình tái sản xuất xã hội. Hoạt động của doanh nghiệp thương mại diễn ra theo chu kì T-H-T hay nói cách khác nó bao gồm hai giai đoạn mua và bán hàng hoá. Như vậy, trong hoạt động kinh doanh thương mại, bán hàng là nghiệp vụ kinh doanh cơ bản, nó giữ vai trò chi phối các nghiệp vụ khác. các chu kì kinh doanh chỉ có thể diễn ra liên tục nhịp nhàng khi khâu bán hàng được tổ chức nhằm quay vòng vốn nhanh, tăng hiệu suất sinh lời.
Trong cơ chế thị trường, sự cạnh tranh là hiện tượng tất yếu. Nó vừa là cơ hội vừa là thử thách đối với mỗi doanh nghiệp. Cơ chế thị trường cho phép đánh giá chính xác hiệu quả kinh doanh của mỗi doanh nghiệp. Doanh nghiệp nào tổ chức tốt nghiệp vụ bán hàng đảm bảo thu hồi vốn và có lãi sẽ có điều kiện tồn tại và phát triển. Ngược lại doanh nghiệp tỏ ra non kém trong tổ chức hoạt động kinh doanh thì chẳng bao lâu sẽ đi đến bờ vực phá sản, thực tế của nền kinh tế nước ta đang chứng tỏ điều đó.
Bước sang năm 2008, việc bán hàng hoá của các doanh nghiệp trên toàn quốc phải đối mặt với không ít khó khăn thử thách. Một là, sự gia tăng ngày càng nhiều của các doanh nghiệp với các loại hình kinh doanh đa dạng làm cho sự cạnh tranh ngày càng trở nên gay gắt. Thêm vào đó, cùng với chính sách mở của nền kinh tế, các doanh nghiệp Việt Nam còn phải đối mặt với sự cạnh tranh của các hãng nước ngoài. Hai là, cơ chế quản lý kinh tế còn nhiều bất cập gây không ít khó khăn trở ngại cho các doanh nghiệp. Do vậy, để có thể đứng vững trên thương trường thì doanh nghiệp phải tổ chức tốt công tác bán hàng, có chiến lược bán hàng thích hợp cho phép doanh nghiệp chủ động thích ứng với môi trường nắm bắt cơ hội, huy động có hiệu quả nguồn lực hiện có và lâu dài để bảo toàn và phát triển vốn, nâng cao hiệu quả kinh doanh. Gắn liền với công tác bán hàng và xác định kết quả kinh doanh, kế toán bán hàng và xác định kết quả kinh doanh giữ một vai trò hết sức quan trọng vì nó phản ánh toàn bộ quá trình bán hàng của doanh nghiệp cũng như việc xác định kết quả kinh doanh cung cấp thông tin cho nhà quản lý về hiệu quả, tình hình kinh doanh của từng đối tượng hàng hoá để từ đó có được những quyết định kinh doanh chính xác kịp thời và có hiệu quả.
Cũng như các doanh nghiệp khác ở Công ty Cổ Phần Tân Vĩnh Tiến đã sử dụng kế toán như một công cụ đắc lực trong điều hành hoạt động kinh doanh và quản lý các hoạt động kinh doanh của mình. Trong đó Công ty đặc biệt quan tâm đến công tác kế toán bán hàng và xác định kết quả kinh doanh. Vì vậy mà việc tổ chức công tác kế toán và xác định kết quả kinh doanh nói riêng ở Công ty đã đi vào nề nếp và đạt hiệu quả cao trong kinh doanh.
Qua thời gian thực tập tại Công ty Cổ Phần Tân Vĩnh Tiến, nhận rõ được tầm quan trọng của công tác kế toán bán hàng và xác định kết quả kinh doanh, cùng với sự giúp đỡ của các cán bộ trong phòng kế toán, và sự chỉ bảo nhiệt tình của cô giáo Nguyễn Minh Hương em đã mạnh dạn đi sâu tìm hiểu được thực tế qua đề tài:
"Kế toán bán hàng và xác định kết quả kinh doanh ở Công ty Cổ Phần Tân Vĩnh Tiến”
Nội dung chuyên đề gồm ba phần:
Phần I: Những lý luận chung về kế toán bán hàng và xác định kết quả kinh doanh trong doanh nghiệp thương mại.
Phần II: Tình hình thực tế công tác kế toán và xác định kết quả kinh doanh ở Công ty Cổ Phần Tân Vĩnh Tiến.
Phần III: Hoàn thiện công tác kế toán bán hàng và xác định kết quả kinh doanh ở Công ty Cổ Phần Tân Vĩnh Tiến.
PHẦN I
NHỮNG LÝ LUẬN CHUNG VỀ KẾ TOÁN BÁN HÀNG VÀ XÁC ĐỊNH KẾT QUẢ KINH DOANH TRONG DOANH NGHIỆP THƯƠNG MẠI
I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BÁN HÀNG
1. Đặc điểm, chức năng, ý nghĩa của hoạt động bán hàng và xác định kết quả kinh doanh trong doanh nghiệp thương mại.
Trong nền kinh tế thị trường, khi mà các doanh nghiệp phải tự hạch toán kinh doanh, tự chịu trách nhiệm về quyết định của mình thì bán hàng hoá có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với sự sống còn của các doanh nghiệp. Các Mác đã từng khẳng định: Lưu thông vừa là tiền đề, vừa là điều kiện, vừa là kết quả của sản xuất.Theo quan điểm này thì sản xuất và lưu thông gắn bó chặt chẽ với nhau tạo nên một chu trình tái sản xuất xã hội. Các doanh nghiệp thương mại thực hiện khâu trung gian nối liền giữa sản xuất và tiêu dùng. Quá trình này bao gồm hai khâu mua và bán hàng hoá, là một tất yếu của quá trình tái sản xuất.
Quá trính bán hàng ở các doanh nghiệp thương mại là quá trình vận động của vốn kinh doanh từ vốn hàng hoá sang vốn bằng tiền và hình thành kết quả kinh doanh thương mại. Quá trình bán hàng hoàn tất khi hàng hoá được giao cho người mua và đã thu đuợc tiền bán hàng.
Chúng ta có thể khái quát đặc điểm cơ bản của quá trình bán hàng như sau:
- Đó là sự mua bán có thoả thuận: doanh nghiệp đồng ý bán và khách hàng đồng ý mua, đã trả tiền hoặc chấp nhận trả tiền.
- Doanh nghiệp giao cho khách hàng một lượng hàng hoá và nhận được từ khách hàng một khoản tiền hoặc một khoản nợ. Khoản tiền này được gọi là doanh thu bán hàng, dùng để bù đắp các khoản chi phí đã bỏ ra trong quá trình kinh doanh.
- Căn cứ vào số tiền hay khoản nợ mà khách hàng chấp nhận trả để hạch toán kết quả kinh doanh trong kì của doanh nghiệp.
- Xét về mặt kinh tế học, bán hàng là một trong bốn khâu của quá trình tái sản xuất xã hội. Đó là một quá trình lao động kĩ thuật nghiệp vụ phức tạp của doanh nghiệp thương mại nhằm thoả mãn nhu cầu tiêu dùng cho xã hội. Chỉ có thông qua bán hàng thì tính hữu ích của hàng hoá mới được thực hiện, tạo điều kiện để tiến hành tái sản xuất xã hội. Việc thúc đẩy bán hàng hoá ở doanh nghiệp thương mại là cơ sở để thúc đẩy công tác ở doanh nghiệp thương mại trong nền kinh tế quốc dân.
- Xét về phương diện xã hội, bán hàng có vai trò quan trọng trong việc đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng. Thông qua công tác bán hàng, các đơn vị kinh doanh có thể dự đoán nhu cầu tiêu dùng của xã hội nói chung và từng khu vực nói riêng với từng sản phẩm hàng hoá từ đó doanh nghiệp sẽ xây dựng được các kế hoạch kinh doanh phù hợp nhằm đạt hiệu quả cao nhất. Chính qua đó, doanh nghiệp đã góp phần điều hoà giữa cung và cầu trong nền kinh tế.
- Ngoài những chức năng trên, công tác bán hàng là cơ sở để có kết quả kinh doanh. Giữa bán hàng và xác định kết quả kinh doanh có mối liên hệ hết sức mật thiết và tác động qua lại lẫn nhau. Bán hàng là cơ sở để xác định kết quả kinh doanh, quyết định kết quả kinh doanh là cao hay thấp còn kết quả kinh doanh là căn cứ quan trọng để đưa ra các quyết địnhvà bán hàng hoá. Như vậy, có thể khẳng định rằng kết quả kinh doanh là mục tiêu cuối cùng của doanh nghiệp, còn bán hàng là phương tiện để thực hiện mục tiêu cuối cùng đó.
- Việc xác định kết quả kinh doanh chính là xác định phần chênh lệch giữa một bên là doanh thu thuần với một bên là toàn bộ chi phí đã bỏ ra. Số chênh lệch đó biểu hiện “lãi” hoặc “lỗ”. Xác định đúng kết quả kinh doanh là cơ sở để đánh giá hiệu quả của các hoạt động sản xuất kinh doanh trong một thời kì nhất định của doanh nghiệp, các định nghĩa vụ mà doanh nghiệp phải thực hiện đối với Nhà nước, lập các quĩ tạo điều kiện mở rộng sản xuất. Ngoài ra việc xác định đúng kết quả kinh doanh còn là cơ sở để lập kế hoạch cho kì kinh doanh tiếp theo, đồng thời nó cũng là số liệu cung cấp thông tin cho các đối tượng quan tâm như các nhà đầu tư, các ngân hàng… Trong điều kiện hiện nay, khi mà các doanh nghiệp đang phải tiến hành kinh doanh trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt của nền kinh tế thị trường, việc xác định kết quả kinh doanh có ý nghĩa rất quan trọng trong việc xử lý, cung cấp các thông tin không những cho các nhà quản lí của doanh nghiệp để lựa chọn phương án kinh doanh có hiệu qủa mà nó còn là căn cứ để các cơ quan quản lý tài chính, cơ quan thuế... thực hiện việc giám sát việc chấp hành các chính sách, chế độ tài chính...
Với những đặc điểm và vai trò nêu trên, kế toán bán hàng và xác định kết quả kinh doanh có những nhiệm vụ sau:
- Một là ghi chép phản ánh đầy đủ kịp thời khối lượng hàng hoá bán ta, tính toán đúng đắn trị giá vốn của hàng bán ra và các chi phí nhằm xác định chính xác kết quả kinh doanh của doanh nghiệp
Hai là cung cấp thông tin kịp thời về tình hình bán hàng phục vụ cho lãnh đạo, điều hành hoạt động kinh doanh thương mại.
Ba là kiểm tra tiến độ thực hiện kế hoạch bán hàng, kế hoạch lợi nhuận, kỉ luật thanh toán và quản lí chặt chẽ tiền bán hàng, kỉ luật thu nộp ngân sách.
Để thực hiện tốt các nhiệm vụ trên kế toán bán hàng và xác định kết quả kinh doanh phải chú ý những nội dung sau:
Thứ nhất, xác định đúng thời điểm hàng hoá được coi là được bán để kịp thời lập báo cáo bán hàng và phản ánh doanh thu. Báo cáo thường xuyên, kịp thời tình hình bán hàng và thanh toán với khách hàng, đảm bảo giám sát chặt chẽ hàng bán về số lượng, chất lượng, chủng loại, thời gian...Đôn đốc việc thu tiền bán hàng về quĩ kịp thời, tránh hiện tượng tiêu cực sử dụng tiền hạng cho mục đích cá nhân.
Thứ hai, tổ chức hệ thống chứng từ ban đầu và trình tự luân chuyển hợp lí. Các chứng từ ban đầu phải đầyđủ hợp pháp, luân chuyển khoa học, hợp lí tránh trùng lặp, bỏ sót và không quả phức tạp nhưng vẫn đảm bảo yêu cầu hợp lý, nâng cao hiệu quả công tác kế toán. Tổ chức vận dụng tốt hệ thống tài khoản, hệ thống sổ sách kế toán phù hợp với đặc điểm sản xuất kinh doanh của đơn vị.
Thứ ba, xác định đúng và tập hợp đúng và tập hợp đầy đủ chi phí bán hàng phát sinh trong quá trình bán hàng cũng như chi phí quản lý doanh nghiệp, phân bổ chi phí hợp lí cho hàng còn lại cuối kì và kết chuyển chi phí hợp lí cho hàng trong kì để xác định kết quả kinh doanh chính xác.
Kế toán bán hàng và xác định kết quả kinh doanh thực hiện tốt các nhiệm vụ của mình sẽ đem lại hiệu quả thiết thực cho công tác bán hàng nói riêng và cho hoạt động kinh doanh nói chung của doanh nghiệp. Nó giúp cho người sử dụng những thông tin của kế toán nắm được toàn diện hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, giúp cho người quản lý trong việc ra quyết định kịp thời cũng như trong việc lập kế hoạch kinh doanh trong tương lai.
2. Phương pháp tính giá vốn của hàng bán.
Để có số liệu hạch toán, cũng như xác định kết quả kinh doanh của doanh nghiệp cần phải xác định phương pháp tính trị giá mua thực tế của hàng hoá bán ra trong kì của doanh nghiệp để từ đó xác định giá vốn hàng bán. Ta có:
Giá vốn hàng bán
=
Giá mua hàng hóa
xác định là tiêu thụ
+
Chi phí mua
phân bổ
Tuỳ theo điều kiện của mình mà doanh nghiệp lựa chọn phương pháp tính giá mua hàng hoá xác định là được bán cho phù hợp trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc nhất quán trong kế toán, tức là sử dụng phương pháp nào thì phải thống nhất trong niên độ kế toán. Thông thường, có những phương pháp tính giá mua hàng hoá như sau:
2.1. Phương pháp giá thực tế bình quân gia quyền.
Trong đó:
Theo phương pháp này, giá vốn của hàng hoá xuất kho để bán tính được tương đối hợp lý nhưng không linh hoạt vì cuối tháng mới tính được đơn giá bình quân.
2.2. Phương pháp bình quân sau mỗi lần nhập.
Về bản chất, phương pháp này giống phương pháp trên nhưng đơn giá bình quân phải được tính lại sau mỗi lần nhập trên cơ sở giá mua của hàng tồn và giá mua của lần nhập đó. Phương pháp này đảm bảo số liệu có độ chính xác cao và kịp thời tuy nhiên khối lượng công việc tính toán lại tăng thêm do đó chỉ nên áp dụng với các doanh nghiệp có số lần mua hàng hoá ít nhưng khối lượng lớn.
2.3. Phương pháp nhập trước, xuất trước (FIFO).
Theo phương pháp này hàng hoá xuất được tính giá mua trên cơ sở giả định lô hàng nào nhập kho trước thì tính gía mua vào của cho hàng hoá xuất trước, nhập sau thì tính sau.
Kế toán phải mở sổ chi tiết cho từng loại hàng về số lượng, đơn giá và thành tiền về từng lần nhập xuất hàng hoá.
2.4. Phương pháp nhập sau xuất trước (LIFO).
Phương pháp này tính giá mua hàng hoá bán ra trên cơ sở giả định lô hàng nào nhập kho sau thì được xuất trước, vì vậy việc tính giá mua sẽ ngược lại với phương pháp nhập trước xuất trước.
2.5. Phương pháp ghi sổ theo giá hạch toán.
Giá hạch toán là giá do doanh nghiệp đặt ra, có thể lấy giá kế hoạch hoặc giá cuối kì trước và được qui định thống nhất trong một kì hạch toán. Theo phương pháp này, để tính được trị giá mua thực tế của hàng hoá bán ra trong kì, kế toán phải mở sổ kế toán chi tiết, phản ánh sự biến động của hàng hoá nhập, xuất trong kì theo giá hạch toán. Hàng ngày, kế toán ghi sổ về các nghiệp vụ xuất hàng hoá theo giá hạch toán:
Cuối kỳ, kế toán tiến hành xác định hệ số chênh lệch giá của từng loại hàng hoá theo công thức:
Trị giá mua thực tế của hàng hoá bán ra được xác định theo công thức:
Trị giá mua thực tế hàng bán ra
=
Giá hạch toán của hàng bán ra trong kì
x
Hệ số chênh lệch giá
2.6. Phương pháp giá thực tế đích danh.
Theo phương pháp này, trị giá mua của hàng hoá xuất kho bán thuộc lô hàng nhập nào thì tính theo đơn giá của chính lô đó.
Phương pháp này phản ánh rất chính xác giá của từng lô hàng xuất bán nhưng công việc rất phức tạp phương pháp đòi hỏi thủ kho phải nắm được chi tiết rừng lô hàng, phương pháp này được áp pháp dụng cho các loại hàng hoá có giá trị cao, được bảo quản riêng theo từng lô của, mỗi lần nhập.
Cuối kỳ, kế toán tiến hành phân bố chi phí thu mua của hàng còn lại đầu kỳ và chi phí thu mua phát sinh trong kỳ này cho hán xuất kho và hàn còn lại cuối kỳ theo công thức:
Như vậy giá vốn của hàng bán ra được tính theo công thức sau:
3. Các phương pháp kế toán chi tiết hàng hoá.
Kế toán chi tiết hàng hoá được thực hiện đối với từng loại hàng lưu chuyển qua kho cả về chỉ tiêu giá trị và hiện vật.
Để có thể quản lý tốt nhất hàng hoá có trong kho thì điều quan trọng là doanh nghiệp phải lựa chọn vận dụng phương pháp hạch toán chi tiết phù hợp với yêu cầu và trình độ quản ký của đội ngũ kế toán của doanh nghiệp. Tuỳ theo tình hình, đặc điểm riêng của mình mà doanh nghiệp có thể áp dụng một trong ba phương pháp sau:
3.1. Phương pháp thẻ song song.
* Điều kiện vận dụng:
Những đơn vị thường xuyên áp dụng phương pháp hạch toán thẻ song song thường có đặc trưng: chủng loại vật tư ít, mật độ nhập xuất nhiều cần giám sát thường xuyên, hệ thống kho tàng tập trung kế toán có thể kiểm tra và đối chiếu thường xuyên.
* Đặc điểm tổ chức sổ và quy trình hạch toán :
Tại kho: thực hiện bước (1). Việc ghi chép tình hình nhập xuất tồn do thủ kho tiến hành trên thẻ kho hoặc sổ kho theo từng loại hàng, từng mặt hàng có trong kho và ghi theo chỉ tiêu số lượng.
Tại phòng kế toán thực hiện các bước (2), (3), (4). Kế toán mở thẻ kế toán chi tiết cho từng loại hàng hoá tương ứng với thẻ kho nhưng khác là được theo dõi trên cả hai chỉ tiêu hiện vật và giá trị. Hàng ngày hoặc định kỳ, khi nhận được chứng từ nhập xuất do thủ kho chuyển tới, nhân viên kế toán kiểm tra đối chiếu sau đó vào số chi tiết. Cuối tháng tiến hành cộng sổ và đối chiếu với thẻ kho.
3.2. Phương pháp sổ số dư.
*Điều kiện vận dụng:
Phương pháp này thích hợp cho những doanh nghiệp có đặc trưng: chủng loại hàng hoá phong phú, mật độ nhập xuất lớn, hệ thống kho tàng phân tán và quản lý tổng hợp, thường sử dụng giá hạch toán để ghi chép, lao động kế toán không đủ để thực hiện đối chiếu, kiểm tra thường xuyên nhưng đòi hỏi phải có chuyên môn vững vàng, tinh thần trách nhiệm cao, đảm bảo số liệu được ghi chép chính xác trung thực.
Đặc điểm tổ chức số và quy trình hạch toán:
Tại kho: Thủ kho thực hiện các bước (1), (3). Ở phương pháp này ngoài việc ghi chép giống phương pháp trên thủ kho còn sử dụng sổ số dư để ghi chép chỉ tiêu số lượng của hàng hoá. Sổ này do kế toán lập cho từng thủ kho và sử dụng cả năm. Hàng tháng, vào ngày cuối tháng kế toán chuyển sổ dư cho thủ kho. Thủ kho sau khi cộng số liệu nhập xuất trong tháng và tính ra số tồn cuối tháng của từng loại hàng trên thẻ kho và vào sổ số dư theo từng loại hàng hoá.
Cũng vào cuối tháng, sau khi nhận được sổ số dư do thủ kho chuyển lên thì kế toán căn cứ vào số lượng và đơn giá của từng loại hàng hoá tồn kho để tính ra chỉ tiêu giá trị của số dư và ghi vào cột “thành tiền” trên sổ số dư. Số liệu này được đối chiếu với số liệu cột tồn kho trên Bảng tổng hợp và chúng phải trùng nhau.
3.3. Phương pháp sổ đối chiếu luân chuyển.
* Điều kiện vận dụng:
Phương pháp này thích hợp với doanh nghiệp có quy mô họat động vừa, chủng loại nguyên vật liệu không nhiều, khối lượng chứng từ nhập xuất không quá nhiều, không bố trí riêng nhân viên kế toán vật liệu do vậy không có điều kiện ghi chép, theo dõi hàng ngày.
* Đặc điểm tổ chức và quy trình hạch toán.
- Tại kho: Thủ kho thực hiện bước (2), (3), (4). Kế toán mở sổ đối chiếu luân chuyển để ghi chép tình hình nhập xuất tốn kho của từng loại hàng hoá theo cả 2 chỉ tiêu : số lượng, giá trị ở từng kho cho cả năm, mỗi tháng chỉ ghi một lần vào cuối tháng. Để có số liệu ghi vào số đối chiếu luân chuyển, kế toán lập bảng kê nhập, xuất, cuối tháng tiến hành kiểm tra số liệu giữa số đối chiếu luân chuyển với thẻ kho và số liệu kế toán tổng hợp.
4. Các phương thức bán hàng hoá.
Trong nền kinh tế thị trường, việc bán sản phẩm, hàng hoá của các doanh nghiệp được thực hiện bằng nhiều phương thức khác nhau, theo đó các sản phẩm hàng hoá vận động từ doanh nghiệp đến tay các hộ tiêu dùng cuối cùng. Tuỳ thuộc vào đặc điểm sản phẩm hàng hoá tiêu thụ mà doanh nghiệp có thể sử dụng một trong các phương thức sau:
4.1. Bán buôn qua kho.
Đây là hình thức bán buôn mà hàng hoá bán được xuất ra từ kho của doanh nghiệp. Theo phương thức này có 2 hình thức bán buôn:
* Bán buôn qua kho bằng cách giao hàng trực tiếp: Theo hình thức này, bên mua cử đại diện đến kho doanh nghiệp thương mại để nhận hàng. Doanh nghiệp xuất kho hàng hoá giao trực tiếp cho đại diện bên mua ký nhận đủ hàng, bên mua đã thanh roán hoặc chập nhận thanh toán, hàng hoá được xác nhận là tiêu thụ.
* Bán buôn qua kho bằng cách chuyển thẳng hàng: Theo hình thức này, căn cứ vào hợp đồng đã ký kết, doanh nghiệp thương mại xuất kho hàng hoá bằng phương tiện vận tải của mình hay thuê ngoài chuyển đến giao cho bên mua tại một địa điểm đã được thoả thuận giữa hai bên. Hàng hoá chuyển bán vẫn thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp thương mại, số hàng này được xác nhận là tiêu thụ khi nhận được tiền của bên mua thanh toán hay chấp nhận thanh toán.
4.2. Bán buôn vận chuyển thẳng.
Đây là hình thức bán buôn mà các doanh nghiệp thương mại sau khi mua hàng, nhận hàng mua về không nhập kho mà chuyển thẳng cho bên mua. Phương thức này được thực hiện theo các hình thức:
* Bán buôn vận chuyển thẳng không tham gia thanh toán.
Theo hình thức này, doanh nghiệp không tham gia vào việc thanh toán tiền mua hàng bán hàng với người mua, người bán. Doanh nghiệp chỉ thực hiện việc môi giới: sau khi tìm được nguồn hàng, thoả thuận giá cả số lượng (dựa trên cơ sở giá cả số lượng trong đơn đặt hàng của người mua) doanh nghiệp tiến hành bàn giao hàng ngày tại kho hay địa điểm giao hàng của người bán và người mua có trách nhiệm thanh toán với người bán chứ không phải với doanh nghiệp. Như vậy, hàng hoá trong trường hợp này không thuộc sở hữu của doanh nghiệp, doanh nghiệp được hưởng hoa hồng môi giới.
* Bán buôn vận chuyển thẳng có tham gia thanh toán.
Theo hình thức này, doanh nghiệp thương mại sau khi mua hàng chuyển hàng đi bán thẳng cho bên mua tại một địa diểm đã thoả thuận. Hàng hoá lúc này vẫn thuộc sở hữu của doanh nghiệp. Chỉ khi bên mua thanh toán hoặc khi doanh nghiệp nhận được giấy biên nhận hàng và bên mua chấp nhận thanh toán thì hàng hoá được xác nhận là tiêu thụ. Trong trường hợp này, doanh nghiệp tham gia thanh toán với cả hai bên: Thu tiền bán hàng của người mua và trả tiền mua hàng cho người bán.
4.3. Phương thức bán lẻ:
Đây là phương thức bán hàng trực tiếp cho người tiêu dùng.
* Hình thức bán hàng thu tiền tập trung:
Theo hình thức này nhiệm vụ thu tiền của người mua và giao hàng cho người mua tách rời nhau. Mỗi quầy hàng có một nhân viên thu tiền mua hàng của khách hàng, viết hoá đơn hoặc tích kê giao hàng cho khách để khách hàng đến nhận ở quầy hàng do nhân viên bán hàng giao. Hết ca