Kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây dựng tại công ty Cổ phần đường bộ I Thừa Thiên Huế

Để đáp ứng nhu cầu xã hội ngày càng tăng cũng như để đáp ứng sự phát triển sản xuất của doanh nghiệp mình, một trong những biện pháp được các nhà quản lý đặc biệt quan tâm hiện nay là công tác kế toán nói chung cũng như kế toán tập hợp chi phí sản xuất(CPSX) và tính giá thành sản phẩm nói riêng. Trong đó, hạch toán CPSX và tính giá thành được coi là một khâu trung gian của công tác kế toán mở ra hướng đi đúng đắn cho các doanh nghiệp. Thực chất CPSX là đầu vào của quá trình sản xuất, do vậy tiết kiệm CPSX là hạ giá thành sản phẩm, đồng thời đảm bảo đầu ra của quá trình sản xuất sao cho nó được xã hội chấp nhận và làm tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp mình. Hơn nữa mục đích cuối cùng của quá trình sản xuất là tạo ra sản phẩm và giá thành sản phẩm chính là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh chất lượng toàn bộ các mặt hoạt động của doanh nghiệp. Mặt khác, thông tin về CPSX và giá thành sản phẩm có ý nghĩa rất quan trọng đối với nhà quản lý trong vệc ra quyết định điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh(SXKD) của công ty. Xuất phát từ vấn đề đó mức tính giá thành sản phẩm đòi hỏi phải tính đúng, tính đủ CPSX bỏ ra theo đúng chế độ của Nhà nước. Hiện nay, trong điều kiện nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, bên cạnh những mặt thuận lợi cũng không ít những mặt khó khăn, thách thức đối với các doanh nghiệp. Vì vậy, muốn đảm bảo ưu thế cạnh tranh thu lợi nhuận cao thì bên cạnh việc sản xuất ra sản phẩm có chất lượng tốt, mẫu mã đẹp, hợp với thị hiếu người tiêu dùng, một yếu tố quan trọng khác là sản phẩm đó phải có giá thành hạ phù hợp với sức mua của đa số nhân dân. Hạ giá thành sản phẩm đã trở thành nhân tố quyết định sự tồn vong của mỗi doanh nghiệp. Đặc biệt trong ngành xây dựng cơ bản (XDCB) hạ giá thành sản phẩm đã được đặt ra như một yêu cầu bức thiết, khách quan nhằm tạo tiền đề cho các ngành sản xuất trong nền kinh tế quốc dân cùng hạ giá thành sản phẩm. Bởi vậy, XDCB nhằm trang bị tài sản cố định(TSCĐ) cho tất cả các ngành kinh tế quốc dân khác góp phần xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật nâng cao năng lực sản xuất cho nền kinh tế. Nhận thức được tầm quan trọng của công tác hạch toán CPSX và tính giá thành sản phẩm của doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp xây dựng nói riêng và với mong muốn có thể áp dụng những kiến thức đã học để tìm hiểu thực tế, bổ sung, nâng cao kiến thức, tôi quyết định chọn đề tài:”Kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây dựng tại công ty Cổ phần đường bộ I Thừa Thiên Huế “ để hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp.

doc73 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2830 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây dựng tại công ty Cổ phần đường bộ I Thừa Thiên Huế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN I ĐẶT VẤN ĐỀ I.1. Lý do chọn đề tài Để đáp ứng nhu cầu xã hội ngày càng tăng cũng như để đáp ứng sự phát triển sản xuất của doanh nghiệp mình, một trong những biện pháp được các nhà quản lý đặc biệt quan tâm hiện nay là công tác kế toán nói chung cũng như kế toán tập hợp chi phí sản xuất(CPSX) và tính giá thành sản phẩm nói riêng. Trong đó, hạch toán CPSX và tính giá thành được coi là một khâu trung gian của công tác kế toán mở ra hướng đi đúng đắn cho các doanh nghiệp. Thực chất CPSX là đầu vào của quá trình sản xuất, do vậy tiết kiệm CPSX là hạ giá thành sản phẩm, đồng thời đảm bảo đầu ra của quá trình sản xuất sao cho nó được xã hội chấp nhận và làm tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp mình. Hơn nữa mục đích cuối cùng của quá trình sản xuất là tạo ra sản phẩm và giá thành sản phẩm chính là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh chất lượng toàn bộ các mặt hoạt động của doanh nghiệp. Mặt khác, thông tin về CPSX và giá thành sản phẩm có ý nghĩa rất quan trọng đối với nhà quản lý trong vệc ra quyết định điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh(SXKD) của công ty. Xuất phát từ vấn đề đó mức tính giá thành sản phẩm đòi hỏi phải tính đúng, tính đủ CPSX bỏ ra theo đúng chế độ của Nhà nước. Hiện nay, trong điều kiện nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, bên cạnh những mặt thuận lợi cũng không ít những mặt khó khăn, thách thức đối với các doanh nghiệp. Vì vậy, muốn đảm bảo ưu thế cạnh tranh thu lợi nhuận cao thì bên cạnh việc sản xuất ra sản phẩm có chất lượng tốt, mẫu mã đẹp, hợp với thị hiếu người tiêu dùng, một yếu tố quan trọng khác là sản phẩm đó phải có giá thành hạ phù hợp với sức mua của đa số nhân dân. Hạ giá thành sản phẩm đã trở thành nhân tố quyết định sự tồn vong của mỗi doanh nghiệp. Đặc biệt trong ngành xây dựng cơ bản (XDCB) hạ giá thành sản phẩm đã được đặt ra như một yêu cầu bức thiết, khách quan nhằm tạo tiền đề cho các ngành sản xuất trong nền kinh tế quốc dân cùng hạ giá thành sản phẩm. Bởi vậy, XDCB nhằm trang bị tài sản cố định(TSCĐ) cho tất cả các ngành kinh tế quốc dân khác góp phần xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật nâng cao năng lực sản xuất cho nền kinh tế. Nhận thức được tầm quan trọng của công tác hạch toán CPSX và tính giá thành sản phẩm của doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp xây dựng nói riêng và với mong muốn có thể áp dụng những kiến thức đã học để tìm hiểu thực tế, bổ sung, nâng cao kiến thức, tôi quyết định chọn đề tài:”Kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây dựng tại công ty Cổ phần đường bộ I Thừa Thiên Huế “ để hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp.. I.2. Nội dung nghiên cứu Chuyên đề gồm 3 phần: Phần I: Đặt vấn đề Phần II: Nội dung và kết quả nghiên cứu. Phần này được thiết kế thành 3 chương: Chương 1: Tổng quan về kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm. Chương 2: Thực trạng công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại công ty Cổ phần đường bộ I Thừa Thiên Huế. Chương 3: Một số giải pháp cải thiện công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây dựng tại công ty Cổ phần đường bộ I Thừa Thiên Huế. Phần III: Kết luận và kiến nghị PHẦN II NỘI DUNG VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KẾ TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM TRONG DOANH NGHIỆP XÂY DỰNG 1.1. Tổng quan về kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp xây dựng 1.1.1. Đặc điểm của ngành xây dựng chi phối đến công tác quản lý chi phí sản xuất Xây dựng cơ bản là một ngành sản xuất vật chất mang tính chất công nghiệp có những đặc điểm riêng biệt khác với các ngành sản xuất khác, sự khác nhau đó có ảnh hưởng rất lớn đến công tác quản lý và hạch toán trong XDCB. Để phát huy đầy đủ vai trò là công cụ phục vụ quản lý kinh tế, công tác kế toán trong các doanh nghiệp xây dựng phải được tổ chức phù hợp với đặc điểm về tổ chức sản xuất kinh doanh, quy trình công nghệ sản xuất trong ngành XDCB và các chế độ thể lệ Nhà nước ban hành. Sản phẩm xây dựng là các công trình, vật kiến trúc...có quy mô lớn, kết cấu phức tạp, mang tính chất đơn chiếc, thời gian sản xuất lâu dài... Các điều kiện sản xuất như xe, máy móc thiết bị sản xuất thi công, người lao động...phải di chuyển theo địa điểm đặt sản phẩm. Đặc điểm này chi phối đến việc tổ chức quản lý và hạch toán kế toán nói chung và tổ chức công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành nói riêng khác với các ngành khác. Sự chi phối này được thể hiện như sau: Thứ nhất: Sản xuất xây dựng là một loại sản xuất công nghiệp đặc biệt theo đơn đặt hàng. Sản phẩm xây dựng mang tính chất đơn chiếc riêng lẻ. Mỗi một đối tượng xây dựng đòi hỏi yêu cầu kỹ thuật, kết cấu, hình thức, địa điểm xây dựng thích hợp được xác định cụ thể trên từng thiết kế dự toán của từng đối tượng xây lắp riêng biệt. Vì vậy khi thi công xây dựng, các tổ chức phải luôn thay đổi phương thức tổ chức thi công, biện pháp thi công sao cho phù hợp với đặc điểm của từng loại sản phẩm xây dựng, đảm bảo cho việc thi công mang lại hiệu quả kinh tế cao nhất và sản xuất được liên tục. Do tính chất đơn chiếc riêng lẻ, nên chi phí bỏ ra để thi công xây dựng các công trình có nội cung cấp và cơ cấu không đồng nhất như các loại sản phẩm công nghiệp. Từ đặc điểm này, kế toán phải tính đến việc hạch toán chi phí, tính giá thành và kết quả thi công cho từng loại sản phẩm xây dựng riêng biệt (từng công trình, từng hạng mục công trình hoặc từng nhóm sản phẩm xây dựng nếu chúng được xây dựng theo cùng một thiết kế mẫu và trên cùng một địa điểm nhất định). Thứ hai: Đối tượng sản xuất XDCB thường có khối lượng lớn, giá trị lớn, thời gian thi công tương đối dài. Kỳ tính giá thành sản phẩm xây dựng không xác định hàng tháng như trong xí nghiệp công nghiệp, mà được xác định tuỳ thuộc vào đặc điểm kỹ thuật của từng loại công trình, điều này thể hiện qua phương pháp lập dự toán và phương thức thanh toán giữa hai bên giao thầu và nhận thầu. Cụ thể trong ngành xây dựng, do chu kỳ sản xuất dài nên đối tượng tính giá thành có thể là sản phẩm hoàn thành, cũng có thể là sản phẩm hoàn thành đến giai đoạn quy ước (có dự toán riêng). Do vậy việc xác định đúng đắn đối tượng tính giá thành và kỳ tính giá thành sẽ đáp ứng yêu cầu quản lý kịp thời và chặt chẽ chi phí, đánh giá đúng đắn tình hình quản lý và thi công trong từng thời kỳ nhất định, và còn tránh tình trạng căng thẳng vốn cho doanh nghiệp xây dựng. Thứ ba: Sản xuất xây dựng thường diễn ra ngoài trời chịu tác động trực tiếp của các yếu tố thuộc về điều kiện tự nhiên và do vậy việc thi công xây dựng mang trính thời vụ. Các yếu tố môi trường có ảnh hưởng đến kỹ thuật thi công, tốc độ tiến độ thi công, đồng thời còn phải chú ý đến những biện pháp bảo quản máy thi công (MTC) và vật liệu ngoài trời. Hơn nữa, việc thi công trong thời gian dài và diễn ra ngoài trời nên có thể gặp nhiều rủi ro tạo nên những khoản thiệt hại bất ngờ như thiệt hại phá đi làm lại, thiệt hại ngừng sản xuất. Những khoản thiệt hại này cần được tổ chức theo dõi chặt chẽ và phải có phương pháp hạch toán phù hợp với những nguyên nhân xảy ra. Thứ tư: Sản xuất XDCB được thực hiện trên các địa điểm biến động. Sản phẩm XDCB mang tính chất ổn định, gắn liền với địa điểm xây dựng, khi hoàn thành không nhập kho như các ngành sản xuất vật chất khác. Trong quá trình sản xuất thi công, các doanh nghiệp xây dựng phải thường xuyên di chuyển địa điểm. Do đó, sẽ phát sinh một số chi phí cần thiết khách quan như chi phí điều động công nhân, điều động MTC, chi phí xây dựng các CT tạm phục vụ công nhân và việc thi công, chi phí chuẩn bị mặt bằng và dọn mặt bằng sau khi thi công xong...Kế toán phải phản ánh chính xác các chi phí này và tổ chức phân bổ hợp lý. Mặt khác, sản phẩm xây dựng cố định, được thi công theo đơn đặt hàng của bên giao thầu, nên khi tiêu thụ chỉ qua thủ tục bàn giao giữa hai bên A và B trên cơ sở kiểm nhận khối lượng, chất lượng công việc theo đúng thiết kế dự toán đã qui định. 1.1.2. Nhiệm vụ của công tác quản lý hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành trong doanh nghiệp xây dựng Công tác kế toán CPSX và tính giá thành sản phẩm là công tác trung tâm của toàn bộ công tác kế toán trong một đơn vị sản xuất kinh doanh. Kế toán CPSX và tính giá thành có các nhiệm vụ: Ghi chép và phản ánh chính xác các khoản chi phí thực tế phát sinh trong quá trình sản xuất sản phẩm, cung cấp công trình lao vụ, dịch vụ. Tức là, khi có các nghiệp vụ phát sinh phải ghi chép đầy đủ dựa trên các chứng từ hợp lệ. Kiểm tra tình hình thực hiện kế hoạch sản xuất ở từng bộ phận trong từng doanh nghiệp, từng phân xưởng, tổ đội sản xuất, từng công trình...nhằm đảm bảo việc sản xuất kịp thời, đúng kế hoạch đề ra. Đối chiếu so sánh giữa chi phí theo định mức ở từng khâu, từng bộ phận với chi phí thực tế để tìm các nguyên nhân gây thiệt hại, lãng phí và kịp thời tìm các biện pháp chấn chỉnh phòng ngừa để tiết kiệm chi phí trong sản xuất, thi công nhằm hạ giá thành sản phẩm xây dựng. Thúc đẩy thực hiện tiết kiệm hợp lý việc sử dụng các nguyên liệu, vật liệu, tận dụng hiệu năng sử dụng máy móc thiết bị, năng suất lao động, đồng thời phát huy các sáng kiến để tạo ra các công trình(CT) có chất lượng tốt, kiến trúc đẹp, thời gian thi công được rút ngắn hơn so với dự kiến...mới có thể cạnh tranh với các xí nghiệp khác. Tính toán đầy đủ, kịp thời và đúng đắn giá thành để làm cơ sở tính hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp. Cung ứng đầu đủ các số liệu chính xác để phục vụ cho việc lập báo cáo quyết toán về mặt phân tích tình hình thực hiện chi phí. Với các nhiệm vụ trên, ta thấy rõ là giá thành sản phẩm phản ánh chất lượng của đơn vị sản xuất. Trong điều kiện hiện nay, để thực hiện chế độ hạch toán kinh tế, mọi chi phí đều phải tiết kiệm, phấn đấu để hạ giá thành sản phẩm nhưng vẫn làm tốt sản phẩm để phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng, cạnh tranh được trên thị trường...là một nhiệm vụ tất yếu của các đơn vị sản xuất kinh doanh. 1.1.3. Chi phí sản xuất trong các doanh nghiệp xây dựng 1.1.3.1. Khái niệm chi phí sản xuất Chi phí sản xuất là tổng số các hao phí lao động sống và lao động vật hóa được biểu hiện bằng tiền phát sinh trong quá trình SXKD, bao gồm CPSX xây dựng và CPSX ngoài xây dựng. 1.1.3.2. Phân loại chi phí sản xuất Tùy theo yêu cầu của công tác quản lý và hạch toán mà có nhiều cách phân loại : - Phân loại CPSX theo tính chất kinh tế - Phân loại CPSX theo phương pháp tập hợp CPSX và mối quan hệ với đối tượng chịu chi phí - Phân loại CPSX theo nội dung cấu thành của chi phí - Theo cách phân loại CPSX theo mục đích và công dụng của chi phí, toàn bộ CPSX phát sinh trong kỳ được chia ra làm các khoản mục chi phí sau: (1) Chi phí vật liệu trực tiếp(NVLTT): Là chi phí của các vật liệu chính, vật kết cấu, vật liệu phụ, vật liệu luân chuyển, vv cần thiết để tạo nên SPXD (2) Chi phí nhân công trực tiếp(NCTT): Bao gồm chi phí về tiền công, tiền trích BHXH, BHYT và KPCĐ của công nhân trực tiếp xây dựng, không tính vào khoản mục này số tiền công và trích BHXH, BHYT và KPCĐ của công nhân sử dụng MTC, nhân viên SXC, nhân viên bán hàng và nhân viên quản lý. (3) Chi phí sử dụng MTC: Là chi phí sử dụng MTC để hoàn thành SPXD bao gồm 6 điều khoản: Chi phí nhân công, Chi phí vật liệu, Chi phí dụng cụ sản xuất, Chi phí khấu hao MTC, Chi phí dịch vụ mua ngoài, Chi phí bằng tiền khác. (4) Chi phí sản xuất chung(SXC): Là những chi phí dùng cho hoạt động SXC ở các đội (phân xưởng) sản xuất ngoài 3 khoản mục đã nêu trên, bao gồm 6 khoản: Chi phí nhân viên phân xưởng (đội sản xuất), Chi phí vật liệu, Chi phí dụng cụ sản xuất, Chi phí khấu hao TSCĐ, Chi phí dịch vụ mua ngoài, Chi phí bằng tiền khác. 1.1.3.3. Đối tượng kế toán tập hợp chi phí sản xuất Đối tượng hạch toán CPSX là các loại chi phí được tập hợp trong một giới hạn nhất định nhằm phục vụ cho việc kiểm tra, phân tích chi phí và giá thành sản phẩm. Giới hạn tập hợp CPSX có thể là nơi phát sinh chi phí (phân xưởng, đội sản xuất, giai đoạn công nghệ, vv ) hoặc có thể là đối tượng chịu chi phí (CT, HMCT, .v.v. ). 1.1.3.4. Phương pháp hạch toán chi phí sản xuất Có 5 phương pháp hạch toán CPSX thường được áp dụng là: (1) Phương pháp hạch toán CPSX theo chi tiết hoặc bộ phận sản phẩm (2) Phương pháp hạch toán CPSX theo nhóm sản phẩm (3) Phương pháp hạch toán CPSX theo đơn đặt hàng (4) Phương pháp hạch toán CPSX theo đơn vị sản xuất (5) Phương pháp hạch toán CPSX theo sản phẩm: Theo phương pháp này, các chi phí sản xuất phát sinh có liên quan đến sản phẩm nào sẽ được tập hợp và phân loại chi phí vào sản phẩm đó. Khi sản phẩm hoàn thành, toàn bộ các chi phí phát sinh từ khi khởi công đến khi hoàn thành chính là giá thành sản phẩm. 1.1.4. Giá thành sản phẩm trong các doanh nghiệp xây dựng 1.1.4.1. Khái niệm Giá thành sản phẩm xây dựng là toàn bộ các chi phí tính bằng tiền để hoàn thành khối lượng sản phẩm xây dựng. 1.1.4.2. Phân loại giá thành sản phẩm Trong sản xuất xây dựng cần phân biệt các loại giá thành công tác xây dựng: - Giá thành dự toán - Giá thành kế hoạch - Giá thành thực tế Theo phạm vi tính toán giá thành, giá thành sản phẩm xây dựng chia làm 2 loại: Giá thành sản xuất còn gọi là giá thành công xưởng và giá thành toàn bộ của sản phẩm xây dựng. 1.1.4.3. Đối tượng và kỳ tính giá thành sản phẩm xây dựng a, Đối tượng tính giá thành Đối tượng tính giá thành là sản phẩm, bán thành phẩm, công việc hoặc lao vụ hoàn thành đòi hỏi phải xác định giá thành đơn vị. b, Kỳ tính giá thành Trong công tác tính giá thành, kế toán còn nhiệm vụ xác định kỳ tính giá thành. Kỳ tính giá thành là thời kỳ mà bộ phận kế toán giá thành cần tiến hành công việc tính giá thành cho các đối tượng tính giá thành. Mỗi đối tượng tính giá thành phải căn cứ vào đặc điểm tổ chức sản xuất và chu kỳ sản xuất của chúng để xác định cho thích hợp. Do đó kỳ tính giá thành mà các doanh nghiệp áp dụng là hàng tháng, hàng quý, hoặc hàng năm cũng có thể là thời kỳ kết thúc chu kỳ sản phẩm hay khi sản phẩm được hoàn thành. 1.1.4.4. Phương pháp tính giá thành sản phẩm xây dựng Để phù hợp với các phương pháp hạch toán chi phí, doanh nghiệp phải lựa chọn các phương pháp tính giá thành phù hợp. Có 5 phương pháp tính giá thành thường được áp dụng trong XDCB là: (1) Phương pháp tính giá thành giản đơn (trực tiếp): Được áp dụng phổ biến trong các doanh nghiệp xây lắp vì sản phẩm mang tính đơn chiếc, đối tượng tập hợp CPSX phù hợp với đối tượng tính giá thành. Công thức tính giá thành được thể hiện như sau: Tổng giá thành thực tế SPXD  =  Chi phí thực tế dở dang đầu kỳ  +  Chi phí thực tế phát sinh trong kỳ  -  Chi phí thực tế dở dang cuối kỳ  -  Giá trị khoản điều chỉnh giảm giá thành   (2) Phương pháp tổng cộng chi phí (3) Phương pháp tính giá thành theo hệ số (4) Phương pháp tính giá thành theo tỷ lệ (5) Phương pháp tính giá thành theo đơn đặt hàng. 1.1.5. Mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm CPSX và giá thành sản phẩm là hai mặt biểu hiện của quá trình sản xuất, có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, giống nhau về chất vì đều là những hao phí về lao động sống và lao động vật hoá mà doanh nghiệp đã chi ra trong quá trình sản xuất, chế tạo sản phẩm. Tuy vậy, giữa CPSX và giá thành sản phẩm lại không giống nhau về lượng. - Trong doanh nghiệp xây dựng, CPSX tập hợp theo từng giai đoạn nhất định, không gắn với số lượng và giá thành loại sản phẩm, cũng không phân biệt chi phí cho sản phẩm hoàn thành hay SPDD, còn giá thành sản phẩm là CPSX tính cho một khối lượng của một loại sản phẩm nhất định đã hoàn thành. - Giá thành không bao gồm chi phí thực tế của khối lượng xây dựng dở dang cuối kỳ, những chi phí không liên quan đến hoạt động sản xuất, những chi phí chi ra nhưng chờ phân bổ cho kỳ sau. Nhưng CPSX bao gồm những CPSX kỳ trước chuyển sang, những chi phí trích trước vào giá thành nhưng thực tế chưa phát sinh. Vậy nếu đối tượng tập hợp CPSX và đối tượng tính giá thành là một CT, HMCT được hoàn thành trong kỳ thì CPSX và giá thành thống nhất nhau về mặt lượng. Tức là, toàn bộ các chi phí chi ra đều chuyển dịch vào các CT, HMCT và cấu thành nên giá thành các CT, HMCT đó. 1.2. Kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây dựng 1.2.1. Nội dung hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây dựng 1.2.1.1. Kế toán khoản mục chi phí nguyên vật liệu trực tiếp *Tài khoản sử dụng Để tập hợp và phân bổ chi phí NVLTT, kế toán sử dụng tài khoản 621 – “Chi phí nguyên liệu, vật liệu trực tiếp”, dùng để phản ánh các chi phí nguyên liệu, vật liệu sử dụng trực tiếp cho việc sản xuất sản phẩm xây dựng. *Phương pháp hạch toán Trình tự hạch toán chi phí NVLTT được thể hiện qua sơ đồ sau: Sơ đồ 1.1 : Sơ đồ hạch toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp 1.2.1.2. Hạch toán khoản mục chi phí nhân công trực tiếp *Tài khoản sử dụng Để tập hợp và phân bổ chi phí NCTT, kế toán sử dụng tài khoản 622 – “Chi phí nhân công trực tiếp”, phản ánh chi phí NCTT thực hiện sản xuất xây dựng. *Phương pháp hạch toán Trình tự hạch toán chi phí NCTT được thể hiện qua sơ đồ sau: TK 334 TK622 TK154 Tiền lương của công nhân Kết chuyển chi phí nhân trực tiếp sản xuất công vào giá thành TK338 TK632 Các khoản trích theo lương Phần chi phí nhân công vượt trên mức bình thường TK335 Trích trước tiền lương nghỉ phép của công nhân Sơ đồ 1.2 : Sơ đồ hạch toán chi phí nhân công trực tiếp 1.2.1.3. Hạch toán khoản mục chi phí sử dụng máy thi công *Tài khoản sử dụng - Nếu doanh nghiệp có tổ chức các đội MTC riêng biệt và có phân cấp hạch toán cho đội máy tổ chức hạch toán kế toán riêng thì các chi phí liên quan tới hoạt động của động MTC thì được tính vào các khoản mục chi phí NVLTT, chi phí NCTT, chi phí SXC chứ không phản ánh vào khoản mục chi phí sử dụng MTC. Sau đó các khoản mục này được kết chuyển để tính giá thành cho 1 ca máy thực hiện và cung cấp cho các đối tượng xây dựng(CT, HMCT ). *Phương pháp hạch toán Trường hợp 1: Nếu doanh nghiệp tổ chức đội MTC riêng biệt và có phân cấp quản lý để theo dõi chi phí như một bộ phận độc lập. Sơ đồ kế toán tổng hợp thể hiện như sau: Sơ đồ1.3: Sơ đồ kế toán hạch toán chi phí sử dụng MTC khi có tổ chức đội MTC riêng biệt và có tổ chức hạch toán riêng Trường hợp 2: Nếu doanh nghiệp không tổ chức đội MTC riêng biệt, hoặc có tổ chức đội MTC riêng biệt nhưng không tổ chức kế toán riêng cho đội MTC và thực hiện phương thức thi công hỗn hợp vừa thủ công vừa kết hợp bằng máy thì các chi phí liên quan đến hoạt động của đội MTC được tính vào khoản mục chi phí sử dụng MTC. Sau đó tính phân bổ chi phí sử dụng MTC thực tế cho từng CT, HMCT. Trường hợp 3: Nếu doanh nghiệp không có đội MTC phải thuê ngoài thì các chi phí thuê MTC được tập hợp vào TK 627 (6277). 1.2.1.4. Hạch toán khoản mục chi phí sản xuất chung *Tài khoản sử dụng Để hạch toán chi phí SXC kế toán sử dụng tài khoản 627 – “Chi phí SXC”. * Phương pháp hạch toán Trình tự hạch toán chi phí SXC được thể hiện qua sơ đồ sau: TK334 TK627 TK111,112,138 Lương phải trả cho nhân viên Các khoản ghi giảm chi phí quản lý phân xưởng sản xuất chung TK338 TK632 Các khoản trích theo lương Chi phí sản xuất cố định phải nộp không phân bổ TK152, 153 TK154 Xuất vật liệu, công cụ dụng cụ Kết chuyển chi phí sản xuất dùng cho phân xưởng chung vào giá thành TK142, 242 Phân bổ công cụ, dụng cụ dùng cho phân xưởng TK214 Trích khấu hao TSCĐ TK335,142, 242 Trích trước hoặc phân bổ dần chi phí sửa chữa lớn TSCĐ TK111,112, 331 Chi phí liên quan đến thuê tài chính TK1331 VAT được khấu trừ TK352 Dự phòng phải trả về bảo hành công trình xây dựng Sơ đồ 1.4: Sơ đồ hạch toán chi phí sản xuất chung 1.2.1.5. Hạch toán các khoản thiệt hại trong sản xuất a) Kế toán thiệt hại phá đi làm lại Trong quá trình xây dựng có thể phát sinh các khoản thiệt hại phá đi làm lại để đảm bảo chất lượng công trình, nguyên nhân có thể do thi
Luận văn liên quan