Nền kinh tế nước ta hiện nay là nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý điều tiết của Nhà nước. Để đổi mới, tồn tại và phát triển các đơn vị kinh tế nói chung và các doanh nghiệp sản xuất nói riêng phải tìn mọi biện pháp làm thế nào để đảm bảo tự chủ về tài chính trong hoạt động sản xuất kinh doanh và sản phẩm của đơn vị mình đứng vững được trên thị trường. Muốn thực hiện được điều đó, các đơn vị sản xuất kinh doanhphair thực hiện tổng hòa nhiều biện pháp quản lý đối với hoạt động sản xuất của đơn vị mình, cần phải có kế hoạch tính toán kinh tế đầu tư mang lại hiệu quả cao nhất. Hạch toán kinh tế là một phương pháp có hiệu quả cao nhất là tất yếu khách quan. Đặc biệt trong cơ chế mới các doanh nghiệp phải trực tiếp xem xét tới vấn đề kết quả thu được và chi phí sao cho ít nhất, hợp lý nhất. Muốn vậy doanh nghiệp phát triển mạnh không những đầu tư về cơ sở vật chất, nhân lực, tiền vốn mà còn phải tính đến mọi phí tổn rủi ro sản xuất kinh doanh.
Trong điều kiện tồn tại sản xuất hàng hóa, vật liệu được xác định là chi phí của hoạt động sản xuất kinh doanh cấu thành nên giá trị của sản phẩm do đó việc hạch toán chính xác chi phí vật liệu trong giá thành sản phẩm có ý nghĩa quan trọng giúp cho việc xác định sản phẩm được chính xác, đánh giá nguyên nhân của sự tăng giảm giá thành sản phẩm, tăng lợi nhuận và quyết định sự phát triển của doanh nghiệp.
Xuất phát từ ý nghĩa và tầm quan trọng của vật liệu đối với quá trình sản xuất kinh doanh. Với vốn kiến thức được các thầy cô giáo truyền đạt qua những năm học ở trường cùng thời gian thực tập tại Xí nghiệp xi măng Quảng Bình nên tôi đã đi sâu nghiên cứu và cọn đề tài “Kế toán nguyên vật liệu – công cụ dụng cụ trong doanh nghiệp” làm chuyên đề tốt nghiệp của bản thân, nội dung chuyên đề gồm 3 chương:
- Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về kế toán nguyên vật liệu trong doanh nghiệp
- Chương 2: Thực trạng công tác kế toán nguyên vật liệu tại xí nghiệp Xi măng Quảng Bình
- Chương 3: Một số y kiến nhằm hoàn thiện công tác kế toán nguyên vật liệu tại Xí nghiệp xi măng Quảng Bình
70 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 3954 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Kế toán nguyên vật liệu công cụ dụng cụ tại Xí nghiệp xi măng Quảng Bình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Nền kinh tế nước ta hiện nay là nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý điều tiết của Nhà nước. Để đổi mới, tồn tại và phát triển các đơn vị kinh tế nói chung và các doanh nghiệp sản xuất nói riêng phải tìn mọi biện pháp làm thế nào để đảm bảo tự chủ về tài chính trong hoạt động sản xuất kinh doanh và sản phẩm của đơn vị mình đứng vững được trên thị trường. Muốn thực hiện được điều đó, các đơn vị sản xuất kinh doanhphair thực hiện tổng hòa nhiều biện pháp quản lý đối với hoạt động sản xuất của đơn vị mình, cần phải có kế hoạch tính toán kinh tế đầu tư mang lại hiệu quả cao nhất. Hạch toán kinh tế là một phương pháp có hiệu quả cao nhất là tất yếu khách quan. Đặc biệt trong cơ chế mới các doanh nghiệp phải trực tiếp xem xét tới vấn đề kết quả thu được và chi phí sao cho ít nhất, hợp lý nhất. Muốn vậy doanh nghiệp phát triển mạnh không những đầu tư về cơ sở vật chất, nhân lực, tiền vốn mà còn phải tính đến mọi phí tổn rủi ro sản xuất kinh doanh.
Trong điều kiện tồn tại sản xuất hàng hóa, vật liệu được xác định là chi phí của hoạt động sản xuất kinh doanh cấu thành nên giá trị của sản phẩm do đó việc hạch toán chính xác chi phí vật liệu trong giá thành sản phẩm có ý nghĩa quan trọng giúp cho việc xác định sản phẩm được chính xác, đánh giá nguyên nhân của sự tăng giảm giá thành sản phẩm, tăng lợi nhuận và quyết định sự phát triển của doanh nghiệp.
Xuất phát từ ý nghĩa và tầm quan trọng của vật liệu đối với quá trình sản xuất kinh doanh. Với vốn kiến thức được các thầy cô giáo truyền đạt qua những năm học ở trường cùng thời gian thực tập tại Xí nghiệp xi măng Quảng Bình nên tôi đã đi sâu nghiên cứu và cọn đề tài “Kế toán nguyên vật liệu – công cụ dụng cụ trong doanh nghiệp” làm chuyên đề tốt nghiệp của bản thân, nội dung chuyên đề gồm 3 chương:
- Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về kế toán nguyên vật liệu trong doanh nghiệp
- Chương 2: Thực trạng công tác kế toán nguyên vật liệu tại xí nghiệp Xi măng Quảng Bình
- Chương 3: Một số y kiến nhằm hoàn thiện công tác kế toán nguyên vật liệu tại Xí nghiệp xi măng Quảng Bình
Trong điều kiện có hạn với những kiến thức của bản thân còn hạn chế, chuyên đề sẽ không tránh khỏi những khiếm khuyết nhất định. Bản thân rất mong sự đóng góp của các Thầy, Cô giáo và các Anh chị ở phòng kế toán xí nghiệp để chuyên đề được hoàn thiện hơn. Một lần nữa bản thân em xin chân thành cảm ơn các Thầy cô giáo, các anh chị ở phòng kế toán Xí nghiệp đã tạo điều kiện cho em hoàn thành chuyên đề này.
Quảng Bình, tháng 3 năm 2011
Sinh viên thực hiện
Trần Thị Phương
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ KẾ TOÁN NGUYÊN VẬT LIỆU TRONG DOANH NGHIỆP
1.1.KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, YÊU CẦU QUẢN LÝ VÀ NHIỆM VỤ KẾ TOÁN NGUYÊN LIỆU, VẬT LIỆU
1.1.1.khái niệm, đặc điểm,yêu cầu quản lý nguyên vật liệu
Nguyên vật liệu là đối tượng lao động thể hiện dưới dạng vật hóa,là một trong ba yếu tố của quá trình sản xuất,lả cơ sở vật chất cấu thành nên thực thể sản phẩm, dịch vụ.Vật liệu chỉ tham gia vào một chu kỳ sản xuất kinh doanh nhất định và toàn bộ giá trị vật liệu dược chuyển hết một lần vào chi phí sản xuất kinh doanh trong kỳ
Nguyên vật liệu là những tài sản lưu động thuộc nhóm hàng tồn kho; nguyên vật liệu tham gia vào quá trình sản xuất để hình thành nên sàn phẩm mới. Chúng rất đa dạng, phong phú về chủng loại, phức tạp về kỷ thuật.
Nguyên vật liệu là cơ sở vật chất dể hình thành nên thưc thể của sản phẩm.Trong quá trình sản xuất, vật liệu không ngừng chuyển hóa, biến đổi về mặt giá trị lẫn hiện vật, nó chỉ tham gia vào một chu kỳ sản xuất, được tiêu dùng toàn bộ không giữ nguyên hình thái vật chất ban đầu. Giá trị của nguyên vật liệu được chuyển dịch toàn bộ một lần vào giá trị sản phẩm mới tạo ra. Trong các doanh nghiệp sản xuất vật liệu chiếm một tỷ trọng cao trong tổng số tài sản lưu động và tổng số chi phí sản xuất để tạo ra sản phẩm.
1.1.2.Nhiệm vụ kế toán nguyên liệu,vật liệu
Xất phát từ những đặc điểm trên,dể đáp ứng yêu cầu quản lý và hạch toán nguyên vật liệu kế toán phảI thực hiện tốt các nhiệm vụ sau:
- Phải tổ chức ghi chép, phản ánh tổng hợp số liệu về tình hình thu mua, vận chuyển, bảo quản, tình hình nhập – xuất – tồn kho nguyên vật liệu. Tính giá thưc tế của vật liệu đã mua và nhập kho, kiểm tra tình hình thực hiện kế hoạch thu mua vật tư về mặt số lượng, và chủng loại, giá cả, thời hạn nhằm đảm bảo cung cấp đầy đủ, kịp thời, đúng chủng loại cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
-Phải áp dụng đúng đắn các phương pháp hạch toán vật liệu, hướng dẫn kiểm tra các bộ phận trong doanh nghiệp thực hiện đầy đủ chế độ hạch toán ban đầu, mở các sổ thẻ kế toán chi tiết thực hiện hạch toán nguyên liệu, vật liệu đúng chế độ,đúng phương pháp quy định
-Kiểm tra việc chấp hành chế độ bảo quản,dự trữ và sử dụng nguyên liệu, vật liệu, phát hiện, ngăn ngừa và đề xuất những biện pháp xử lý vật tư thừa, thiếu,ứ đọng, kém phẩm chất. Tính toán và phản ánh chính xác số lượng và giá trị vật tư thưc tế đua vào sử dụng và tiêu hao trong quá trình sản xuất kinh doanh. Phân bổ chính xác giá trị nguyên liệu, vật liệu dã tiêu hao vào các đối tượng sử dụng.
-Tổ chức việc kiểm tra và tham gia phân tích, đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch thu mua, tình hình thanh toán với người cung cấp, tình hình sử dụng vật liệu trong sản xuất kinh doanh và kiểm kê, đánh giá lại khi cần thiết.
1.2.PHÂN LOẠI VÀ ĐÁNH GIÁ NGUYÊN LIỆU , VẬT LIỆU
1.2.2.phân loại nguyên vật liệu
Vật liệu sử dụng trong doanh nghiệp có nhiều loại, nhiều thứ, có vai trò, tác dụng khác nhau trong quá trình sản xuất kinh doanh do đó đòi hỏi phải phân loại nguyên vật liệu thì mới tổ chức tốt việc quản lý và hạch toán nguyên vật liệu.
Trong thực tế công tác quản lý và hạch toán ở các doanh nghiệp người ta thường phân loại nguyên vật liệu theo công dụng chủ yếu của nó trong quá trình sản xuất kinh doanh. Theo cách phân loại này, nguyên vật liệu trong các doanh nghiệp được chia thành các loại sau đây:
Nguyên vật liệu chính:(kể cả bán thành phẩm mua ngoài) là những nguyên vật liệu khi tham gia vào quá trình sản xuất thì cấu thành nên thực thể của sản phẩm như sợi trong dệt vải, gỗ trong đồ mộc, sắt thép trong cơ khí…
Vật liệu phụ: là những vật liệu cùng kết hợp với nguyên vật liệu chính để làm tăng màu sắc, mùi vị và chất lượng của sản phẩm hoặc giúp cho máy móc thiết bị hoạt động được bình thường.
Nhiên liệu: thực chất là vật liệu phụ dùng để tạo nhiệt năng cho sản xuất như than đá, củi,xăng, hơi đốt, hí đốt…
Phụ tùng: là loại vật tư dùng để thay thế khi sửa chữa tài sản cố định của doanh nghiệp. Trong các doanh nghiệp để bảo quản, bảo dưỡng,sửa chữa khôi phục năng lực hoạt động của tài sản cố định đòi hỏi các doanh nghiệp phải mua sắm, dự trữ các loại phụ tùng.
Vật liệu và các thiết bị xây dựng cơ bản: là loại vật liệu sử dụng trong công tác xây dựng cơ bản nội bộ.
Phế liệu thu hồi: là loại vật tư loại ra trong quá trình sản xuất kinh doanh của đơn vị, nó đã mất hết hoặc phần lớn giá trị sử dụng ban đầu hoặc là các phế liệu thu hồi trong quá trình thanh lý tài sản cố định.
Trên thực tế việc sắp xếp vật liệu theo từng loại như trên là căn cứ vào công dụng chủ yếu của vật liệu ở từng đơn vị cụ thể. Vì có thể với vật liệu này ở đơn vị này là vật liệu chính, nhưng ở đơn vị khác lại là vật liệu phụ… Hạch toán theo cách phân loại nói trên đáp ứng được yêu cầu phản ánh tổng quát về mặt giá trị đối với từng loại nguyên vật liệu. Để đảm bảo thuận tiện, tránh nhầm lẫn cho công tác quản lý và hạch toán về số lượng và giá trị đối với từng loại nguyên vật liệu, trên cơ sở phân loại theo vai trò và công dụng của nguyên vật liệu, các doanh nghiệp lập “sổ danh điểm vật liệu”. Sổ này xác định thống nhất tên gọi, mã hiệu, đơn vị tính, giá hạch toán của từng danh điểm nguyên vật liệu.
1.2.2.Đánh giá nguyên vật liệu nhập kho
Vật liệu của doanh nghiệp hình thành từ các nguồn khác nhau: Mua ngoài, tự gia công chế biến, thuê ngoài gia công chế biến, nhận vốn góp… Trong từng trường hợp giá thực tế nhập kho được xác định như sau:
Giá thực tế vật liệu, công cụ dụng cụ nhập do mua ngoài là giá mua (theo hóa đơn) bao gồm cả thuế nhập khẩu,thuế khác (nếu có) cộng với chi phí mua thực tế trừ đi các khoản chiết khấu, giảm giá (nếu có).
Đối với vật liệu, công cụ dụng cụ tự gia công chế biến thì giá thực tế là giá thưc tế xuất để tự gia công chế biến cộng với các chi phí gia công, chế biến.
Vật liệu, công cụ dụng cụ thuê ngoài gia công chế biến thi giá thực tế nhập kho là giá thực tế xuất thuê gia công chế biến cộng với chi phí gia công chế biến phải trả và các chi phí liên quan đến việc vận chuyển đi và về kho doanh nghiệp.
Trường hợp nhận vốn góp liên doanh bằng vật liệu, công cụ dụng cụ thì giá thực tế của chúng là giá do hội đồng liên doanh định
1.2.3.Đánh giá nguyên vật liệu xuất kho
Nguyên vật liệu của doanh nghiệp giảm do sử dụng vào các mục đích khác như: Sản xuất chế tạo sản phẩm, thực hiện dịch vụ; phục vụ cho quản lý, cho nhu cầu bán hàng, góp vốn liên doanh với các đơn vị khác, cho vay, trả nợ… Trong mọi trường hợp kế toán phải xác định được giá thực tế xuất kho. Có thể tính đướcố thực tế xuất kho vật liệu, công cụ dụng cụ theo một trong các phương pháp sau:
Tính theo giá thực tế bình quân.
Giá thực tế bình quân có thể là giá bình quân tồn đầu kỳ, cũng có thể là giá bình quân cả kỳ đầu và trong kỳ (bình quân gia quyền).
Theo phương pháp này phải căn cứ vào đơn giá vật liệu, công cụ dụng cụ xuất kho và số lượng xuất để tính giá thực tế xuất kho tính cho các đối tượng sử dụng.
Nếu tính theo đơn giá đầu kỳ:
Giá thực tế xuất kho = Số lượng xuất kho x Đơn giá đầu kỳ.
- Nếu tính theo đơn giá bình quân gia quyền:
Giá thực tế xuất kho = Số lượng xuất kho x Đơn giá bình quân gia quyền
Đơn giá bình quân trong kỳ gia quyền
=
Giá thực tế tồn đầu kỳ
+
Giá thực tế nhập trong kỳ
Số lượng tồn đầu kỳ
+
Số lượng nhập trong kỳ
Cách tính đơn giá bình quân như trên là bình quân toàn bộ cả số đầu kỳ và số nhập trong kỳ. Trong thực tế, doanh nghiệp có thể tính đơn giá bình quân gia quyền liên hoàn sau mỗi lần nhập, xuất.
Tính theo giá thưc tế nhập trước – xuất trước.
Theo phương pháp này cần phải xác định được đơn giá thực tế nhập kho của từng lần nhập và giả thiết rằng hàng nào nhập kho trước thì xuất trước. Sau đó căn cứ vào số lượng xuất kho để tính giá trị thực tế xuất kho theo nguyên tắc: Tính theo đơn giá thực tế nhập trước đối với lượng xuất kho thuộc lần nhập trước, số liệu còn lại (tổng số xuất kho – số đã xuất thuộc lần nhập trước) được tính theo đơn giá thực tế của lần nhập tiếp sau.
Tính theo giá thực tế nhập sau – xuất trước (nhập trước – xuất sau).
Ta cùng phải xác định được đơn giá thực tế của từng lần nhập, sau đó căn cứ vào số lượng xuất kho tính giá thực tế xuất kho theo nguyên tắc: Tính theo đơn giá thực tế của lần nhập sau cùng đối với số lượng xuất kho thuộc lần nhập sau cùng, số còn lại được tính theo đơn giá thực tế của các lần nhập trước đó.
Tính theo giá thực tế đích danh.
Phương pháp này áp dụng trong các doanh nghiệp quản lý, theo dõi vật liệu, công cụ dụng cụ theo từng lô hàng. Khi xuất kho thuộc lô hàng nào thì căn cứ vào giá mua (giá nhập kho) tính theo giá đích danh của lô hàng đó.
Mỗi phương pháp tính giá thực tế vật liệu, công cụ dụng cụ xuất kho có điều kiện áp dụng và có ưu nhược điểm nhất định, do vậy doanh nghiệp phải căn cứ vào họat động SXKD, khả năng trình độ nghiệp vụ của cán bộ kế toán, yêu cầu, trình độ quản lý cũng như điều kiện trang bị các phương tiện kỹ thuật tính toán, xử lý thông tin mà nghiên cứu phương pháp vận dụng cho phù hợp để đăng ký và đảm bảo tính nhất quán trong suet các niên độ kế toán.
1.3. KẾ TOÁN CHI TIẾT NGUYÊN VẬT LIỆU
Kế toán chi tiết nguyên vật liệu thực chất là việc kế toán tình hình biến động của vật liệu ở kho. Việc kế toán được tiến hành ở kho và ở phòng kế toán; phảI theo dõi chi tiết từng loại, từng thứ, từng chủng loại, qui cách vật liệu theo từng địa điểm quản lý và sử dụng. Trong thực tế hiện nay có ba phương pháp hạch toán chi tiết vật liệu: phương pháp ‘‘thẻ song song’’, phương pháp ‘‘sổ đối chiếu luânchuyển’’ và phương pháp ‘‘sổ số dư’’, mỗi phương pháp đều có ưu và nhược điểm riêng, tùy thuộc vào yêu cầu quản lý và tình hình thực tế của đơn vị mà chọn sử dụng biện pháp thích hợp để có thể phát huy được các ưu điểm, hạn chế bớt nhược điểm.
1.3.1. Chứng từ kế toán
- Hóa đơn giá trị gia tăng
- Biên bản giao nhận vật tư
- Biên bản nghiệm thu vật tư
- Giấy đề nghị nhập kho
- Phiếu nhập kho
- Bảng tổng hợp nhập, xuất, tồn nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ
- Giấy đề nghị xuất kho
- Phiếu xuất kho
- Thẻ kho
1.3.2. Các phương pháp kế toán chi tiết nguyên vật liệu
1.3.2.1. Phương pháp thẻ song song:
Nguyên tắc hạch toán: ở kho ghi chép về mặt số lượng, ở phòng kế toán ghi chép cả về mặt số lượng và giá trị của từng loại vật liệu.
Trình tự ghi chép tại kho: Do thủ kho thực hiện hàng ngày căn cứ vào chứng từ nhập, xuất kho nguyên vật liệu, mỗi chứng từ ghi vào thẻ kho một dòng. Thẻ kho do kế toán lập theo mẫu qui định thống nhất cho từng danh điểm vật liệu và phát cho thủ kho sau khi đã đăng ký vào sổ đăng ký thẻ kho. Cuối tháng thủ kho phải tiến hành tổng cộng số nhập xuất, tính ra số lượng tồn kho về mặt số lượng theo từng danh điểm vật liệu, công cụ dụng cụ.
Trình tự ghi chép tại phòng kế toán: ở phòng kế toán kế toán vật liệu mở sổ chi tiết vật liệu cho từng danh điểm vật liệu tương ứng với thẻ kho mở ở kho. Sổ này có nội dung tương tự thẻ kho chỉ khác là theo dõi cả về mặt số lượng lẫn giá trị. Hàng ngày hoặc định kỳ, khi nhận được các chứng từ nhập xuất kho do thủ kho chuyển tới nhân viên kế toán phải kiểm tra đối chiếu với các chứng từ liên quan ghi đơn giá vào phiếu và tính thành tiền trên từng chứng từ nhập xuất. Cuối tháng kế toán cộng sổ hoặc thẻ tính ra tổng số nhập, xuất, tồn kho của từng thứ vật liệu; đối chiếu với số liệu trên thẻ kho do thủ kho giữ, sau đó căn cứ sổ chi tiết vật liệu để lập bảng nhập, xuất, tồn vật liệu. Số liệu trên bảng nhập, xuất, tồn được đối chiếu với số liệu của kế toán tổng hợp.
Phương pháp thẻ song song thường được sử dụng ở những doanh nghiệp có ít danh điểm vật tư. Phương pháp này có ưu điểm là đơn giản, dễ làm, dễ đối chiếu, kiểm tra nhưng có nhược điểm là khối lượng ghi chép lớn.
1.3.2.2. Phương pháp sổ đối chiếu luân chuyển
Đối với những doanh nghiệp có nhiều danh điểm nguyên vật liệu và số lượng chứng từ nhập, xuất nguyên vật liệu không nhiều thì phương pháp thích hợp để hạch toán chi tiết nguyên vật liệu là phương pháp sổ đối chiếu luân chuyển.
Trình tự ghi chép tại kho: Thủ kho mở thẻ kho đẻ theo dõi tình hình nhập, xuất, tồn theo chỉ tiêu số lượng cho từng loại vật liệu (tương tự như phương pháp thẻ song song).
Trình tự ghi chép tại phòng kế toán: Theo phương pháp này kế toán không mở thẻ kế toán chi tiết mà mở sổ đối chiếu luân chuyển để hạch toán số lượng và giá trị của từng danh điểm vật liệu theo từng kho. Sổ này ghi mỗi tháng một lần trên cơ sở tổng hợp các chứng từ nhập, xuất phát sinh trong tháng của từng vật liệu công cụ dụng cụ, mỗi thứ chỉ ghi một dòng trên sổ. Cuối tháng đối chiếu số lượng vật liệu, công cụ dụng cụ trên sổ đối chiếu luân chuyển với thủ kho, đối chiếu số tiền với kế toán tổng hợp.
Phương pháp này giảm nhẹ được số lượng công việc ghi chép kế toán nhưng việc ghi chép dồn vào cuối tháng nên công việc hạch toán và báo cáo bị chậm trễ.
1.3.2.3 Phương pháp sổ số dư
Với những doanh nghiệp có nhiều danh điểm nguyên vật liệu đồng thời số lượng chứng từ nhập xuất của mỗi loại khá nhiều thì phương pháp hạch toán chi tiết nguyên vật liệu thích hợp nhất là phương pháp sổ số dư.
Trình tự ghi chép tại kho: Thủ kho mở thẻ kho và ghi thẻ kho tương tự như các phương pháp trên. Định kỳ sau khi ghi thẻ kho, thủ kho phải tập hợp toàn bộ chứng từ nhập kho, xuất kho phát sinh trong kỳ, phân loại theo từng nhóm vật liệu, công cụ dụng cụ. Sau đó lập phiếu giao nhận chứng từ và giao cho phòng kế toán. Ngoài ra thủ kho còn phải ghi số lượng vât liệu tồn kho cuối tháng theo từng danh điểm vật liệu, công cụ dụng cụ vào sổ số dư. Sổ số dư được kế toán mở cho từng kho và dùng cho cả năm. Ghi sổ số dư xong thủ kho chuyển cho phòng kế toán kiểm tra và tính thành tiền.
Trình tự ghi chép tại phòng kế toán: Định kỳ kế toán xuống kho để hướng dẫn và kiểm tra việc ghi chép của thủ kho và thu thập chứng từ. Khi nhận được chứng từ, kế toán kiểm tra chứng từ và đối chiếu với các chứng từ liên quan, kiểm tra việc phân loại chứng từ của thủ kho, ghi giá hạch toán và tính thành tiền cho từng chứng từ. Đồng thời, ghi số tiền vừa tính được vào bảng lũy kế nhập, xuất, tồn kho nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ. Bảng này được mở cho từng kho, mỗi kho một tờ, được ghi trên cơ sở các phiếu giao nhận chứng từ nhập, xuất vật liệu, công cụ dụng cụ. Tiếp đó, cộng số tiền nhập, xuất trong tháng và dựa vào số dư đầu tháng để tính ra số dư cuối tháng của từng nhóm vật liệu, công cụ dụng cụ. Số liệu này được dùng để đối chiếu vối số dư trên sổ số dưvà đối chiếu vối kế toán tổng hợp theo nhóm vật liệu thông qua bảng tính giá thực tế vật liệu.
Phương pháp này có ưu điểm là giảm nhẹ khối lượng ghi chép hàng ngày, nhưng có nhược điểm là kho kiểm tra, đối chiếu và phát hiện sai sót. Do đó yêu cầu trình độ quản lý, trình độ của cán bộ kế toán của doanh nghiệp phải tương đối cao.
1.4. KẾ TOÁN TỔNG HỢP NHẬP XUẤT NGUYÊN VẬT LIỆU
Nếu hệ thống thông tin dựa trên cơ sở hạch toán chi tiết được xây dựng phù hợp với yêu cầu quản lý riêng của từng doanh nghiệp thì hệ thống thông tin hạch tổng hợp được hình thành trên cơ sở tôn trọng một cách nghiêm ngặt theo các qui định của nhà nước về vận dụng hệ thống tài khoản, cácphương pháp đánh giá và tính kết quả kinh doanh. Giữa hạch toán chi tiết và hạch toán tổng hợp có mối quan hệ mật thiết với nhau về mặt quản lý, chúng hình thành một tổng thể hoàn chỉnh các thông tin phục vụ cho các cấp quản lý của nhà nước, tổ chức kinh tế của xí nghiệp và trong nội bộ xí nghiệp.
1.4.1. Theo phương pháp kê khai thường xuyên
1.4.1.1. Đặc điểm của phương pháp kê khai thường xuyên
Phương pháp kê khai thường xuyên là phương pháp theo dõi, phản ánh thường xuyên liên tục có hệ thống tình hình nhập, xuất, tồn kho vật tư, hàng hóa trên sổ kế toán.
1.4.1.2. Tài khoản sử dụng
Để hạch toán quá trình thu mua nhập, xuất, tồn kho vật liệu theo Phương pháp kê khai thường xuyên kế toán sử dụng các tài khoản sau:
+ Tài khoản 151 ‘‘hàng mua đang đi trên đường’’
Trong trường hợp vật liệu mua ngoài doanh nghiệp đã trả tiền hoặc
chấp nhận mua nhưng vì một lý do nào đó chưa nhập kho của doanh nghiệp, thì kế toán phản ánh vào TK 151 ‘‘hàng mua đang đi trên đường’’.
Nội dung TK 151 phản ánh như sau:
Bên nợ: Giá trị vật tư, hàng hóa đã mua đang đi trên đường.
Bên có: Giá trị vật tư, hàng hóa đang đi trên đường đã về nhập kho hoặc đã giao thẳng cho khách hàng.
Dư nợ cuối kỳ: Giá trị vật tư, hàng hóa đã mua nhưng còn đang đi trên đường.
+ Tài khoản 152 ‘‘Nguyên liệu, vật liệu’’
Tài khoản này dùng để phản ánh giá trị hiện có tình hình tăng, giảm các loại nguyên vật liệu của doanh nghiệp. (Có thể mở chi tiết theo loại, nhóm vật tư theo yêu cầu quản lý của doanh nghiệp).
Nội dung tài khoản 152.
Bên nợ: Giá trị thưc tế của nguyên vật liệu nhập kho trong kỳ.
Giá trị vật liệu thừa phát hiện khi kiểm kê
Điều chỉnh tăng giá vật liệu do đánh giá lại
Bên có: Giá thực tế của vật liệu xuất kho trong kỳ
Số tiền giảm giá hàng mua, hàng mua trả lại cho người bán
Giá trị vật liệu thiếu phát hiện khi kiểm kê
Chênh lệch giảm giá vật liệu do đánh giá lại
Dư nợ cuối kỳ: Giá trị thực tế của nguyên vật liệu còn tồn kho cuối kỳ
+ Tài khoản 331 ‘‘phải trả người bán’’
Tài khoản này được sử dụng để phản ánh tình hình thanh toán về các khoản nợ phải trả của doanh nghiệp cho người bán vật tư, hàng hóa, người cung cấp lao vụ, dịch vụ theo hợp đồng kinh tế đã ký k