Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, các doanh nghiệp cạnh tranh nhau để phát triển cả trong nước và ra nước ngoài. Đối với các mặt hàng nông nghiệp như: cây ngắn ngày, cây lâu năm hay cây ăn quả cũng không ngoại lệ, nhà nước ta luôn khuyến khích trồng và xuất khẩu các loại nông sản. Đặc biệt nước ta là nước nông nghiệp nên các loại nông sản càng được chú trọng phát triển và xuất khẩu vì nguồn thu ngoại tệ cao không những giúp phát triển nền kinh tế nước ta mà còn giúp cho các hộ nông dân của nước ta có cuộc sống tốt hơn. Hiện nay, một trong các mặt hàng được nhà nước khuyến khích phát triển và xuất khẩu là cây thanh long. Vì vậy, để có thể cạnh tranh trên thị trường thế giới thì giá bán thanh long của nước ta phải rẻ hơn các đối thủ cạnh tranh mà chất lượng phải cao hơn. Do đó, khâu chọn giống, trồng trọt, chăm sóc cây thanh long rất quan trọng. Để trồng ra trái thanh long có giá thành thấp thì chi phí đầu vào phải thấp và có một phương pháp trồng hợp lý.Vì vậy, các vườn thanh long cần có công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tốt. Sự phát triển vững mạnh của các vườn thanh long phụ thuộc vào khả năng ứng xử giá linh hoạt, cách tính chi phí, biết khai thác những tiềm năng sẵn có để sản xuất ra những sản phẩm với giá thành thấp nhất và chất lượng tốt nhất mà các nhà vườn vẫn đạt được lợi nhuận như mong muốn.
KẾ TOÁN TẬP HỢP CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH
SẢN PHẨM THANH LONG
2.1THỰC TRẠNG TRỒNG CÂY THANH LONG TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY.
2.1.1Sơ lược những vùng trồng thanh long tại Việt Nam hiện nay.
Việt Nam được đánh gía là một trong 4 quốc gia có trái thanh long nhiều nhất thế giới. Diện tích trồng thanh long tại Việt Nam năm 2008 khoảng 15.000 hecta, tập trung chủ yếu ở ba tỉnh là Bình Thuận, Long An và Tiền Giang.
2.1.1.1Thanh long tại Bình Thuận.
Bình Thuận là địa phương có diện tích và sản lượng thanh long lớn nhất cả nước. Theo đại diện Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Bình Thuận, tuy thanh long của tỉnh hiện có 10.000 hecta nhưng tạo ra giá trị bằng 30% so với tổng diện tích nông nghiệp của tỉnh 170.000 hecta mang lại.
Những năm 1990 trở về trước, cây thanh long ở Bình Thuận được ít người biết đến do một bộ phận nhà nông trồng thanh long làm cảnh và quả đẹp để thờ cúng tổ tiên vào những ngày lễ tết. Từ thập niên 1990 lại đây, thanh long trở thành loại cây có giá trị kinh tế cao và được trồng phổ biến. Đây là loại cây chịu hạn, không kén đất, rất thích hợp với khí hậu và thổ nhưỡng của Bình Thuận. Với tiềm năng kinh tế và đặc điểm khí hậu, thổ nhưỡng, Bình Thuận những năm trước đây và hiện nay được xem là tỉnh có nhiều lợi thế nhất trong việc phát triển cây thanh long. Cây thanh long có ý nghĩa quan trọng đối với đời sống dân cư Bình Thuận từ những năm 1989-1990 trở lại đây. Thanh long đã được nhiều người biết đến, được xem như một trong những đặc sản quan trọng của địa phương với sản lượng cao nhất nước hiện nay. Trái thanh long đã được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn xác định là một trong 12 cây có ưu thế cạnh tranh của Việt Nam hiện nay.
Cây thanh long Bình Thuận phát triển khá nhanh về diện tích gieo trồng, năng suất cũng như sản lượng.
Bảng 1: KẾT QUẢ TRỒNG THANH LONG TẠI BÌNH THUẬN
NămDiện tích gieo trồng
(ha)Sản lượng
(tấn)Năng suất
(tấn/ha)
20003.22340.93212,7
20013.95036.8409,3
20024.23060.07014,2
20035.07487.00020,9
20046.22092.56014,9
20056.890120.25017,5
20067.630130.00022,4
20079.277130.45018,6
200810.000 187.50020,8
Nguồn: Hiệp hội Thanh long Bình Thuận.
Trồng thanh long không những giúp các nhà vườn thu được lợi nhuận trong nước mà còn giúp các nhà vườn làm giàu nhờ bán ra các thị trường nước ngoài. Vì vậy, các nhà vườn ở Bình Thuận đã mở rộng diện tích trồng thanh long ngày càng lớn. Qua các năm từ năm 2000 đến năm 2008, diện tích gieo trồng và sản lượng thanh long không ngừng tăng.
Năm 2000-2005, diện tích gieo trồng thanh long tăng 3.667 hecta chỉ trong 5 năm, tương ứng tăng 1,14%. Sản lượng thanh long năm 2005 là 120.250 tấn, tăng 79.318 tấn và 1,94% so với sản lượng năm 2000. Tuy diện tích và sản lượng tăng đều qua các năm nhưng năng suất lại có sự thay đổi không đều. Năm 2003, năng suất tăng đột biến lên đến 20,9 tấn/ha, tăng 6,7 tấn/ha, tương đương tăng 0,47% so với năng suất năm 2002. Có sự tăng đột biến này là do tuy diện tích gieo trồng là 5.074 hecta nhưng diện tích thu hoạch chỉ khoảng 4.153 hecta. Lợi nhuận mà các nhà vườn được hưởng không thể chỉ dựa vào năng suất. Đương nhiên khi trồng thanh long các nhà vườn đều mong muốn đạt năng suất tối đa nhưng năng suất cao phải đi đôi với sản lượng cao tương ứng. Nếu năng suất cao do diện tích thật sự thu hoạch thấp hơn diện tích gieo trồng thì đây là điều không mong muốn của các nhà vườn. Bởi vì khi diện tích thu hoạch thấp hơn diện tích gieo trồng có nghĩa là một phần nhỏ thanh long đã không thể thu hoạch do giống không tốt hoặc do sâu bệnh gây hại. Vì vậy mà khi chưa bán thanh long thì các nhà vườn đã lỗ một phần chi phí mua giống, chi phí làm đất và công sức gieo trồng.
21 trang |
Chia sẻ: dansaran | Lượt xem: 4609 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm thanh long, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHƯƠNG 1
GIỚI THIỆU
LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, các doanh nghiệp cạnh tranh nhau để phát triển cả trong nước và ra nước ngoài. Đối với các mặt hàng nông nghiệp như: cây ngắn ngày, cây lâu năm hay cây ăn quả cũng không ngoại lệ, nhà nước ta luôn khuyến khích trồng và xuất khẩu các loại nông sản. Đặc biệt nước ta là nước nông nghiệp nên các loại nông sản càng được chú trọng phát triển và xuất khẩu vì nguồn thu ngoại tệ cao không những giúp phát triển nền kinh tế nước ta mà còn giúp cho các hộ nông dân của nước ta có cuộc sống tốt hơn. Hiện nay, một trong các mặt hàng được nhà nước khuyến khích phát triển và xuất khẩu là cây thanh long. Vì vậy, để có thể cạnh tranh trên thị trường thế giới thì giá bán thanh long của nước ta phải rẻ hơn các đối thủ cạnh tranh mà chất lượng phải cao hơn. Do đó, khâu chọn giống, trồng trọt, chăm sóc cây thanh long rất quan trọng. Để trồng ra trái thanh long có giá thành thấp thì chi phí đầu vào phải thấp và có một phương pháp trồng hợp lý.Vì vậy, các vườn thanh long cần có công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tốt. Sự phát triển vững mạnh của các vườn thanh long phụ thuộc vào khả năng ứng xử giá linh hoạt, cách tính chi phí, biết khai thác những tiềm năng sẵn có để sản xuất ra những sản phẩm với giá thành thấp nhất và chất lượng tốt nhất mà các nhà vườn vẫn đạt được lợi nhuận như mong muốn. Do đó, “Kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm thanh long” sẽ giúp cho các nhà vườn trồng thanh long có những thông tin đầy đủ về chi phí, giá thành và dựa trên cơ sở đó xây dựng được cơ cấu chi phí, cơ cấu sản phẩm sao cho hợp lý nhất.
MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
Mục tiêu chung: Kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm thanh long nhằm giúp các nhà vườn có những thông tin đầy đủ về chi phí, giá thành và dựa trên cơ sở đó xây dựng được cơ cấu chi phí, cơ cấu sản phẩm sao cho hợp lý nhất.
Mục tiêu cụ thể:
Tìm hiểu thực trạng trồng cây thanh long tại Việt Nam hiện nay.
Tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm thanh long.
Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến trồng cây thanh long tại Việt Nam hiên nay.
Đề ra một số biện pháp nhằm làm giảm chi phí và nâng cao chất lượng của thanh long Việt Nam hiện nay.
PHẠM VI NGHIÊN CỨU
1.3.1 Phạm vi không gian: Tập trung nghiên chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm thanh long, cũng như những khó khăn và thuận lợi trong việc trồng cây thanh long tại Việt Nam hiện nay.
1.3.2 Phạm vi thời gian: Số liệu được sử dụng trong đề tài năm 2006, 2007, 2008.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Mục tiêu 1: Dùng phương pháp thống kê mô tả để tìm hiểu thực trạng trồng cây thanh long tại Việt Nam hiện nay.
Mục tiêu 2: Dùng những kiến thức về kế toán để tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm thanh long.
Mục tiêu 3: Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến trồng cây thanh long tại Việt Nam hiện nay.
Mục tiêu 3: Từ mô tả và phân tích trên sử dụng phương pháp suy luận để đưa ra các biện pháp nhằm làm giảm chi phí và nâng cao chất lượng của thanh long Việt Nam hiện nay.
CHƯƠNG 2
KẾ TOÁN TẬP HỢP CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH
SẢN PHẨM THANH LONG
THỰC TRẠNG TRỒNG CÂY THANH LONG TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY.
Sơ lược những vùng trồng thanh long tại Việt Nam hiện nay.
Việt Nam được đánh gía là một trong 4 quốc gia có trái thanh long nhiều nhất thế giới. Diện tích trồng thanh long tại Việt Nam năm 2008 khoảng 15.000 hecta, tập trung chủ yếu ở ba tỉnh là Bình Thuận, Long An và Tiền Giang.
Thanh long tại Bình Thuận.
Bình Thuận là địa phương có diện tích và sản lượng thanh long lớn nhất cả nước. Theo đại diện Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Bình Thuận, tuy thanh long của tỉnh hiện có 10.000 hecta nhưng tạo ra giá trị bằng 30% so với tổng diện tích nông nghiệp của tỉnh 170.000 hecta mang lại.
Những năm 1990 trở về trước, cây thanh long ở Bình Thuận được ít người biết đến do một bộ phận nhà nông trồng thanh long làm cảnh và quả đẹp để thờ cúng tổ tiên vào những ngày lễ tết... Từ thập niên 1990 lại đây, thanh long trở thành loại cây có giá trị kinh tế cao và được trồng phổ biến. Đây là loại cây chịu hạn, không kén đất, rất thích hợp với khí hậu và thổ nhưỡng của Bình Thuận. Với tiềm năng kinh tế và đặc điểm khí hậu, thổ nhưỡng, Bình Thuận những năm trước đây và hiện nay được xem là tỉnh có nhiều lợi thế nhất trong việc phát triển cây thanh long. Cây thanh long có ý nghĩa quan trọng đối với đời sống dân cư Bình Thuận từ những năm 1989-1990 trở lại đây. Thanh long đã được nhiều người biết đến, được xem như một trong những đặc sản quan trọng của địa phương với sản lượng cao nhất nước hiện nay. Trái thanh long đã được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn xác định là một trong 12 cây có ưu thế cạnh tranh của Việt Nam hiện nay.
Cây thanh long Bình Thuận phát triển khá nhanh về diện tích gieo trồng, năng suất cũng như sản lượng.
Bảng 1: KẾT QUẢ TRỒNG THANH LONG TẠI BÌNH THUẬN
Năm
Diện tích gieo trồng
(ha)
Sản lượng
(tấn)
Năng suất
(tấn/ha)
2000
3.223
40.932
12,7
2001
3.950
36.840
9,3
2002
4.230
60.070
14,2
2003
5.074
87.000
20,9
2004
6.220
92.560
14,9
2005
6.890
120.250
17,5
2006
7.630
130.000
22,4
2007
9.277
130.450
18,6
2008
10.000
187.500
20,8
Nguồn: Hiệp hội Thanh long Bình Thuận.
Trồng thanh long không những giúp các nhà vườn thu được lợi nhuận trong nước mà còn giúp các nhà vườn làm giàu nhờ bán ra các thị trường nước ngoài. Vì vậy, các nhà vườn ở Bình Thuận đã mở rộng diện tích trồng thanh long ngày càng lớn. Qua các năm từ năm 2000 đến năm 2008, diện tích gieo trồng và sản lượng thanh long không ngừng tăng.
Năm 2000-2005, diện tích gieo trồng thanh long tăng 3.667 hecta chỉ trong 5 năm, tương ứng tăng 1,14%. Sản lượng thanh long năm 2005 là 120.250 tấn, tăng 79.318 tấn và 1,94% so với sản lượng năm 2000. Tuy diện tích và sản lượng tăng đều qua các năm nhưng năng suất lại có sự thay đổi không đều. Năm 2003, năng suất tăng đột biến lên đến 20,9 tấn/ha, tăng 6,7 tấn/ha, tương đương tăng 0,47% so với năng suất năm 2002. Có sự tăng đột biến này là do tuy diện tích gieo trồng là 5.074 hecta nhưng diện tích thu hoạch chỉ khoảng 4.153 hecta. Lợi nhuận mà các nhà vườn được hưởng không thể chỉ dựa vào năng suất. Đương nhiên khi trồng thanh long các nhà vườn đều mong muốn đạt năng suất tối đa nhưng năng suất cao phải đi đôi với sản lượng cao tương ứng. Nếu năng suất cao do diện tích thật sự thu hoạch thấp hơn diện tích gieo trồng thì đây là điều không mong muốn của các nhà vườn. Bởi vì khi diện tích thu hoạch thấp hơn diện tích gieo trồng có nghĩa là một phần nhỏ thanh long đã không thể thu hoạch do giống không tốt hoặc do sâu bệnh gây hại. Vì vậy mà khi chưa bán thanh long thì các nhà vườn đã lỗ một phần chi phí mua giống, chi phí làm đất và công sức gieo trồng.
Năm 2006, diện tích gieo trồng thanh long tại Bình Thuận là 7.630 hecta, tăng 740 hecta, tăng 0,11% so với diện tích năm 2005. Nhưng diện tích thu hoạch chỉ khoảng 5.800 hecta với mức sản lượng là 130.000 tấn, tăng 9.750 tấn, tăng 0,08% so với năm 2005. Phần trăm tăng diện tích gieo trồng cao hơn nhiều so với phần trăm tăng sản lượng nhưng năng suất vẫn khá cao ở mức 22,4 tấn/ha là do đa số nông dân đều chuyển đổi từ đất hai vụ lúa hay từ các gò đất trồng các loại cây khác sang trồng thanh long nên phần lớn các nhà vườn trồng thanh long chưa có kinh nghiệm gieo trồng cũng như chưa có các biện pháp tốt để xử lý dịch bệnh. Vì vậy mà diện tích gieo trồng thường cao hơn nhiều so với diện tích thật sự thu hoạch. Đó chính là lý do năng suất cao nhưng nông dân trồng thanh long vẫn chưa hết lo lắng cho lợi nhuận của mình.
Năm 2007, diện tích gieo trồng thanh long là 9.277 hecta, cao hơn năm 2006 là 1.647 hecta, tăng 0,22% so với diện tích năm 2006. Sản lượng năm nay cao hơn năm 2006 là 3.650 hecta, tương ứng cao hơn 0,03%. Nhưng năng suất đạt 18,6 tấn/ha vì diện tích thu hoạch chỉ có 7.000 hecta. Tuy trồng thanh long đạt được năng suất cao và sản lượng thu hoạch được cũng không ngừng tăng lên nhưng diện tích thật sự thu hoạch bao giờ cũng cao hơn diện tích gieo trồng. Mặc dù vậy nông dân trồng thanh long vẫn đạt được lợi nhuận khá cao từ các trụ thanh long nên diện tích gieo trồng thanh long vẫn không ngừng tăng lên.
Tính đến hết năm 2008 và đầu năm 2009 diện tích gieo trồng thanh long ở Bình Thuận đã lên đến 10.000 hecta với mức sản lượng là 187.500 tấn. Tăng 723 hecta, tương đương tăng 0,05% so với diện tích gieo trồng năm 2007 và sản lượng tăng 57.050 tấn, tăng 0,44% so với sản lượng năm 2007. Năng suất năm 2008 là 20,8 tấn/ha với diện tích thu hoạch là 9.000 hecta. Do nông dân đua nhau gieo trồng thanh long tràn lan nhưng lại không thống nhất kỹ thuật trồng, cũng chưa áp dụng những kỹ thuật công nghệ vào trồng thanh long nên năng suất vẫn chưa thể đạt được tối đa.
Thanh long tại Tiền Giang.
Tính đến hết năm 2008, vùng đồng bằng sông Cửu Long có trên 3.500 hecta diện tích gieo trồng thanh long. Trong đó, huyện Chợ Gạo tỉnh Tiền Giang chiếm khoảng 2.500 hecta với mức sản lượng tương đối cao nhưng quan trọng hơn là giá thanh long tại đây đã tăng gấp hai lần so với giá thanh long năm 2007. Hiện nay, tại Quơn Long – Xã trồng chuyên canh cây thanh long của huyện Chợ Gạo, người dân bán thanh long tại vườn với giá từ 13.000-14.000 đồng/kg. Giá thanh long tăng cao là do đến cuối năm 2008 đầu năm 2009 thời tiết se lạnh, phương pháp xông đèn cho cây ra hoa trái vụ không đạt hiệu quả. Thêm vào đó, tỉnh Bình Thuận là tỉnh có diện tích gieo trồng thanh long cao nhất nước ta thì thời tiết cũng lạnh và hanh khô nên sản lượng thanh long cho trái nghịch vụ cũng không nhiều, nhu cầu về thanh long lại tăng chứ không giảm nên đã góp phần làm tăng giá thanh long tại Tiền Giang.
Thanh long tại Long An.
Ở Việt Nam, trái thanh long đã có từ rất lâu. Ngày trước, thanh long chỉ là cây trồng trên đất cằn thiếu nước ở vùng Bình Thuận, hoặc được trồng trên bờ mương, bờ thửa hay trên mảnh đất gò ở vùng Chợ Gạo. Khoảng 15 năm trở lại đây, do trái thanh long được tiêu thụ mạnh ở miền Bắc và xuất khẩu sang một số nước nên nhà nước, doanh nghiệp khuyến khích phát triển diện tích vùng trồng thanh long liên huyện ở Bình Thuận, Tân Trụ (Long An) và Chợ Gạo (Tiền Giang). Nhưng ở Long An, do nhân dân vẫn chưa quen với loại cây ăn quả mới này nên tuy có nhiều nông dân thay đổi từ trồng lúa hay các loại cây ăn quả khác sang trồng thanh long nhưng vẫn rất thưa thớt. Do chưa quy hoạch được vùng trồng thanh long nên khó cho thương lái tổ chức thu gom trái chín. Lúc khan hàng xuất khẩu thì giá tăng cao ngất ngưỡng, còn lúc ế hàng dội chợ thì thanh long để chín rục ngoài vườn, không ai thu hoạch. Thêm vào đó, bệnh thối trái lại bắt đầu xuất hiện ở cây thanh long làm cho các nhà vườn hoang mang, không biết phải xử lý thế nào với dịch bệnh. Nhưng khi thấy được lợi nhuận từ việc xuất khẩu thanh long nhà nước bắt đầu khuyến khích và giúp đỡ nông dân trồng thanh long về mặt kỹ thuật trồng cũng như quy hoạch. Vì vậy mà cho đến nay ở Long An đã có hơn 1.000 hecta gieo trồng thanh long với năng suất bình quân từ 12-15 tấn/ha, và cho lãi bình quân 50 triệu đồng/ha.
Thanh long tại một số tỉnh khác.
Cây thanh long trên đất Long Khánh.
Dù được trồng trên vùng đất bạc màu nhất trên địa bàn thị xã Long Khánh, cây thanh long vẫn được một số hộ đánh giá cao về hiệu quả kinh tế của nó so với những loại cây hiện đang chiếm ưu thế. Cây thanh long là loại cây leo đã được trồng từ lâu trên đất Long Khánh. Với thổ nhưỡng, và khí hậu có lẽ phù hợp và thuận lợi với loại cây thuộc họ “xương rồng” này, nên thanh long phát triển khá tốt, chất lượng và năng suất cũng khá cao. Trước đây, giá thanh long quá rẻ không đủ sức cạnh tranh với những loại cây khác trên địa bàn như sầu riêng, chôm chôm, măng cụt, mít…nên ít ai nghĩ đến việc đưa thanh long vào canh tác, làm nguồn phát triển kinh tế nông nghiệp chính của gia đình, mà chỉ trồng vài dây để ăn, trưng bày trong nhà nhân các ngày lễ, ngày rằm, theo phong tục, tập quán…Thực tế hiện nay, trên địa bàn thị xã Long Khánh nhiều hộ nông dân đã có hướng chuyển sang trồng cây thanh long nhất là những hộ đang canh tác ở những vùng đất bạc màu, có pha nhiều sỏi, cát, đá.
Cây thanh long tại Bến Tre.
Bến Tre vốn là một vùng đất rất kén cây trồng vì đây là vùng đất ven biển lại bị nhiễm phèn. Nhưng khi nông dân ở đây quyến định trồng thanh long thì lại tăng thu nhập lên đáng kể, càng trồng cây càng tươi tốt và cho trái mỗi lúc một nhiều hơn. Do cây thanh long rất dễ làm quen với đất và cũng không tốn nhiều chi phí phân bón và cũng không đòi hỏi cao về kỹ thuật nên nó đã dần trở thành loại cây trồng chính của những nông dân ở đất Bến Tre này. Hiện nay, một cây thanh long trung bình cho trái 80-100 kg/năm với giá bán 8.000-10.000 đồng/kg.
Chất lượng thanh long tại Việt Nam hiện nay.
Trước đây, khi cây thanh long mới chỉ được trồng vài dây ở một số vùng Bình Thuận hay trên các gò đất ở Chợ Gạo tỉnh Tiền Giang với mục đích chỉ để ăn hay trưng bày trên bàn thờ vào những dịp lễ, ngày rằm theo phong tục tập quán thì chưa ai chú ý đến chất lượng hay cách chăm sóc và trồng loại cây này. Nhưng sau này khi nhu cầu về cây thanh long tăng lên, trồng cây thanh long bắt đầu có lợi nhuận thì nông dân đã chú trọng hơn về phòng trừ dịch bệnh hại cây và kích thích cho cây ra hoa trái vụ.
Khi cây thanh long bị bệnh thối trái do những con kiến rịn nhỏ bé, một số ít nông dân do sợ lợi nhuận giảm hay có thể sẽ bị lỗ nặng nếu không bán được những trái thanh long đã bị thối. Nên thay vì dùng bã sinh học an toàn để diệt lũ kiến, họ lại dùng thuốc trừ sâu phun khắp vườn khiến cho dư lượng thuốc trừ sâu tồn lâu trong trái chín. Những người ăn phải những trái thanh long này sẽ rất có hại cho sức khỏe, có thể bị những triệu chứng nhẹ như đau bụng hay tiêu chảy. Nếu ăn nhiều những trái thanh long có dư lượng thuốc trừ sâu này sẽ có thể dẫn tới bệnh ung thư. Nhưng những hành động thiếu đạo đức này cũng chỉ là của một số nhỏ nông dân nên cũng nhanh chóng được loại trừ nhờ một số biện pháp của nhà nước.
Khi trái thanh long bắt đầu được xếp vào danh sách các mặt hàng xuất khẩu thì chất lượng của trái thanh long lại càng được xem trọng. Hiện nay, tỉnh Bình Thuận có hơn 560 hecta sản xuất thanh long được phía Mỹ cấp mã vùng và ngoài diện tích trồng thanh long theo tiêu chuẩn EurepGAP, VietGAP (tiêu chuẩn về an toàn thực phẩm, an toàn cho người sản xuất và môi trường)… việc trồng thanh long an toàn đã được các nhà vườn và doanh nghiệp tích cực hưởng ứng. Đa số nông dân ở Bình Thuận đã và đang triển khai các biện pháp để tăng thời gian bảo quản, đảm bảo chất lượng trái thanh long trong quá trình từ khâu thu hoạch, phân loại xử lý rửa trái, chiếu xạ, đóng gói và vận chuyển thanh long để còn giữ được thương hiệu thanh long Bình Thuận đến tiêu thụ được tại các thị trường khó tính.
Giá thanh long tại Việt Nam.
Do nhu cầu của mọi người về mặt hàng thanh long ngày càng tăng và nhà nước cũng đang khuyến khích xuất khẩu thanh long nên giá thanh long liện tục tăng. Đó cũng là lý do khiến các nhà vườn áp dụng các phương pháp giúp kích thích cây thanh long cho ra hoa trái vụ. Bởi vì cho ra hoa trái vụ cần phải tốn nhiều chi phí hơn cho năng lượng điện nên giá của thanh long trái vụ thường cao gấp 3-4 lần thanh long chính vụ.
Bảng 2: GIÁ THANH LONG TẠI VIỆT NAM
Đvt: đồng/kg.
Năm
Giá
Chính vụ
Trái vụ
2006
2.000 – 4.000
4.000 – 8.500
2007
3.300 – 4.200
8.000 – 10.000
2008
4.000 – 4.500
15.000 – 22.000
Nguồn: Tổng cục thống kê.
Từ năm 2006, thanh long đã được hầu hết các nhà vườn ở Bình Thuận, Tiền Giang và Long An chọn làm loại cây trồng chính cho mảnh đất của mình và trồng thanh long cũng là nguồn thu nhập chính của những nông dân ở đây. Do thanh long đã được trồng tương đối nhiều nên chính vụ giá chỉ khoảng 2.000-4.000 đồng/kg. Có lúc giá lên đến 4.000 đồng/kg là vì cầu thanh long lớn hơn cung. Đối với thanh long cho quả trái vụ thì giá khoảng 4.000-8.500 đồng/kg. Giá của thanh long trái vụ cao hơn chính vụ không chỉ vì tốn nhiều chi phí hơn mà còn do không phải nông dân nào cũng có các phương pháp tốt để xử lý cho cây ra hoa trái vụ. Cho nên, trái vụ thường nguồn hàng thanh long sẽ ít hơn chính vụ vì vậy mà giá thanh long trái vụ luôn cao hơn chính vụ.
Năm 2007, nước ta vừa mới gia nhập WTO nên thanh long ruột trắng của ta phải cạnh tranh với những giống thanh long ruột đỏ, ruột vàng hay ruột tím du nhập từ những nước khác. Vì vậy tuy giá thanh long có tăng nhưng tăng không đáng kể. Năm 2007, giá thanh long của nước ta ở mức bình quân từ 3.300-4.200 đồng/kg trong chính vụ và 8.000-10.000 đồng/kg trái vụ. Giá cao hơn năm 2006 khoảng 1.000 đồng/kg trong chính vụ và cao hơn từ 1.500-4.000 đồng/kg trái vụ. Tức là năm 2007, chính vụ giá tăng từ 0,05%-0,65%, còn trái vụ giá tăng từ 0,18%-1% so với giá năm 2006.
Năm 2008, nhà nước khuyến khích các nhà vườn trồng thanh long để xuất khẩu nên sản lượng thanh long thu hoạch được chủ yếu ưu tiên cho xuất khẩu. Cũng trong năm này, tại Bình Thuận – Tỉnh có diện tích gieo trồng và sản lương thanh long cao nhất Việt Nam, đã có một hợp tác xã sản xuất thanh long sạch theo tiêu chuẩn Châu Âu (EurepGAP) được Tổ chức Giám sát quốc tế IMO công nhận. Vì vậy mà năm 2008 nước ta đã có rất nhiều các lô hàng thanh long xuất sang các nước khác, nhất là thị trường khó tính là nước Mỹ. Do đó, thanh long trong nước trở nên khan hiếm hàng đã đẩy giá thanh long trong nước lên rất cao. Chính vụ giá từ 4.000-4.500 đồng/kg, trái vụ giá từ 15.000-22.000 đồng/kg. Vì thanh long xuất khẩu trong trái vụ nên giá chính vụ có tăng nhưng tăng không nhiều chủ yếu là giá tăng trong trái vụ. Năm 2008, giá chính vụ tăng từ 300-700 đồng/kg, tương ứng tăng 0,07%-0,21%. Trái vụ giá tăng từ 7.000-12.000 đồng/kg, tương ứng tăng từ 0,88%-1,2% so với giá năm 2007.
TẬP HỢP CHI PHÍ SẢN XUẤT CỦA CÂY THANH LONG VÀ TÍNH GIÁ THÀNH.
Những vấn đề chung.
Một số khái quát chung trong sản xuất nông nghiệp.
Sản xuất nông nghiệp.
Sản xuất nông nghiệp là một ngành sản xuất vật chất quan trọng tạo ra các loại lương thực, thực phẩm để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng cho toàn xã hội và còn có một bộ phận đáng kể được xuất khẩu. Sản xuất nông nghiệp bao gồm hai ngành sản xuất chủ yếu là trồng trọt và chăn nuôi, ngoài ra để bảo quản sản phẩn và tăng giá trị của sản phẩn nông nghiệp thì trong ngành nông nghiệp nói chung và trong doanh nghiệp nông nghiệp nói riêng còn có hoạt động chế biến mang tính chất công nghiệp. Nếu đứng trên gốc độ tổ chức quản lý và kỹ thuật sản xuất thì hoạt động này cũng được xem là ngành sản xuất độc lập: Ngành chế biến. Như vậy, hoạt động sản xuất trong ngành sản xuất nông nghiệp được phân loại thành ba hoạt động chính: trồng trọt, chăn nuôi và chế biến.
Bên cạnh các hoạt động chính nêu trên, trong ngành nông nghiệp còn có những hoạt động sản xuất phụ có tính đặc thù để phục vụ cho hoạt động chính như: Sản xuất phân bón, thực hiện công việc vận chuyển, làm đất, chăm sóc, thu hoạch sản phẩm…Các hoạt động này cũng hết sức cần thiết và quan trọng, nó có thể được tổ chức thành những đơn vị hạch toán độc lập để phục vụ cho nội bộ ngành hoặc thành những đội sản xuất (phân xưởng sản xuất) riêng để phục vụ cho nội bộ doanh nghiệp.
Sản xuất nông nghiệp được thực hiện bởi nhiều loại hình khác nhau từ kinh tế phụ gia đình đến các hộ cá thể chuyên sản xuất nông nghiệp và các doanh nghiệp sản xuất nông nghiệp. Nếu xét về mặt sở hữu thì doanh nghiệp sản xuất nông nghiệp bao gồm cả những loại hình thuộc sở hữu nhà nước, thuộc sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân, còn nếu xét về mặt tổ chức thì nó cũng rất đa dạng bao gồm từ cấp tổng công ty, các loại công ty, hợp tác xã sản xuất và các doanh nghiệp tư nhân. Nói chung về mặt sở hữu và hình thức tổ chức thì các loại hình doanh nghiệp trong sản xuất nông nghiệp cũng giống như những ngành sản xuất khác.
Chi phí sản xuất.
Chi phí sản xuất là toàn bộ