Ngày nay, bối cảnh kinh tế nước ta đã có sự biến chuyển sâu sắc, toàn diện và ngày càng theo xu thế hội nhập. Cùng với sự mở cửa của nền kinh tế là sự tham gia của các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài với những lợi thế về vốn, chất lượng sản phẩm, chi phí sản xuất, quy mô doanh nghiệp, kinh nghiệm quản lý đã làm cho sự cạnh tranh trên thị trường nội địa trở nên rất quyết liệt. Các doanh nghiệp trong nước đang đứng trước những thách thức vô cùng lớn. Để tồn tại và phát triển bền vững, doanh nghiệp phải phấn đấu tiết kiệm chi phí, hạ thấp giá thành sản phẩm. Đó là một trong những điều kiện quan trọng tạo cho doanh nghiệp một ưu thế trong cạnh tranh.
Hơn thế nữa, giá thành sản phẩm còn là một chỉ tiêu chất lượng phản ánh và đo lường kết quả kinh doanh. Đồng thời chỉ tiêu giá thành còn giữ chức năng thông tin và kiểm tra về chi phí giúp cho người quản lý có cơ sở để ra các quyết định đúng đắn, kịp thời. Muốn tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm phải nâng cao chất lượng công tác quản lý. Phân tích giá thành sản phẩm là cách tốt nhất để hiểu biết nguyên nhân và nhân tố làm cho chi phí biến động ảnh hưởng tới giá thành, từ đó người quản lý sẽ có quyết định tối ưu hơn.
Trong quá trình xây dựng và phát triển, ban lãnh đạo Công ty Cổ phần Xi măng Vinaconex Lương Sơn – Hoà Bình luôn chú trọng đến công tác phối hợp các nguồn lực của doanh nghiệp, sử dụng hợp lý chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm. Đây là một trong những yếu tố giúp Công ty Cổ phần xi măng Vinaconex Lương Sơn – Hoà Bình đứng vững và không ngừng lớn mạnh trước những thách thức của thị trường.
Nội dung chính trong luận văn của em gồm có 3 phần:
Phần I. Một số lý luận cơ bản về kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm
Phần II. Thực trạng về công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại CTCP Xi măng Vinaconex Lương Sơn –Hoà Bình.
Phần III. Một số nhận xét và ý kiến đóng góp nhằm hoàn thiện công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại CTCP Xi măng Vinaconex Lương Sơn- Hoà Bình.
154 trang |
Chia sẻ: dansaran | Lượt xem: 3298 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty Cổ phần xi măng Vinaconex Lương Sơn – Hoà Bình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Ngày nay, bối cảnh kinh tế nước ta đã có sự biến chuyển sâu sắc, toàn diện và ngày càng theo xu thế hội nhập. Cùng với sự mở cửa của nền kinh tế là sự tham gia của các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài với những lợi thế về vốn, chất lượng sản phẩm, chi phí sản xuất, quy mô doanh nghiệp, kinh nghiệm quản lý đã làm cho sự cạnh tranh trên thị trường nội địa trở nên rất quyết liệt. Các doanh nghiệp trong nước đang đứng trước những thách thức vô cùng lớn. Để tồn tại và phát triển bền vững, doanh nghiệp phải phấn đấu tiết kiệm chi phí, hạ thấp giá thành sản phẩm. Đó là một trong những điều kiện quan trọng tạo cho doanh nghiệp một ưu thế trong cạnh tranh.
Hơn thế nữa, giá thành sản phẩm còn là một chỉ tiêu chất lượng phản ánh và đo lường kết quả kinh doanh. Đồng thời chỉ tiêu giá thành còn giữ chức năng thông tin và kiểm tra về chi phí giúp cho người quản lý có cơ sở để ra các quyết định đúng đắn, kịp thời. Muốn tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm phải nâng cao chất lượng công tác quản lý. Phân tích giá thành sản phẩm là cách tốt nhất để hiểu biết nguyên nhân và nhân tố làm cho chi phí biến động ảnh hưởng tới giá thành, từ đó người quản lý sẽ có quyết định tối ưu hơn.
Trong quá trình xây dựng và phát triển, ban lãnh đạo Công ty Cổ phần Xi măng Vinaconex Lương Sơn – Hoà Bình luôn chú trọng đến công tác phối hợp các nguồn lực của doanh nghiệp, sử dụng hợp lý chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm. Đây là một trong những yếu tố giúp Công ty Cổ phần xi măng Vinaconex Lương Sơn – Hoà Bình đứng vững và không ngừng lớn mạnh trước những thách thức của thị trường.
Với hy vọng có được những đóng góp cho công tác phấn đấu hạ giá thành sản phẩm, trong thời gian thực tập em đã có những nghiên cứu về tình hình thực tế và năng lực thực tại của công ty, em đã mạnh dạn lựa chọn đề tài: “Kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty Cổ phần xi măng Vinaconex Lương Sơn – Hoà Bình”.
Nội dung chính trong luận văn của em gồm có 3 phần:
Phần I. Một số lý luận cơ bản về kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm
Phần II. Thực trạng về công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại CTCP Xi măng Vinaconex Lương Sơn –Hoà Bình.
Phần III. Một số nhận xét và ý kiến đóng góp nhằm hoàn thiện công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại CTCP Xi măng Vinaconex Lương Sơn- Hoà Bình.
Để hoàn thành được khoá luận tốt nghiệp này, em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của thầy giáo Phan Thanh Đức và sự chỉ bảo giúp đỡ, tạo điều kiện của ban lãnh đạo, các cô chú, anh chị đang công tác tại Công ty Cổ phần Xi măng Vinaconex Lương Sơn – Hoà Bình. Tuy nhiên, do thời gian và trình độ còn nhiều hạn chế nên khoá luận của em cũng không thể tránh khỏi sai sót, em rất mong nhận được sự đóng góp của các thầy cô để khoá luận của em được hoàn thiện hơn.
PHẦN 1
MỘT SỐ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ KẾ TOÁN
CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM
1.1. Khái niệm, phân loại chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm
1.1.1. Chi phí sản xuất
a. Khái niệm, bản chất và nội dung kinh tế của chi phí sản xuất
Chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là toàn bộ các hao phí về lao động sống, lao động vật hoá và các chi phí cần thiết khác mà doanh nghiệp phải chi ra trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, biểu hiện bằng tiền và tính cho một thời kỳ nhất định (tháng, quý, năm). Quá trình sản xuất của một doanh nghiệp sản xuất công nghiệp là quá trình kết hợp sự tiêu hao của 3 yếu tố: tư liệu lao động, đối tượng lao động và sức lao động. Khi có đủ 3 yếu tố này thì hoạt động sản xuất của doanh nghiệp được tiến hành, tạo ra giá trị sản phẩm sản xuất. Sự hình thành nên chi phí sản xuất là tất yếu khách quan, không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của doanh nghiệp.
Bản chất của chi phí trong hoạt động của doanh nghiệp được xác định là những hao phí về tài nguyên, vật chất, về lao động và phải gắn liền với mục đích kinh doanh.
Chi phí của doanh nghiệp phải được đo lường và tính toán bằng tiền trong một khoảng thời gian nhất định.
Độ lớn của chi phí phụ thuộc vào hai nhân tố chủ yếu: khối lượng các yếu tố sản xuất đã tiêu hao trong kỳ và giá cả của một đơn vị yếu tố sản xuất đã hao phí.
Vì lẽ đó, cần phải phân biệt giữa chi phí với chi tiêu.
Chi phí khác với chi tiêu. Chỉ được tính vào chi phí của kỳ kế toán những hao phí về tài sản và lao động có liên quan đến khối lượng sản phẩm sản xuất ra trong kỳ chứ không phải mọi khoản chi ra trong kỳ kế toán. Ngược lại, chi tiêu là sự giảm đi đơn thuần các loại vật tư, tài sản, tiền vốn của doanh nghiệp, bất kể nó được dùng vào mục đích nào bao gồm: chi cho quá trình mua sắm vật tư, hàng hoá, chi cho sản xuất chế tạo sản phẩm, chi cho quản lý, chi vận chuyển, bốc dỡ…
Chi phí và chi tiêu là hai khái niệm khác nhau nhưng có quan hệ mật thiết với nhau, đồng thời có sự khác nhau về lượng và về thời điểm phát sinh. Chi phí phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh, còn chi tiêu không gắn liền với mục đích sản xuất kinh doanh. Chi tiêu là cơ sở phát sinh chi phí, không có chi tiêu thì không có chi phí.
b. Phân loại chi phí sản xuất
Chi phí sản xuất có thể được phân loại theo nhiều tiêu thức khác nhau, tuỳ thuộc vào mục đích và yêu cầu của công tác quản lý. Tuy nhiên, về mặt hạch toán, chi phí sản xuất thường được phân theo các tiêu thức sau:
Phân theo yếu tố chi phí
Việc phân loại này nhằm phục vụ cho việc tập hợp, quản lý chi phí theo nội dung kinh tế ban đầu đồng nhất của nó mà không xét đến công dụng cụ thể, địa điểm phát sinh. Cách phân loại này tạo điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng và phân tích định mức vốn lưu động cũng như việc lập, kiểm tra và phân tích dự đoán chi phí. Theo quy định hiện hành ở Việt Nam, toàn bộ chi phí được chia làm 5 yếu tố:
Yếu tố chi phí nguyên liệu, vật liệu: bao gồm toàn bộ giá trị nguyên vật liệu chính, nguyên vật liệu phụ, phụ tùng thay thế, công cụ dụng cụ, nhiên liệu, động lực…
Yếu tố chi phí nhân công: gồm tổng số tiền lương, phụ cấp lương phải trả cho người lao động, trích BHYT, BHXH, KPCĐ theo tỷ lệ quy định trên tổng số tiền lương.
Yếu tố khấu hao TSCĐ: phản ánh tổng số khấu hao TSCĐ phải trích trong kỳ của tất cả TSCĐ sử dụng cho SXKD.
Yếu tố chi phí dịch vụ mua ngoài: phản ánh toàn bộ chi phí dịch vụ mua ngoài dùng vào sản xuất kinh doanh.
Yếu tố chi phí khác bằng tiền: gồm các chi phí khác bằng tiền chưa phản ánh ở trên dùng vào hoạt động SXKD trong kỳ
Phân theo khoản mục chi phí trong giá thành sản phẩm
Căn cứ vào ý nghĩa của chi phí trong giá thành sản phẩm và để thuận tiện cho việc tính giá thành sản phẩm, chi phí được phân theo khoản mục. Cách phân loại này dựa vào công dụng của chi phí mức phân bổ chi phí cho từng đối tượng. Theo quy định hiện hành, giá thành toàn bộ sản phẩm bao gồm:
Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: bao gồm toàn bộ giá trị nguyên vật liệu liên quan trực tiếp đến việc sản xuất, chế tạo sản phẩm hay thực hiện lao vụ, dịch vụ.
Chi phí nhân công trực tiếp: gồm toàn bộ tiền lương, tiền công và các khoản phụ cấp mang tính chất tiền lương trả cho người lao động trực tiếp sản xuất, chế tạo sản phẩm hay thực hiện các dịch vụ cùng với các khoản trích theo lương theo tỷ lệ quy định cho các quỹ KPCĐ, BHXH, BHYT.
Chi phí sản xuất chung: bao gồm toàn bộ các chi phí còn lại phát sinh trong phạm vi phân xưởng, bộ phận sản xuất sau khi loại trừ chi phí nguyên vật liệu và chi phí nhân công trực tiếp kể trên.
Chi phí bán hàng: gồm toàn bộ các khoản chi phí phát sinh liên quan đến việc tiêu thụ sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ trong kỳ.
Chi phí quản lý doanh nghiệp: bao gồm toàn bộ các khoản chi phí phát sinh liên quan đến quản trị kinh doanh và quản lý hành chính trong phạm vi toàn doanh nghiệp mà không tách được cho bất kỳ hoạt động hay phân xưởng nào.
Ngoài hai cách phân loại phổ biến trên, các doanh nghiệp còn có thể phân loại chi phí sản xuất theo các cách dưới đây:
Phân theo cách thức kết chuyển chi phí
Theo cách thức kết chuyển, toàn bộ chi phí sản xuất kinh doanh chia thành chi phí sản phẩm và chi phí thời kỳ.
Chi phí sản phẩm là những chi phí gắn liền với các sản phẩm được sản xuất ra hoặc được mua
Chi phí thời kỳ là những chi phí làm giảm lợi tức trong một kỳ nào đó, nó không phải là một phần giá trị sản phẩm được sản xuất ra hay được mua nên được xem là các phí tổn, cần được khấu trừ ra từ lợi nhuận của thời kỳ mà chúng phát sinh.
Phân theo quan hệ của chi phí với khối lượng công việc, sản phẩm hoàn thành
Để thuận lợi cho việc lập kế hoạch và kiểm tra chi phí, đồng thời làm căn cứ để đề ra các quyết định kinh doanh, toàn bộ chi phí sản xuất kinh doanh là được phân theo mối quan hệ với khối lượng công việc hoàn thành. Theo cách này, chi phí được chia thành:
Biến phí: là những chi phí thay đổi về tổng số, về tỷ lệ so với khối lượng công việc hoàn thành, chẳng hạn: chi phí về nguyên liệu, nhân công… Tuy nhiên, biến phí nếu được tính cho một đơn vị sản phẩm thì lại có tính cố định
Định phí là những chi phí không đổi về tổng số so với khối lượng công việc hoàn thành, như: các chi phí về khấu hao TSCĐ, chi phí thuê mặt bằng… Các chi phí này nếu tính cho một đơn vị sản phẩm thì lại biến đổi nếu số lượng sản phẩm thay đổi.
1.1.2. Giá thành sản phẩm
a. Khái niệm, bản chất và nội dung kinh tế của giá thành sản phẩm
Giá thành sản phẩm là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các khoản hao phí về lao động sống và lao động vật hoá có liên quan đến khối lượng công tác, sản phẩm, lao vụ đã hoàn thành
Giá thành sản phẩm là một phạm trù của sản xuất hàng hoá, phản ánh lượng giá trị của những hao phí lao động sống và lao động vật hoá đã thực sự chi ra cho sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Trong giá thành sản phẩm chỉ bao gồm những chi phí tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào quá trình sản xuất, tiêu thụ phải được bồi hoàn để tái sản xuất ở doanh nghiệp mà không bao gồm những chi phí phát sinh trong kỳ kinh doanh của doanh nghiệp. Những chi phí đưa vào giá thành sản phẩm phải phản ánh được giá trị thực của các tư liệu sản xuất tiêu dùng cho sản xuất, tiêu thụ và các khoản chi tiêu khác có liên quan đến việc bù đắp giản đơn hao phí lao động sống.
Giá thành sản phẩm là một chỉ tiêu mang tính giới hạn và xác định, vừa mang tính chất khách quan, vừa mang tính chất chủ quan. Trong hệ thống các chỉ tiêu quản lý của doanh nghiệp, giá thành sản phẩm là một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp, phản ánh kết quả sử dụng các loại tài sản trong quá trình sản xuất kinh doanh cũng như tính đúng đắn của những giải pháp quản lý mà doanh nghiệp đã thực hiện để nhằm mục đích hạ thấp chi phí, tăng cao lợi nhuận.
b. Phân loại giá thành sản phẩm
Phân theo thời điểm và nguồn số liệu để tính giá thành
Theo cách phân loại này, chỉ tiêu giá thành được chia thành:
Giá thành kế hoạch: giá thành kế hoạch được xác định trước khi bước vào kinh doanh trên cơ sở giá thành thực tế của kỳ trước và các định mức, các dự toán chi phí của kỳ kế hoạch.
Giá thành định mức: cũng như giá thành kế hoạch, giá thành định mức cũng được xác định trước khi bắt đầu sản xuất sản phẩm. Tuy nhiên, khác với giá thành kế hoạch được xây dựng trên cơ sở các định mức bình quân tiên tiến và không biến đổi trong suốt cả kỳ kế hoạch, giá thành định mức lại được xác định trên cơ sở các định mức về chi phí hiện hành tại từng thời điểm nhất định trong kỳ kế hoạch (thường là ngày đầu tháng). Do đó, giá thành định mức luôn thay đổi phù hợp với sự thay đổi của các định mức chi phí đạt được trong quá trình thực hiện kế hoạch giá thành.
Giá thành thực tế: giá thành thực tế là chỉ tiêu được xác định sau khi kết thúc quá trình sản xuất sản phẩm dựa trên cơ sở các chi phí thực tế phát sinh trong quá trình sản xuất sản phẩm.
Cách phân loại này có tác dụng trong việc quản lý và giám sát chi phí, xác định được các nguyên nhân vượt hay hụt định mức chi phí trong kỳ hạch toán. Từ đó, điều chỉnh kế hoạch hoặc định mức chi phí cho phù hợp.
Phân theo phạm vi phát sinh chi phí
Giá thành sản xuất (còn gọi là giá thành công xưởng): là chỉ tiêu phản ánh tất cả những chi phí phát sinh liên quan đến việc sản xuất, chế tạo sản phẩm trong phạm vi phân xưởng sản xuất.
Giá thành tiêu thụ (còn gọi là giá thành toàn bộ): là chỉ tiêu phản ánh toàn bộ các khoản chi phí phát sinh liên quan đến việc sản xuất, tiêu thụ sản phẩm.
Cách phân loại này có tác dụng giúp cho nhà quản lý biết được kết quả lãi (lỗ) của từng mặt hàng, từng loại dịch vụ mà doanh nghiệp kinh doanh. Tuy nhiên, do những hạn chế nhất định khi lựa chọn tiêu thức phân bổ chi phí bán hàng và chi phí quản lý cho từng mặt hàng, từng loại dịch vụ nên cách phân loại này chi còn mang ý nghĩa học thuật, nghiên cứu.
Có thể nói, quá trình sản xuất kinh doanh là quá trình mà doanh nghiệp pahỉ thường xuyên đầu tư các loại chi phí khác nhau nhằm đạt được mục tiêu: tạo ra khối lượng sản phẩm, lao vụ hoặc khối lượng công việc phù hợp với nhiệm vụ sản xuất đã đề ra.
Doanh nghiệp luôn muốn biết để sản xuất ra một sản phẩm thì doanh nghiệp phải tốn kém hết bao nhiêu chi phí, các loại chi phí và tỷ trọng của từng loại chi phí, khả năng để hạ thấp các loại chi phí này. Do đó, chỉ tiêu để thoả mãn những thông tin trên chính là giá thành sản phẩm.
1.1.3. Mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm.
Chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm đều là các hao phí về lao động sống và lao động vật hoá. Tuy nhiên, chi phí và giá thành là hai mặt khác nhau của quá trình sản xuất. Chi phí sản xuất phản ánh mặt hao phí sản xuất, còn giá thành sản phẩm phản ánh mặt kết quả sản xuất. Nói đến chi phí sản xuất là nói đến toàn bộ các khoản hao phí vật chất được tính bằng tiền mà doanh nghiệp đã bỏ ra để thực hiện quá trình sản xuất sản phẩm, có đặc điểm là luôn vận động mang tính đa đạng và phức tạp gắn liền với tính đa dạng, phức tạp của ngành nghề sản xuất, quy trình sản xuất. Ngược lại, khi nói tới giá thành sản phẩm là nói tới toàn bộ những chi phí tính bằng tiền để sản xuất và tiêu thụ một khối lượng sản phẩm hoặc dịch vụ nhất định. Chi phí sản xuất trong kỳ là cơ sở, tiền đề để tính giá thành sản phẩm, dịch vụ đã hoàn thành và giá thành sản phẩm là mục đích cuối cùng của kế toán tập hợp chi phí sản xuất. Sự tiết kiệm hay lãng phí chi phí sản xuất có ảnh hưởng trực tiếp đến giá thành sản phẩm bởi chi phí sản xuất là đầu vào, là nguyên nhân dẫn tới kết quả đầu ra là giá thành sản phẩm. Chi phí bỏ ra cao hay thấp cũng kéo theo giá thành sản phẩm cao hay thấp tương ứng.
Sơ đồ mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm
Chi phí sản xuất dở dang đầu kỳ
Chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ
Tổng giá thành sản phẩm
Chi phí sản xuất dở dang cuối kỳ
Qua sơ đồ cho thấy: AC = AB + BD – CD, hay:
Tổng giá thành sản phẩm hoàn thành
=
Chi phí sản xuất dở dang đầu kỳ
+
Chi phí sản xuất PS trong kỳ (đã trừ các khoản thu hồi ghi giảm chi phí)
-
Chi phí sản xuất dở dang cuối kỳ
(Công thức tính giá thành sản phẩm này được tính cho giá thành sản xuất, chi phí bao gồm chi phí liên quan đến quá trình sản xuất, chế tạo sản phẩm)
Khi giá trị sản phẩm dở dang (chi phí sản xuất dở dang) đầu kỳ và cuối kỳ bằng nhau hoặc các ngành sản xuất không có sản phẩm dở dang thì tổng giá thành sản phẩm bằng tổng chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ.
Trong hoạt động sản xuất của doanh nghiệp, tuy chi phí và giá thành là hai khái niệm có mối quan hệ mật thiết với nhau nhưng lại hoàn toàn khác nhau. Sự khác biệt đó là:
- Chi phí sản xuất luôn gắn liền với từng thời kỳ đã phát sinh ra chúng, còn giá thành sản phẩm lại gắn liền với một khối lượng sản phẩm, dịch vụ đã hoàn thành.
- Chi phí phát sinh trong doanh nghiệp được phân thành các yếu tố chi phí, có cùng một nội dung kinh tế, chúng không nói rõ địa điểm và mục đích bỏ ra chi phí. Còn những chi phí nào phát sinh nói rõ địa điểm và mục đích bỏ ra chi phí đó thì chúng được tập hợp lại thành các khoản mục để tính toán giá thành sản phẩm, dịch vụ.
- Chi phí sản xuất trong kỳ không chỉ liên quan đến những sản phẩm đã hoàn thành mà còn liên quan đến cả sản phẩm còn đang dở dang cuối kỳ và sản phẩm hỏng. Còn giá thành sản phẩm không liên quan đến chí phí sản xuất sản phẩm dở dang cuối kỳ và sản phẩm hỏng, nhưng lại liên quan đến chi phí sản xuất của sản phẩm dở dang kỳ trước chuyển sang.
- Khác nhau về phạm vi: chi phí sản xuất tính cho 1 kỳ còn giá thành sản phẩm tính cho 1 sản phẩm hoàn thành.
1.1.4. Sự cần thiết phải tổ chức công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm
Giá thành sản phẩm là biểu hiện bằng tiền các chi phí tính cho một khối lượng sản phẩm nhất định hoàn thành. Mục đích sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là tạo nên những giá trị sử dụng nhất định để đáp ứng yêu cầu tiêu dùng xã hội. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường các doanh nghiệp luôn quan tâm đến hiệu quả của các chi phí bỏ ra và với chi phí bỏ ra ít nhất doanh nghiệp sẽ thu được giá trị sử dụng lớn nhất. Do đó, doanh nghiệp luôn tìm mọi biện pháp để hạ thấp chi phí nhằm mục đích thu lợi nhuận tối đa.
Bên cạnh đó, một trong những chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp sản xuất chính là chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm. Chi phí sản xuất luôn gắn liền với việc sử dụng vật tư, tài sản của doanh nghiệp. Thực chất, chi phí sản xuất là sự dịch chuyển vốn - chuyển dịch giá trị của các yếu tố sản xuất vào các đối tượng tính giá (sản phẩm, lao vụ, dịch vụ). Do đó, chi phí sản xuất chính là cơ sở hình thành nên giá thành sản phẩm, tiết kiệm chi phí là điều kiện quyết định cho việc hạ giá thành sản phẩm.
Trong cơ chế thị trường và xu hướng hội nhập toàn cầu, sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp diễn ra rất quyết liệt. Các doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp sản xuất nói riêng muốn tồn tại và phát triển thì trước hết doanh nghiệp đó phải tạo ra sản phẩm đáp ứng được nhu cầu thị hiếu của khách hàng, giá cả phải chăng…Để làm được điều này, công cụ đầu tiên và quan trọng phải kể đến đó là công tác tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm.
1.1.5. Nguyên tắc kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm
Để đảm bảo kế toán đầy đủ, chính xác chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm, cung cấp thông tin kịp thời cho quản trị doanh nghiệp, kế toán cần quán triệt các nguyên tắc sau:
Phải nắm vững nội dung, bản chất kinh tế của chi phí
Phải phân loại chi phí sản xuất và phân loại giá thành sản phẩm một cách hợp lý theo yêu cầu của công tác quản lý và hạch toán.
Phải phân định chi phí với giá thành sản phẩm và nắm rõ mối quan hệ giữa chúng
Xác định đối tượng, phương pháp kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm phù hợp.
Xác định trình tự kế toán và tổng hợp chi phí sản xuất thích ứng.
1.2. Đối tượng và phương pháp hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm
1.2.1. Đối tượng và phương pháp hạch toán chi phí sản xuất
a. Đối tượng hạch toán chi phí sản xuất
Chi phí sản xuất của doanh nghiệp có thể phát sinh ở nhiều địa điểm khác nhau, liên quan đến việc sản xuất chế tạo các loại sản phẩm, lao vụ khác nhau. Vì vậy, chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ phải được kế toán tập hợp theo một phạm vi, giới hạn nhất định. Đó chính là đối tượng kế toán chi phí sản xuất.
Xác định đối tượng kế toán chi phí sản xuất là công việc đầu tiên và quan trọng của tổ chức kế toán quá trình sản xuất. Tổ chức kế toán quá trình sản xuất bao gồm hai giai đoạn kế tiếp nhau và có quan hệ mật thiết với nhau. Đó là giai đoạn kế toán chi tiết chi phí sản xuất phát sinh theo từng sản phẩm, nhóm sản phẩm, đơn đặt hàng, giai đoạn công nghệ, phân xưởng…. và giai đoạn tính giá thành sản phẩm, chi tiết sản phẩm theo đơn vị tính giá thành quy định. Như vậy, việc phân chia kế toán quá trình sản xuất thành hai giai đoạn là do sự khác nhau cơ bản về giới hạn tập hợp chi phí trong kế toán chi phí sản xuất (tức là đối tượng kế toán chi phí sản xuất) và sản phẩm hoàn thành cần phải tính giá thành một đơn vị (tức là đối tượng tính giá thành sản phẩm).
Xác định đối tượng kế toán chi phí sản xuất chính là việc xác định giới hạn việc tập