Khảo sát sự biến động của cua giống và tình hình khai thác giống cua ở vùng ven biển

Cua biển (Scylla sp.) là một trong những đối tượng rất quan trọng của nghềnuôi trồng và khai thác thủy sản ởcác vùng nước lợven biển, đặc biệt là các nước thuộc ấn Độ- Thái Binh Dương (Angell, 1992). ởViệt Nam có Đồng Bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL) với diện tích mặt nước lợ gần 300.000 ha được đánh giá là nơi quan trọng cho sựphân bốtựnhiên và phát triển nghềnuôi và khác thác của cua biển. Theo sốliệu điều tra năm 1995 thì ĐBSCL có trên 3.000 ha nuôi cua với sản lượng trên 1.600 tấn/năm (Tuấn và Hải, 1997). Nghề nuôi cua biển hiện nay đang phát triển rộng rãi với nhiều hình thức khác nhau và điều này đã và đang gây ra áp lực rất lớn vềcua giống vốn còn lệthuộc hoàn toàn vào việc khai thác tựnhiên. Tuy nhiên, nghiên cứu vềsựbiến động của cua giống cũng nhưthực trạng vềkhai thác cua trong vùng vẫn chưa được tiến hành. Báo cáo này trình bày những kết quả vềsựbiến động tựnhiên của cua giống và tình hình khai thác cua giống vùng ven biển phía Tây-Nam ĐBSCL nằm trong địa bàn tỉnh Cà Mau.

pdf8 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2108 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khảo sát sự biến động của cua giống và tình hình khai thác giống cua ở vùng ven biển, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Khảo Sát Sự Biến Động Cua Giống và Tình Hình Khai Thác Giống Cua ở Vùng Ven Biển Phía Tây-Nam Đồng Bằng Sông Cửu Long Trần Ngọc Hải, Nguyễn Thanh Phương và Trần Văn Việt Khoa Thủy Sản - Trường Đại học Cần Thơ (Đã được đăng trong tạp chí thủy sản số tháng 2/2003) Giới thiệu Cua biển (Scylla sp.) là một trong những đối tượng rất quan trọng của nghề nuôi trồng và khai thác thủy sản ở các vùng nước lợ ven biển, đặc biệt là các nước thuộc ấn Độ - Thái Binh Dương (Angell, 1992). ở Việt Nam có Đồng Bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL) với diện tích mặt nước lợ gần 300.000 ha được đánh giá là nơi quan trọng cho sự phân bố tự nhiên và phát triển nghề nuôi và khác thác của cua biển. Theo số liệu điều tra năm 1995 thì ĐBSCL có trên 3.000 ha nuôi cua với sản lượng trên 1.600 tấn/năm (Tuấn và Hải, 1997). Nghề nuôi cua biển hiện nay đang phát triển rộng rãi với nhiều hình thức khác nhau và điều này đã và đang gây ra áp lực rất lớn về cua giống vốn còn lệ thuộc hoàn toàn vào việc khai thác tự nhiên. Tuy nhiên, nghiên cứu về sự biến động của cua giống cũng như thực trạng về khai thác cua trong vùng vẫn chưa được tiến hành. Báo cáo này trình bày những kết quả về sự biến động tự nhiên của cua giống và tình hình khai thác cua giống vùng ven biển phía Tây-Nam ĐBSCL nằm trong địa bàn tỉnh Cà Mau. Phương pháp nghiên cứu Nghiên cứu được tiến hành trong thời gian một năm từ 1998-1999 tại khu vực Rạch Chèo thuộc tỉnh Cà Mau. Đây là khu vực gần cửa sông Bảy Háp, một trong những sông lớn của Cà Mau đổ ra biển Tây. Khu vực này có bãi bùn rộng và dài ven bờ sông và là nơi khai thác cua giống chủ yếu trong vùng. Trong nghiên cứu này, cua giống được thu mua từ các ngư dân hay các điểm buôn bán địa phương. Trung bình 87 cua con (50-100 con) được thu mỗi đợt và mỗi tháng thu 2 đợt vào lúc nước rong và thu tổng số cua thu được trong thời gian nghiên cứu là 1.720. Mẫu cua được làm chết bằng nước đá trước khi cố định bằng formol với nồng độ 10%. Sự biến động của các chỉ tiêu về trọng lượng, chiều dài, chiều rộng carapace trung bình cũng như mối tương quan giữa chúng đã được phân tích. Ngoài ra, tinh hình khai thác cua giống cũng được ghi nhận và thảo luận thông qua phỏng vấn trực tiếp các ngư dân hàng tháng. Kết quả và thảo luận Kích cỡ cua giống và biến động của kích cỡ cua trong năm Trong suốt thời gian nghiên cứu với tổng cộng 1.720 cua con được thu cho thấy cua xuất hiện ở vùng Rạch Chèo với kích cỡ trung bình là 2,67 cm về chiều rộng carapace, 2,04 cm về chiều dài và 8,49 g về trọng lượng. Tỷ lệ các nhóm kích cỡ cua con được trình bày ở Đồ thị 1. Mặc dù cua thu được có sự dao động lớn về chiều rộng carapace (0,6-9,5 cm), chiều dài (0,5-6,8 cm) và trọng lượng (0,05-167 g) nhưng nhóm cua có kích cỡ nhỏ (1-2 cm chiều dài và chiều rộng carapace) vẫn chiếm chủ yếu trong quần thể cua thu. Có thể cua lớn có thể đã vào sâu trong nội địa hay đã sống trong hang, không thể bắt được theo phương pháp đánh bắt cua con. Nghiên cứu sự xuất hiện của cua giống vùng bãi bồi ven biển Tỉnh Bạc Liêu cũng cho thấy cua giống có kích cỡ trung bình 1-2 cm chiều rộng carapace và trọng lượng 1-2g/con (Hải và ctv, 2000). Sự biến động về kích cỡ trung bình của cua thu theo các tháng trong năm cũng được trình bày ở Đồ thị 2. Qua đồ thị cho thấy cua giống hầu như xuất hiện quanh năm ở vùng Rạch Chèo. Sự thay đổi về kích cỡ của cua con qua các tháng thu mẫu thể hiện có ít nhất 3 đợt cua sinh sản rộ trong tự nhiên trong năm, đó là các tháng 5-9, tháng 9-10 và tháng 10 đến tháng 3 năm sau. Đàn cua con mới xuất hiện với số lượng lớn làm kích cỡ trung bình quần đàn (về chiều rộng, chiều dài và cả trọng lượng) giảm rõ rệt. Cua con xuất hiện ở vùng Rạch Chèo có kích cỡ nhỏ nhất là 0,6 cm chiều rộng và 0,5 cm chiều dài, điều này cho biết ấu trùng cua có thể đã chuyển thành cua con (C1) khoảng 15-30 ngày trước khi được thu tại bãi bồi. Trong thí nghiệm ương nuôi cua giống với các độ mặn khác nhau, cua C1 (0.3 cm) đạt thành cua C4 (1.1 cm) sau khoảng 13-15 ngày và thành cua C7 (1.9 cm) sau khoảng 33-35 ngày (Hải, 1997). So sánh với mùa vụ xuất hiện cua con ở Bạc Liêu, cua con ở đây xuất hiện phổ biến vào tháng 11 (Hải và ctv, 2000). Điều này cho thấy tùy từng vùng khác nhau, mùa vụ xuất hiện cua giống cũng khác nhau. Điều này có thể liên quan với điều kiện tự nhiên đặc thù từng vùng. Sự di cư sinh sản của cua thành thục ra vùng ven biển để sinh sản đã được nghiên cứu bởi nhiều tác giả trên thế giới (Ong, 1966; Brick, 1974; Hill, 1975). Hill (1975) cho rằng, sự di cư sinh sản của cua mẹ có liên quan đến chu kỳ trăng và sự thay đổi của độ mặn. Hill (1982) cho rằng, cua con sinh sống chủ yếu ở vùng rừng ngập mặn và ẩn trú ở đó khi triều xuống; cua lớn di cư vào vùng trung triều tìm thức ăn khi triều lên và trở xuống vùng hạ triều khi triều xuống, cua trưởng thành sống chủ yếu vùng hạ triều. Sự di cư giữa các vùng sinh thái và trong cùng vùng sinh thái của cua cũng đã được nghiên cứu bởi Hyland và ctv. (1984). Tuy nhiên, các nghiên cứu về sự biến động và di cư của cua nói chung và cua giống nói riêng ở vùng ven biển ĐBSCL đến nay còn rất hạn chế. Tương quan giữa trọng lượng và kích cỡ của cua Kết quả phân tích cho thấy rằng, mối tương quan giữa chiều rộng (CW) với trọng lượng (BW), chiều dài (CL) với trọng lượng và giữa chiều dài với chiều rộng của cua được biểu hiện mối tương quan rất chặc chẽ thông qua các phương trình y=0,3077x2,7001 (r2=0,9578); y=0,5973x2,9052 (r2=0,9658); và y=1,4226x-0,1324 (r2=0,9786) (Đồ thị 3). Kết quả này cho thấy trong giai đoạn này cua đang tăng nhanh về kích cỡ hơn về trọng lượng. Đặc biệt, cua cũng tăng nhanh về chiều rộng so với chiều dài và điều này làm cho cua có hình quạt. Tương tự, kết quả nghiên cứu ở Bac Liêu cũng cho thấy mối tương quan giữa chiều rộng carapace và trọng lượng cua thông qua phương trình y = 0,25x2.733 (r2 = 0.9737) (Hải và ctv, 2000). Khai thác cua con Tình hình khai thác cua giống ở Rạch Chèo được trình bày qua bảng 1. Kết quả cho thấy rằng, cùng với sự xuất hiện quanh năm của nguồn cua giống, việc khai thác cua cũng xảy ra hầu như quanh năm để cung cấp giống cho nghề nuôi. Tuy nhiên, mùa khai thác cao điểm nhất là vào khoảng tháng 9-10 với số lượng đến 140 lượt người bắt cua mỗi ngày. Thành phần ngư dân chủ yếu là trẻ em và phụ nữ. Phương tiện đánh bắt là dùng lưới kéo vào lúc nước lớn đầy hay sắp ròng. Số lượng người bắt cua nhiều nhưng số cua mỗi người bắt không quá 20 con/ngày. Với giá 500-1.000 đồng/con cua cũng mang lại nguồn thu cần thiết cho cư dân trong vùng. Tuy nhiên, bên cạnh lợi ích nhỏ từ việc khai thác cua, vấn đề này cũng gây ra nhiều trở ngại nghiêm trọng, làm cạn kiệt nguồn lợi cua con và cả cua thịt. Nhìn chung, sản lượng cua giống khai thác được ở vùng Rạch Chèo kém hơn so với vùng bãi bồi Bạc Liêu với số lượng khai thác có thể đến 140 con /người/ngày. Số lượng người bắt cua ở Bạc Liêu cũng nhiều hơn so với ở Rạch Chèo Điều này cũng có thể do bãi bồi ven biển Bạc Liêu rộng hơn nhiều so với bãi bồi ven sông ở Rạch Chèo (Hải và ctv, 2000). Không giống như ở Rạch Chèo, người dân vùng ven biển Bạc Liêu bắt cua con chủ yếu bằng vợt có lưới mịn. Khi triều xuống, nhiều hố nước nhỏ ven rừng ngập mặn sẽ là nơi tìm bắt cua con. Hiện nay, phong trào nuôi cua con trong vuông tôm - rừng rất phát triển, nhất là ở tỉnh Cà Mau. Mật độ thả cua khoảng 500 con/ha, không cần phải chăm sóc hay cho ăn và vuông nuôi cũng không cần phải rào xung quanh do có rừng làm nơi sinh sống lý tưởng cho cua. Cua sau đó được thu tỉa liên tục (Khoa Thuỷ sản, 2000; Minh và ctv., 2001). Do lợi ích của việc nuôi cua trong vuông tôm - rừng mà nhu cầu con giống ngày càng tăng. Điều này đã gây áp lực lớn đối với nguồn lợi cua con trong vùng do khai thác quá mức. Hiện tại, nhiều nơi đã ngăn cấm khai thác cua con trong đó có vùng Rạch Chèo, song, việc khai thác trái phép vẫn còn tồn tại. Kết luận Những kết quả thu được đã cho phép rút ra những vấn đề quan trọng là (i) cua giống xuất hiện hầu như quanh năm ở vùng Rạch Chèo; (ii) sự xuất hiện của cua con theo từng đợt cho biết rằng cua đẻ tập trung nhiều đợt trong năm; (iii) việc khai thác cua giống bước đầu đã góp phần cung cấp giống cho nghề nuôi, song, cần phải được quản lý chặc chẽ; và (iv) cần nhanh chóng nghiên cứu phát triển sản xuất giống nhân tạo cua biển để đáp ứng nhu cầu của nghề nuôi. Summary Study on recruitment and fishing of mud crab seedlings in the Southern West Cast of the Mekong delta, Viet Nam was conducted during 1998 and 1999 at Rach Cheo area of Ca Mau province. After one year of sampling with a total number of 1,720 crabs, the analysis shows that crab seed appears almost year round in the region with the peaks on March, May and September of the year. Small crabs of 1-2 cm in BW (body weight ) were found dominated in the population. Regression beetween the BW, CW (Carapace width) and CL (Carapace lenght) of crabs were also analyzed. Throught interviewing the fishermen and middle men, some aspects on fishing of the crab were also presented and discussed. Tài liệu tham khảo Agell C.A. (1992). The mud crab. A report of the mud crab culture and trade, held at Surat Thani, Thailand, November 5--8, 1991. Brich R.W (1974). Effect of water quality, antibiotic, phytoplankton and food on survival and development of larvae of Scylla serrata. In Mud Crab abtract. SEAFDEC, 1989. pp 11-12. Hill, B.J. (1975) Abundance, breeding and growth of the crab Scylla serrata in two South African Estuaries. Marine Biology. 32: 119--126 Hyland, J.; Hill, B.J.; and Lee, C.P. (1984). Moverment within and between diffeerent habitats by the Portunus Crab Scylla serrata. Marine Biology. 80:57--61 Phú, T.Q, N.T. Toàn, N.V. Văn aand N.T. Phương (2002). Hiện trạng sản xuất lân-ngư kết hợp ở Huyện Ngọc Hiển và Đầm Dơi – Cà Mau. Tạp chí Khoa học và Công nghệ Biển, p: 161-173. Tuan, N.A. and Tran Ngoc Hai (1997). The Status of Mud Crab Culture in the Mekong Delta, Vietnam. Paper presented at the First International Conference on Marine Science, Kuala Terengganu, Malaysia, August 1997. Ong K.S. (1966). Observation on Postlarval life history of Scylla serrata reared in the laboratory. The Malaysian Agricultural Journal. 45 (4): 429-443. Hai, T.N. (1997). Studies on some aspects of the reproduction of mud crabs. Master Thesis. UPM, 1997. Hải, T.N., N.T. Phương và T.V. Việt (2000). Nghiên cứu sự biến động của cua giống và khai thác giống cua ở ĐBSCL. Báo cáo tạo hội nghị “Nghiên cứu các chỉ thị môi trường vùng ven biển ĐBSCL” tổ chức tại Đại học Cần Thơ, tháng 1-2000. Minh, T.H. , A. Yakupitiyage and D.J. Macintosh (2001). Management of the integrated mangrove - aquaculture farming systems in the Mekong Delta. ITCZM Monograph. AIT. Bảng 1: Tình hình khai thác cua con ở Rạch Chèo Số người bắt cua/ngày Số cua mỗi người bắt được / ngày Tổng số cua bắt được / ngày Tháng 9/98 140 12 1680 Tháng 10/98 29 10 290 Tháng 11/98 46 8 368 Tháng 12/98 5 9 45 Tháng 1/99 9 9 81 Tháng 2/99 4 10 40 Tháng 3/99 3 8 24 Tháng 5/99 4 7 28 Tháng 6/99 11 8 88 Tháng 7/99 12 10 120 Tháng 8/99 18 13 234 Vuìng nghiãn cæìu Baín âäö Âäöng Bàòng Säng Cæíu Long Đồ thị 1: Phân bố kích cỡ cua con y = 1707 * 1 * normal (x, 2.7638547, 1.396722) CW (cm) N o of o bs 0 39 78 117 156 195 234 273 312 351 390 429 468 507 546 585 10 y = 1707 * 1 * normal (x, 2.035911, 0.9712903) CL (cm) N o of o bs 0 56 112 168 224 280 336 392 448 504 560 616 672 728 784 840 7 y = 1707 * 20 * normal (x, 8.490691, 15.057125) BW (g) N o of o bs 0 103 206 309 412 515 618 721 824 927 1030 1133 1236 1339 1442 1545 <= 0 (0,20] (20,40] (40,60] (60,80] (80,100] (100,120] (120,140] (140,160] (160,180] > 180 Sè c ua Sè c ua Sè c ua Réng carapace Träng l-îng (g) Dµi carapace (cm) Đồ thị 2: Biến động về kích cỡ và trọng lượng trung bình của cua thu trong năm Max Min Mean+SD Mean-SD Mean Outliers Sampling time C ar ap ac e W id th (c m ) -1 1 3 5 7 9 11 7 S ep 9 8 22 S ep 9 8 7 O ct 9 8 22 O ct 9 8 6 N ov 9 8 22 N ov 9 8 7 D ec 9 8 23 D ec 9 8 7 Ja n 99 22 J an 9 9 8 Fe b 99 22 F eb 9 9 7 M ar ch 9 9 27 M ay 9 9 12 J un 9 9 27 J un 9 9 16 J ul y 99 4 A ug 9 9 24 A ug 9 9 30 S ep 9 9 Max Min Mean+SD Mean-SD Mean Outliers Sampling time C ar ap ac e Le ng th (c m ) 0 1 2 3 4 5 6 7 8 7 S ep 9 8 22 S ep 9 8 7 O ct 9 8 22 O ct 9 8 6 N ov 9 8 22 N ov 9 8 7 D ec 9 8 23 D ec 9 8 7 Ja n 99 22 J an 9 9 8 Fe b 99 22 F eb 9 9 7 M ar ch 9 9 27 M ay 9 9 12 J un 9 9 27 J un 9 9 16 J ul y 99 4 A ug 9 9 24 A ug 9 9 30 S ep 9 9 Max Min Mean+SD Mean-SD Mean Outliers Extremes Sampling time B od y w ei gh t ( g) -40 0 40 80 120 160 200 7 S ep 9 8 22 S ep 9 8 7 O ct 9 8 22 O ct 9 8 6 N ov 9 8 22 N ov 9 8 7 D ec 9 8 23 D ec 9 8 7 Ja n 99 22 J an 9 9 8 Fe b 99 22 F eb 9 9 7 M ar ch 9 9 27 M ay 9 9 12 J un 9 9 27 J un 9 9 16 J ul y 99 4 A ug 9 9 24 A ug 9 9 30 S ep 9 9 Ré ng c ar ap ac e ( ) D µi c ar ap ac e ( ) Tr än g l- în g Ngµy thu mÉu Ngµy thu mÉu Ngµy thu mÉu Đồ thị 3: Tương quan giữa trọng lượng với chiều dài và chiêu rộng carapace của cua giống y = 0.3077x2.7001 R2 = 0.9578 0 20 40 60 80 100 120 140 160 180 0 2 4 6 8 10 CW(cm) BW (g ) y = 0.5973x2.9052 R2 = 0.9658 0 20 40 60 80 100 120 140 160 180 0 2 4 6 8 CL(cm) BW (g ) y = 1.4226x - 0.1324 R2 = 0.9786 0 2 4 6 8 10 12 0 2 4 6 8 CL (cm) C W (c m ) Tr än g l- în g Tr än g l- în g Ré ng c ar ap ac e Réng carapace (cm) Dµi carapace (cm) Réng carapace (cm)
Luận văn liên quan