Trong những năm gần đây nghề Nuôi trồng Thủysản ở Việt Nam phát triểnrất 
mạnh,sảnlượng xuất khẩu không ngừngtăng lên, trongsố cácmặt hàng thủy 
sản xuất khẩu thì cá tra(Pangasianodon hypophthalmus ) làmột trong những đối 
tượngchiếmsảnlượng cao nhất. Theosốliệu củaTổngcụcHải quan, trongnăm 
2008, Việt Nam đã xuất khẩuhơn 640 nghìntấn cá tra, basa các lo ại, đạt 1,453tỉ
USD, duy trìmức tăng trưởng 66%khốilượng và 48% giá tr ịso với năm 2007.
Tuy nhiên, ngành nuôi tr ồng thủysản nói chung và nghề nuôi cá tra nói riêng 
đang phải đốimặtvới nhiều thách thứclớn do nuôi cámột cáchtự phát chưa 
theo qui hoạchcụ thể, nuôivớimật độ ngày càng cao,hệ thống thủylợi phụcvụ
nuôi thủy sản chưa đảm bảo đãlàm ô nhiễm môitrườngnước. Đặc biệt trong quá 
trình nuôi thìlượng thức ăndư thừa, chất thảicủa cá,sự phânhủy các chấthữu 
cơ đãtạo điều kiện thuậnlợi cho các vi sinhvật gâyhại phát triển như
Aeromonas, Edwardsiella ictaluri, Pseudomonas, Vibrio là tác nhân chínhyếu 
gây rabệnh xuất huyết, trắng da,bệnh gan thânmủ làm thiệthại đángkể đến 
năng suất ao nuôi(T ừThanhDung và ctv, 2003). 
Hơnnữa, việcsửdụng kháng sinh để chữabệnh cho cá không còn được ứng 
dụng nhiều dodưlượng kháng sinh trongs ản phẩm ngày càng cao, không đáp 
ứng được yêucầucủamộtsố thị trườnglớn nhưMỹ, Châu Âu. Dovậy,mộtsố
đề tài đã nghiêncứu vai tròcủa các chế phẩm sinhhọc (probiotic) trong ao nuôi 
thủysảnbước đầu manglại hiệu quả. Nghiêncứucủa Vijayabaskar et al (2008) 
ứngdụng thành công các vi khuẩn cólợi màcụ thể là nhóm vi khuẩn bacillus sp 
trong nuôi cá rô phi nh ằm đểhạn chếmầmbệnh do vi khuẩn Aeromonas 
hydrophila gây ra.Một nghiêncứu khác khisửdụng CP Bio-dream trongbể
ương ấu trùng tôm càng xanh cho th ấy cácyếutố thủy lý, hóa trong môi trường 
nướcbể ương như nhiệt độ, pH, oxy hòa tan, khí NH3
, đềutốthơn sovới ao đối 
chứng (Oanh et al., 2004). Qua đó việcsửdụng chế phẩm sinhhọc trong nuôi 
thủysản có ý nghĩa thực tiễn góp phần đưa nghề nuôi thủysản ởnước ta phát 
triển một cáchbềnvững (Nguyễn Phước Thành, 2007).
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 48 trang
48 trang | 
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 3047 | Lượt tải: 3 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khảo sátmật độvi khuẩn aeromonas, pseudomonas, edwardsiella ictalurivàvibriotrong môi trờng nớcnuôi cátra (pangasianodon hypophthalmus) thâm canh có sử dụng chế phẩm sinh học (probiotic) ở Đồng Tháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ 
KHOA THỦY SẢN 
Bộ môn Sinh học và bệnh thủy sản 
ĐẶNG CHÍ CÔNG 
KHẢO SÁT MẬT ĐỘ VI KHUẨN Aeromonas, Pseudomonas, 
Edwardsiella ictaluri VÀ Vibrio TRONG MÔI TRƯỜNG 
NƯỚC NUÔI CÁ TRA (Pangasianodon hypophthalmus) 
THÂM CANH CÓ SỬ DỤNG CHẾ PHẨM SINH HỌC 
(probiotic) Ở ĐỒNG THÁP 
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC 
CHUYÊN NGÀNH BỆNH HỌC THỦY SẢN 
2009 
PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version 
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ 
KHOA THỦY SẢN 
Bộ môn Sinh học và bệnh thủy sản 
ĐẶNG CHÍ CÔNG 
KHẢO SÁT MẬT ĐỘ VI KHUẨN Aeromonas, Pseudomonas, 
Edwardsiella ictaluri VÀ Vibrio TRONG MÔI TRƯỜNG 
NƯỚC NUÔI CÁ TRA (Pangasianodon hypophthalmus) 
THÂM CANH CÓ SỬ DỤNG CHẾ PHẨM SINH HỌC 
(probiotic) Ở ĐỒNG THÁP 
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC 
CHUYÊN NGÀNH BỆNH HỌC THỦY SẢN 
CÁN BỘ HƯỚNG DẪN 
ThS. NGUYỄN THỊ THU HẰNG 
2009 
PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version 
 1
CHƯƠNG 1 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
1.1. Giới thiệu 
Trong những năm gần đây nghề Nuôi trồng Thủy sản ở Việt Nam phát triển rất 
mạnh, sản lượng xuất khẩu không ngừng tăng lên, trong số các mặt hàng thủy 
sản xuất khẩu thì cá tra (Pangasianodon hypophthalmus) là một trong những đối 
tượng chiếm sản lượng cao nhất. Theo số liệu của Tổng cục Hải quan, trong năm 
2008, Việt Nam đã xuất khẩu hơn 640 nghìn tấn cá tra, basa các loại, đạt 1,453 tỉ 
USD, duy trì mức tăng trưởng 66% khối lượng và 48% giá trị so với năm 2007. 
Tuy nhiên, ngành nuôi trồng thủy sản nói chung và nghề nuôi cá tra nói riêng 
đang phải đối mặt với nhiều thách thức lớn do nuôi cá một cách tự phát chưa 
theo qui hoạch cụ thể, nuôi với mật độ ngày càng cao, hệ thống thủy lợi phục vụ 
nuôi thủy sản chưa đảm bảo đã làm ô nhiễm môi trường nước. Đặc biệt trong quá 
trình nuôi thì lượng thức ăn dư thừa, chất thải của cá, sự phân hủy các chất hữu 
cơ đã tạo điều kiện thuận lợi cho các vi sinh vật gây hại phát triển như 
Aeromonas, Edwardsiella ictaluri, Pseudomonas, Vibrio…là tác nhân chính yếu 
gây ra bệnh xuất huyết, trắng da, bệnh gan thân mủ làm thiệt hại đáng kể đến 
năng suất ao nuôi (Từ Thanh Dung và ctv, 2003). 
Hơn nữa, việc sử dụng kháng sinh để chữa bệnh cho cá không còn được ứng 
dụng nhiều do dư lượng kháng sinh trong sản phẩm ngày càng cao, không đáp 
ứng được yêu cầu của một số thị trường lớn như Mỹ, Châu Âu... Do vậy, một số 
đề tài đã nghiên cứu vai trò của các chế phẩm sinh học (probiotic) trong ao nuôi 
thủy sản bước đầu mang lại hiệu quả. Nghiên cứu của Vijayabaskar et al (2008) 
ứng dụng thành công các vi khuẩn có lợi mà cụ thể là nhóm vi khuẩn bacillus sp 
trong nuôi cá rô phi nhằm để hạn chế mầm bệnh do vi khuẩn Aeromonas 
hydrophila gây ra. Một nghiên cứu khác khi sử dụng CP Bio-dream trong bể 
ương ấu trùng tôm càng xanh cho thấy các yếu tố thủy lý, hóa trong môi trường 
nước bể ương như nhiệt độ, pH, oxy hòa tan, khí NH3, đều tốt hơn so với ao đối 
chứng (Oanh et al., 2004). Qua đó việc sử dụng chế phẩm sinh học trong nuôi 
thủy sản có ý nghĩa thực tiễn góp phần đưa nghề nuôi thủy sản ở nước ta phát 
triển một cách bền vững (Nguyễn Phước Thành, 2007). 
Để hiểu rõ thêm quan hệ giữa các nhóm vi khuẩn gây bệnh với tình hình dịch 
bệnh và tỷ lệ sống của cá nuôi. Đề tài “Khảo sát mật độ vi khuẩn Aeromonas, 
Pseudomonas, Edwardsiella ictaluri và Vibrio trong môi trường nước nuôi cá 
tra (Pangasianodon hypophthalmus) thâm canh có sử dụng chế phẩm sinh 
học (probiotic) ở Đồng Tháp” được thực hiện. 
PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version 
 2
 1.2. Mục tiêu 
Tìm hiểu mật số của một số giống loài vi khuẩn trong môi trường nước ao nuôi 
cá tra thâm canh có sử dụng chế phẩm sinh học và ao nuôi không sử dụng chế 
phẩm sinh học. 
1.3. Nội dung 
- Phân tích mẫu nước ao nuôi cá tra thâm canh có sử dụng chế phẩm sinh học. 
- Phân tích mẫu nước ao nuôi cá tra thâm canh không sử dụng chế phẩm sinh 
học. 
PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version 
 3
CHƯƠNG 2 
LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU 
2.1. Sơ lược đặc điểm sinh học của cá tra (Pangasianodon hypophthalmus) 
Cá tra phân bố chủ yếu lưu vực sông Mê kông, có mặt ở cả 4 nước Lào, Việt 
Nam, Campuchia và Thái lan. Ở Việt Nam, cá tra được nuôi thương phẩm nhiều 
ở các tỉnh An Giang, Đồng Tháp, Cần Thơ, Vĩnh Long, Trà Vinh,...(Ferguson et 
al., 2001). 
Cá tra sống chủ yếu trong nước ngọt, có thể sống được ở vùng nước lợ nhạt 
(nồng độ muối dưới 10‰), chịu đựng được nước phèn với pH > 4. Cá có cơ quan 
hô hấp phụ, có thể hô hấp bằng bóng khí nên chịu đựng được môi trường nước 
có nồng độ oxy hòa tan thấp. Do đó cá tra có thể nuôi trong các mô hình nuôi 
khác nhau ở mật độ cao hơn các loài thủy sản khác (Ali et al., 2005). 
Cá tra lớn nhanh trong ao nuôi. Sau 6 tháng nuôi, cá đạt trọng lượng 1-1,2kg/con. 
Là loài cá ăn tạp, thích ăn mồi có nguồn gốc động vật, có thể ăn được nhiều loại 
thức ăn từ các phụ phế phẩm cho đến các loại thức ăn viên công nghiệp hoặc tự 
chế theo công thức 70,2% cám : 29,8% cá tạp (Huỳnh Thị Tú và ctv, 2006). 
2.2. Tình hình nuôi cá tra trong và ngoài nước 
2.2.1. Trong nước 
Lợi dụng đặc tính cá tra có thể sống trong môi trường có oxy thấp và ăn được 
thức ăn công nghiệp mà người dân có thể nuôi cá tra với các mô hình khác nhau 
như nuôi trong ao, nuôi đăng quầng và nuôi bè ở mật độ cao tùy theo mô hình 
nuôi và đã mang lại hiệu quả kinh tế cao, bằng chứng là sản lượng tăng nhanh 
vượt bật trong 10 năm trở lại đây, tổng sản lượng của cá tra nuôi trong năm 2002 
là 150.000 tấn thì đến năm 2005 là 500.000 tấn (Dương Nhật Long, 2006) và đến 
cuối năm 2006 tổng sản lượng cá tra toàn quốc lên đến khoảng 825.000 tấn (Hà 
Văn, 2007). 
Số liệu đã chứng minh rằng cá tra là đối tượng quan trọng để phát triển nền kinh 
tế của đất nước và để phát triển một cách bền vững, Bộ Thủy sản đã đưa vào thử 
nghiệm mô hình nuôi cá tra sạch. Bước đầu mang lại hiệu quả có ý nghĩa thực 
tiển và nghề nuôi cá tra hứa hẹn sự phát triển hơn nữa trong tương lai. 
2.2.2. Ngoài nước 
Hiện nay, cá tra cũng là đối tượng nuôi kinh tế quan trọng của một số quốc gia 
như Thái Lan, Campuchia, Lào, Indonesia, Malaysia, Trung Quốc, Bangladesh... 
với nhiều mô hình nuôi khác nhau đã mang lại hiệu quả thiết thực. Trong số đó 
PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version 
 4
Thái lan là quốc gia có sản lượng nuôi cá tra tương đối lớn đứng sau Việt Nam, 
còn ở Bangladesh với mô hình nuôi cá tra vùng nông thôn cho sản lượng từ 5,0-
8,5 tấn/ha/năm. Bangladesh ngày càng chú trọng hơn việc cải tiến mô hình nuôi 
nhằm đạt được sản lượng cao, tốc độ tăng trưởng nhanh, hiệu quả cao. Tuy 
nhiên, thì dịch bệnh thường xuyên xảy ra trong quá trình nuôi và đặc biệt là các 
bệnh gan thận mủ, xuất huyết, trắng da trắng mang...do vi khuẩn gây ra. Đó là 
một trong số các nguyên nhân làm giảm về sản lượng và chất lượng của cá tra 
nuôi (Ahmed et al., 2007). 
2.3. Một số bệnh thường gặp trên cá tra 
Song song với sự tăng sản lượng không ngừng thì tình hình dịch bệnh thường 
xuyên xảy ra và ngày càng phức tạp hơn như bệnh do ký sinh trùng; bệnh đốm 
đỏ, bệnh trắng da, phù đầu phù mắt, bệnh gan thận mủ... do vi khuẩn Aeromonas, 
Edwardsiella ictaluri, Pseudomonas và Vibrio gây ra. Gây thiệt hại nghiêm trọng 
cho nghề nuôi cá tra vùng Đồng bằng sông Cửu Long (Từ Thanh Dung, 2008). 
2.4. Đặc điểm gây bệnh của vi khuẩn Aeromonas, Edwardsiella ictaluri, 
Pseudomonas và Vibrio trên động vật thủy sản 
2.4.1. Vi khuẩn Aeromonas 
2.4.1.1. Đặc điểm chung 
Aeromonas là vi khuẩn thuộc họ Vibrionaceae, là nhóm vi khuẩn gram âm, hình 
que có kích thước 0,3-1,0 x 1,0-4,0 mm, di động được nhờ roi ở cực thể. Phản 
ứng lên men và oxy hóa đường, oxidase, catalase dương tính và kháng với O/129 
(Inglis et al., 1993). Aeromonas được tìm thấy trong nước các ao hồ nuôi và 
những ao ngoài tự nhiên (Swann et al., 1989). 
Vi khuẩn Aeromonas phát triển tốt trên môi trường thạch TSA (pH = 7,1-7,2) 
trong 24 giờ ở 28°C (Huys et al., 2003) và môi trường Aeromonas agar ở nhiệt 
độ 28-30°C, khuẩn lạc của một số loài có sắc tố màu vàng, kích thước cũng thay 
đổi theo loài (Moro et al., 1999). Riêng Aeromonas hydrophila trên môi trường 
Rimler-Shotts khuẩn lạc có màu vàng da cam, kích thước từ 2-3 mm (Inglis et 
al., 1993). 
2.4.1.2. Phổ loài cảm nhiễm và dấu hiệu bệnh lý 
Theo nghiên cứu của Swann et al (1989) cho rằng vi khuẩn Aeromonas sống 
được ở môi trường ngọt, lợ, mặn vì thế chúng có thể gây ra bệnh trên một số loài 
cá nước ngọt, cũng như cá da trơn, cá biển và cả cá cảnh như bệnh nhiễm trùng 
máu (Motile Aeromonas Septicemia-MAS), bệnh lở loét (Ulcer Disease)... gây ra 
thiệt hại nghiêm trọng cho nghề nuôi thủy sản. 
PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version 
 5
Đặc điểm bệnh do Aeromonas gây ra là làm cho động vật bị bệnh xuất huyết, 
hình thành các vết đỏ trên cơ thể, lở loét ở da và các vết loét này ngày càng lan 
rộng ra trên bề mặt da, các cơ quan hoặc ăn sâu vào bên trong cấu trúc mô. Tùy 
vào đối tượng nuôi, nhóm vi khuẩn gây bệnh và giai đoạn bệnh mà có những 
biểu hiện bệnh lý không giống nhau (Inglis et al., 1993). 
Theo Bergey (1974) bệnh đốm đỏ còn gọi là bệnh xuất huyết, bệnh nhiễm trùng 
máu, bệnh sởi…là do vi khuẩn Aeromonas hydrophila gây ra (Trích dẫn bởi Từ 
Thanh Dung, 2008). Aeromonas hydrophila được xem là đối tượng gây bệnh 
nguy hiểm cho các loài cá nước ngọt đặc biệt là cá tra. Thật vậy, theo nghiên 
cứu của Ferguson et al (2001) trên cá tra nuôi thâm canh trong ao tại khu vực 
Đồng bằng sông Cửu Long cũng có những dấu hiệu xuất huyết, lồi mắt, gan tái 
nhạt do A. hydrophila gây ra (hình 2.1). 
A. hydrophila là vi khuẩn gây bệnh có phổ loài cảm nhiễm rộng, gây bệnh trên 
các đối tượng nuôi khác nhau và ở các điều kiện khác nhau. Theo Nguyễn 
Chung (2008), A. hydrophila gây bệnh lở loét trên cá bống tượng (Oxyeleotris 
marmorata) tỷ lệ chết có thể lên đến 90% khi các điều kiện môi trường bất lợi 
cho vật nuôi. Ngoài ra, Bùi Quang Tề (2002) cho rằng A. hydrophila gây bệnh 
viêm ruột (đốm đỏ) trên cá trắm cỏ (Ctenopharyngodon idellus) làm hoại tử ruột 
và vết loét ăn sâu vào cơ, tỷ lệ tử vong lên đến 70%. 
Ngoài các loại cá nuôi kinh tế cao có giá trị xuất khẩu như cá tra, cá bống tượng, 
cá trắm cỏ thì A. hydrophila còn gây bệnh xuất huyết ở bụng và chân, quẹo cổ, 
mù mắt, chân bại liệt…trên ếch Thái Lan (Rana tigerina) (Trần Hồng Thủy, 
2007) và một số đối tượng nuôi kinh tế khác như cá chép, cá mè, cá trôi, cá tai 
tượng nuôi trong ao; cá mè nuôi bè; kể cả giáp xác như bệnh đốm nâu ở tôm 
càng xanh ở Việt Nam (Đỗ Thị Hòa và ctv, 2005), cá rô phi đỏ (Oreochomis 
niloticus), cá nheo mỹ (Ictalurus punctatus)... A. hydrophila là một trong số các 
Hình 2.1: Cá tra bệnh xuất huyết do vi khuẩn A. hydrophila 
(Nguồn: Crumlish, 2007) 
PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version 
 6
tác nhân cơ hội, nhưng đóng vai trò rất quan trọng gây ra hội chứng lở loét 
(Epizootic Ulcerative Symdrome- EUS) trên cá lóc (Channa striata). 
Năm 2002, khi Řehulka nghiên cứu về tác nhân gây bệnh lở loét trên da cá hồi 
(Oncorhynchus mykiss) đã phân lập được vi khuẩn Aeromonas sobria và 
Aeromonas caviae trên các mẫu cá bệnh với các triệu chứng lở loét ở da, lồi mắt, 
bụng đầy dịch, bong bóng hơi và gan bị xuất huyết nghiêm trọng. Còn theo Bùi 
Quang Tề (2002) khi phân lập mẫu bệnh đốm đỏ trên cá trắm cỏ cũng thấy sự 
hiện diện của Aeromonas caviae với tỷ lệ 25% trong số các loài vi khuẩn gây 
bệnh thuộc giống Aeromonas. 
Ngoài các tác nhân Aeromonas spp kết hợp với Aeromonas punctala gây bệnh 
xuất huyết ở cá kèo (Pseudapocryptes elongatus) gây tỷ lệ chết cao, đặc biệt là ở 
giai đoạn cá nhỏ (Nguyễn Chung, 2008). 
Trong ao nuôi khi môi trường nước gặp bất lợi như chất lượng nước xấu, hàm 
lượng oxy thấp, hàm lượng CO2 và NO2 cao sẽ tạo điều kiện rất thuận lợi cho sự 
phát triển và tăng độc lực của nhóm vi khuẩn Aeromonas gây bệnh cho cá nuôi 
(Swann et al., 1989). 
2.4.2. Vi khuẩn Edwardsiella ictaluri 
2.4.2.1. Đặc điểm chung 
Edwardsiella ictaluri là vi khuẩn gram âm, que ngắn, kích thước khoảng 
0,75x1,5mm, thuộc nhóm Enterobacteriaceae di động yếu ở 25°C, không di 
động ở 35°C. Catalase dương tính, âm tính với oxidase và indole. Không sinh 
H2S nhưng có khả năng lên men đường glucose, sinh gas ở 20-30°C nhưng ở 
37°C thì không có hiện tượng sinh gas (Keskin et al., 2002; Hawke et al., 1981 
trích dẫn bởi Inglis et al., 1993). 
Theo Shotts et al (1990) thì Edwardsiella ictaluri phát triển tốt trên môi trường 
chọn lọc Edwardsiella ictaluri medium (EIM) (pH=7,0-7,2) sau 48 giờ ở nhiệt 
độ 28-30°C. Khuẩn lạc có dạng nhỏ li ti, không trong suốt, có kích thước 0,5-1,0 
mm. Còn theo Crumlish et al (2002), khi phân lập vi khuẩn Edwardsiella ictaluri 
gây bệnh trên cá tra ở Việt Nam bằng môi trường TSA sau 48 giờ ở 28°C cho 
thấy khuẩn lạc có dạng pinpoint (nhỏ li ti) có rìa xung quanh, màu trắng nhạt, 
kích thước từ 0,11-0,17 mm. Phát triển rất yếu trong môi trường thạch ở 37°C 
(Keskin et al., 2002). 
Theo Plumb (1999), Edwardsiella ictaluri tồn tại nhiều trong môi trường nước 
(ao nuôi, hồ) và trong lớp bùn đáy ao. Tuy nhiên, còn phụ thuộc rất lớn vào điều 
kiện nhiệt độ của môi trường nước, khi nhiệt độ nước ở 5°C thì vi khuẩn có thể 
tồn tại trong ao khoảng 15 ngày nhưng ở 25°C thời gian tồn tại của chúng trong 
PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version 
 7
nước chỉ trong khoảng 10 ngày. Còn khi ở trong lớp bùn đáy ao thì 
Edwardsiella ictaluri có thể tồn tại 15 ngày ở 5°C, 45 ngày ở 18°C và ở 25°C có 
thể sống 95 ngày (Trích dẫn bởi Huỳnh Thị Phượng Quyên, 2008). 
2.4.2.2. Phổ loài cảm nhiễm và dấu hiệu bệnh lý 
Edwardsiella ictaluri lần đầu tiên được phân lập bởi Hawke (1979) trên cá nheo 
Mỹ (Ictalurus punctatus), sau đó Austin & Austin (1987) phát hiện 
Edwardsiella ictaluri gây bệnh nhiễm trùng máu (enteric septicemia of catfish- 
ESC) cấp tính cũng ở đối tượng cá nheo Mỹ (Plumb et al., 1995). Tuy nhiên, 
khả năng gây hại của Edwardsiella ictaluri trên cá nheo Mỹ phụ thuộc vào nhiệt 
độ môi trường nước, ở 18°C gây chết 10% nhưng ở 25°C tỷ lệ tử vong lên đến 
77%, trái lại ở 30°C chỉ là 23%. Trên cá nheo Mỹ, Edwardsiella ictaluri gây ra 
các dấu hiệu bệnh lý như bên ngoài có hiện tượng xuất huyết trên da ở thân, 
mang, bụng và hàm dưới, những tổn thương màu đỏ xuất hiện trên da, lan rộng 
ra ở các giai đoạn sau của bệnh, phòng mang, lồi mắt, bệnh mãn tính vết loét mở 
rộng ra các cơ quan ở phần đầu giữa 2 mắt gây tỷ lệ tử vong cao (Plumb et al., 
1995). 
Bên cạnh cá nheo Mỹ (Ictalurus punctatus) thì Edwardsiella ictaluri cũng gây 
bệnh trên một số loài cá cùng giống như cá bông lao (I. furcatus), cá sọc ngựa 
lam (Danio devario),...và cá trê trắng (Clarias batrachus) gây thiệt hại lớn về 
kinh tế trong nghề nuôi cá công nghiệp ở Mỹ (Keskin et al., 2002). 
Ở Việt Nam bệnh mủ gan do vi khuẩn Edwardsiella ictaluri gây ra xuất hiện 
đầu tiên vào năm 1998 trên cá tra nuôi tại Đồng bằng sông Cửu Long có tên là 
BNP (bacillary necrosis of pangasius) (Ferguson et al., 2001). Theo Từ Thanh 
Dung và ctv (2003) vi khuẩn Edwardsiella ictaluri gây bệnh trắng gan ở cá tra 
bệnh xảy ra ở tất cả các giai đoạn phát triển của cá tra, nhưng gây thiệt hại lớn 
nhất ở giai đoạn cá cỡ 300-500 g với các dấu hiệu bệnh lý như cá gầy yếu, bơi lờ 
đờ, có hiện tượng xuất huyết dưới da và hậu môn. Bên trong nội quan xuất hiện 
những đốm trắng đường kính 1-3 mm ở gan, thận, tùy tạng và có hiện tượng 
nhũn thận (hình 2.2). Đây là một bệnh gây thiệt hại nghiêm trọng cho các hộ 
nuôi cá tra, basa ở Đồng bằng sông Cửu Long. Tỷ lệ xuất hiện bệnh mủ gan trên 
cá tra khoảng (61%) tuy không cao hơn nhiều so với các bệnh khác như bệnh đỏ 
mỏ đỏ kỳ (68,3%), bệnh phù đầu (51,2%) nhưng tỷ lệ chết cao nhất lên đến 90% 
(Trần Anh Dũng, 2005). Hiện nay ở Đồng bằng sông Cửu Long bệnh gan thận 
mủ xuất hiện hầu như quanh năm, các yếu tố gây sốc cho động vật thủy sản là 
điều kiện cho vi khuẩn Edwardsiella ictaluri phát triển. 
PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version 
 8
Theo Keskin et al (2002) đã phân lập được Edwardsiella ictaluri gây bệnh trên 
cá hồi (Oncorhynchus mykiss) ở Thổ Nhĩ Kỳ với những đặc điểm hình thái sinh 
lý và sinh hóa tương tự nghiên cứu của Từ Thanh Dung và ctv (2003) và Plumb 
et al (2005). 
2.4.3. Vi khuẩn Pseudomonas 
2.4.3.1. Đặc điểm chung 
Inglis et al (1993) cho biết giống Pseudomonas thuộc họ Pseudomonadaceae là 
vi khuẩn gram âm, hình que thẳng hoặc hơi cong, có kích thước 0,5-1,0 x 1,5-
5,0 mm. Di động mạnh bằng một hay nhiều tiên mao, oxidase dương tính, nhưng 
âm tính với vi khuẩn dạng que thẳng. Có thể tạo ra các sắc tố màu vàng-xanh hay 
xanh nhạt, không lên men trong môi trường O/F. Pseudomonas là vi khuẩn rộng 
nhiệt có thể phát triển trong khoảng nhiệt độ thay đổi từ 4-43°C. Chúng có khả 
năng thích ứng rộng, có thể tồn tại được trong nước lẫn bùn ngoài tự nhiên cũng 
như trong ao nuôi và đôi khi được tìm thấy trong các khỏe. Có thể gây bệnh trên 
động vật, thực vật và cả người. 
Vi khuẩn Pseudomonas phát triển tốt trên môi trường Pseudomonas isolation 
agar trong 18-48 giờ ở 33-37°C. 
2.4.3.2. Phổ loài cảm nhiễm và dấu hiệu bệnh lý 
Ba loài gây bệnh chủ yếu ở động vật thủy sản là Pseudomonas fluoresens phân 
bố chủ yếu ở nước ngọt, P. chlororaphis, P. anguilliseptica phân bố chủ yếu ở 
vùng biển (Inglis et al., 1993). Theo Nguyễn Chung (2008) bổ sung thêm các 
loài Pseudomonas spp, P. aeroginosa, P. dermoalba,…cũng gây bệnh trên một 
số đối tượng cá nuôi ở Việt Nam. 
Wakababayshi & Egusa (1972) cho rằng Pseudomonas là tác nhân cơ hội, đặc 
thù trong hầu hết các thủy vực tự nhiên, gây bệnh trên nhiều đối tượng nuôi 
trong thủy sản. Bằng chứng là bệnh đốm đỏ (Red spot disease) trên cá chình 
 Hình 2.2. Cá tra bệnh mủ gan: các đốm trắng trên gan, thân và tùy tạng ( ) 
(Nguồn: Từ Thanh Dung, 2003) 
PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version 
 9
Nhật Bản, giáp xác,… Sau khi phân lập chủ yếu là do P. anguilliseptica, P. 
fluorescens, P. aeroginosa và P. chlororaphis gây ra (Trích dẫn bởi Từ Thanh 
Dung, 2008) 
Thông tin từ  cho rằng trong quá trình nuôi cá tra 
và cá basa ở Đồng bằng sông Cửu Long thường xuyên xuất hiện một số bệnh 
như bệnh đốm đỏ do Pseudomonas fluorescens, P. anguilliseptica, P. 
chlororaphis gây ra hiện tượng xuất huyết từng đốm nhỏ trên da, xung quanh 
miệng và nắp mang, phía mặt bụng, bề mặt cơ thể có thể chảy máu, tuột nhớt 
nhưng không xuất huyết vây và hậu môn. Và bệnh nhiễm khuẩn huyết bởi 
Pseudomonas spp thường xâm nhập vào cơ thể cá qua các thương tổn ở mang, 
da, vẩy để phá hủy tổ chức mô, các chức năng trong cơ thể, có thể gây chết đến 
70-80%. Các tác nhân này tăng thêm độc lực trong môi trường bất lợi cho vật 
nuôi như nhiệt độ biến động mạnh, oxy hòa tan thấp, chất hữu cơ hòa tan cao. 
P. fluorescens thường gây bệnh nhiễm trùng máu trên cá mè trắng 
(Hypophthalmychthys molitrix) dấu hiệu ban đầu là xuất hiện những tổn thương 
bên ngoài cơ thể, ở các giai đoạn sau những tổn thương này biến đổi càng phức 
tạp hơn. Ngoài ra, P. fluorescens còn gây bệnh lở loét trên cá hồi, với các tác 
nhân khác gây ra tỷ lệ chết cao (Từ Thanh Dung, 2008). 
Theo Nguyễn Chung (2008) thì loài Pseudomonas dermoalba gây ra bệnh trắng 
đuôi và bệnh mất nhớt trên cá kèo nuôi ao thương phẩm gây thiệt hại lớn ở các 
giai đoạn nuôi. 
2.4.4. Vi khuẩn Vibrio 
2.4.4.1. Đặc điểm chung 
Vibrio là vi khuẩn gram âm, dạng que hoặc cong (phẩy khuẩn), có kích thước 
tương đương với kích thước của giống Aeromonas vì Vibrio cũng thuộc họ 
Vibrionaceae. Di động, oxidase dương tính, lên men đường glucose, nhạy với 
O/129 (10mg và 150mg) (Inglis et al., 1993). Vi khuẩn được tìm thấy nhiều ở 
môi trường nước lợ và biển. Ion Na+ sẽ kích thích nhóm vi khuẩn này tăng 
trưởng nhanh và là tác nhân chính gây bệnh ở cá, tôm nước lợ hoặc ở biển (Reed 
et al., 1996). 
Nhóm vi khuẩn Vibrio phát tiển tốt trên môi trường