Khóa luận Các biện pháp cắt giảm chi phí của một số doanh nghiệp trên thế giới trong thời kỳ khủng hoảng tài chính đề xuất cho doanh nghiệp Việt Nam

Chúng ta biết rằng khủng hoảng tài chính xuất hiện đầu tiên ở Mỹ rồi lan rộng khắp toàn cầu kéo dài hơn một năm nay đã gây nên rất nhiều khó khăn đối với nền kinh tế khắp các quốc gia trên thế giới. Khủng hoảng tài chính toàn cầu là một vấn đề lớn của xã hội mà dường như ai cũng phải quan tâm đến nó, nhất là những nhà lãnh đạo, nhà phân tích kinh tế, hoạch định chính sách Xung quanh chủ đề về khủng hoảng tài chính sẽ có không biết bao nhiêu vấn đề phải bàn luận như: nguyên nhân của nó ra sao?, khủng hoảng tác động như thế nào?, chúng ta cần làm gì để đối phó với những khó khăn mà khủng hoảng đã gây ra?.Những vấn đề cấp thiết ấy là mối quan tâm của tất cả các quốc gia và Việt Nam cũng không nằm ngoài số đó. Cuộc khủng hoảng tài chính có ảnh hưởng lớn tới nền kinh tế Việt Nam hay không và chính phủ cùng các doanh nghiệp Việt Nam cần làm gì trước những nguy cơ của cuộc khủng hoảng? Bầt kỳ một nhà quản trị nào cũng phải nắm rõ và kiểm soát chặt chẽ mọi hoạt động của công ty trong đó có kiểm soát chi phí. Chi phí gắn liền với mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nên quản lý chi phí tốt vẫn là một bài toán nan giải đối với các nhà quản lý kinh tế. Đặc biệt, trong thời kỳ khủng hoảng như hiện nay, các công ty đều gặp khó khăn về tài chính nên việc quản lý chi phí tốt càng trở nên cấp thiết hơn nữa. Một trong những vấn đề quan tâm hàng đầu của các doanh nghiệp trong việc quản lý chi phí là vấn đề cắt giảm chi phí thời kỳ khủng hoảng này. Xuất phát từ thực tiễn ấy, dưới sự hướng dẫn của cô Nguyễn Thị Tuyết Nhung và được sự đồng ý của khoa Quản trị kinh doanh em đã lựa chọn đề tài: “Các biện pháp cắt giảm chi phí của một số doanh nghiệp trên thế giới trong thời kỳ khủng hoảng tài chính, đề xuất cho doanh nghiệp Việt Nam” làm đề tài cho khóa luận tốt nghiệp của mình với mục đích muốn tìm hiểu về cuộc khủng hoảng tài chính này và các biện pháp cắt giảm chi phí của một số doanh nghiệp trên thế giới trong cơn khủng hoảng, từ đó đưa ra một số kiến nghị, đề xuất cho các doanh nghiệp Việt Nam với hy vọng các doanh nghiệp sẽ cắt giảm chi phí tốt, vượt qua những khó khăn của khủng hoảng tài chính và phát triển bền vững.

pdf91 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 4017 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Các biện pháp cắt giảm chi phí của một số doanh nghiệp trên thế giới trong thời kỳ khủng hoảng tài chính đề xuất cho doanh nghiệp Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH CHUYÊN NGÀNH KINH DOANH QUỐC TẾ --------***-------- KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP Đề tài: CÁC BIỆN PHÁP CẮT GIẢM CHI PHÍ CỦA MỘT SỐ DOANH NGHIỆP TRÊN THẾ GIỚI TRONG THỜI KỲ KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH ĐỀ XUẤT CHO DOANH NGHIỆP VIỆT NAM Sinh viên thực hiện : Nguyễn Thị Mai Lớp : Anh 3 Khoá : 44 Giáo viên hướng dẫn : ThS. Nguyễn Thị Tuyết Nhung Hà Nội, 05/2009 11 LỜI MỞ ĐẦU Chúng ta biết rằng khủng hoảng tài chính xuất hiện đầu tiên ở Mỹ rồi lan rộng khắp toàn cầu kéo dài hơn một năm nay đã gây nên rất nhiều khó khăn đối với nền kinh tế khắp các quốc gia trên thế giới. Khủng hoảng tài chính toàn cầu là một vấn đề lớn của xã hội mà dường như ai cũng phải quan tâm đến nó, nhất là những nhà lãnh đạo, nhà phân tích kinh tế, hoạch định chính sách…Xung quanh chủ đề về khủng hoảng tài chính sẽ có không biết bao nhiêu vấn đề phải bàn luận như: nguyên nhân của nó ra sao?, khủng hoảng tác động như thế nào?, chúng ta cần làm gì để đối phó với những khó khăn mà khủng hoảng đã gây ra?...Những vấn đề cấp thiết ấy là mối quan tâm của tất cả các quốc gia và Việt Nam cũng không nằm ngoài số đó. Cuộc khủng hoảng tài chính có ảnh hưởng lớn tới nền kinh tế Việt Nam hay không và chính phủ cùng các doanh nghiệp Việt Nam cần làm gì trước những nguy cơ của cuộc khủng hoảng? Bầt kỳ một nhà quản trị nào cũng phải nắm rõ và kiểm soát chặt chẽ mọi hoạt động của công ty trong đó có kiểm soát chi phí. Chi phí gắn liền với mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nên quản lý chi phí tốt vẫn là một bài toán nan giải đối với các nhà quản lý kinh tế. Đặc biệt, trong thời kỳ khủng hoảng như hiện nay, các công ty đều gặp khó khăn về tài chính nên việc quản lý chi phí tốt càng trở nên cấp thiết hơn nữa. Một trong những vấn đề quan tâm hàng đầu của các doanh nghiệp trong việc quản lý chi phí là vấn đề cắt giảm chi phí thời kỳ khủng hoảng này. Xuất phát từ thực tiễn ấy, dưới sự hướng dẫn của cô Nguyễn Thị Tuyết Nhung và được sự đồng ý của khoa Quản trị kinh doanh em đã lựa chọn đề tài: “Các biện pháp cắt giảm chi phí của một số doanh nghiệp trên thế giới trong thời kỳ khủng hoảng tài chính, đề xuất cho doanh nghiệp Việt Nam” làm đề tài cho khóa luận tốt nghiệp của mình với mục đích muốn tìm hiểu về cuộc khủng hoảng tài chính này và các biện pháp cắt giảm chi phí của một số doanh nghiệp trên thế giới trong cơn khủng hoảng, từ đó đưa ra một số kiến nghị, đề xuất cho các doanh nghiệp Việt Nam với hy vọng các doanh nghiệp sẽ cắt giảm chi phí tốt, vượt qua những khó khăn của khủng hoảng tài chính và phát triển bền vững. 22 *Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài: Các biện pháp cắt giảm chi phí của một số doanh nghiệp trên thế giới trong thời kỳ khủng hoảng tài chính, đưa ra đề xuất cho doanh nghiệp Việt Nam. *Phương pháp nghiên cứu: - Thu thập thông tin, số liệu - Phân tích, đánh giá, so sánh, tổng hợp *Kết cấu của khoá luận : Ngoài lời mở đầu, kết luận, nội dung của khoá luận được chia làm 3 chương. - Chương I: Những lý luận chung về chi phí và quản lý chi phí trong doanh nghiệp - Chương II: Khủng hoảng tài chính toàn cầu và các biện pháp cắt giảm chi phí của một số doanh nghiệp trên thế giới - Chương III: Giải pháp và định huớng cho các doanh nghiệp Việt Nam trong việc cắt giảm chi phí Nhân đây, cho phép em được gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến cô Nguyễn Thị Tuyết Nhung đã tận tình hướng dẫn em khoá luận tốt nghiệp này. Em cũng xin cảm ơn khoa Quản trị Kinh doanh, Ban giám hiệu nhà trường cùng tất cả các thầy cô giáo dạy dỗ em suốt 4 năm học qua đã tạo cho em những điều kiện học tập, nghiên cứu tốt nhất! Hà Nội, ngày 2/4/2009 Sinh viên: Nguyễn Thị Mai 33 CHƢƠNG I CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHI PHÍ VÀ QUẢN LÝ CHI PHÍ TRONG DOANH NGHIỆP I.Tổng quan về chi phí trong doanh nghiệp 1. Khái niệm chi phí Theo chuẩn mực kế toán Việt Nam, chuẩn mực số 01- chuẩn mực chung, chi phí được định nghĩa như sau: Chi phí: Là tổng giá trị các khoản làm giảm lợi ích kinh tế trong kỳ kế toán dưới hình thức các khoản tiền chi ra, các khoản khấu trừ tài sản hoặc phát sinh nợ dẫn đến làm giảm vốn chủ sở hữu, không bao gồm khoản phân phối cho cổ đông hoặc chủ sở hữu. Từ định nghĩa như vậy, có thể thấy ngay kiểm soát và tiết kiệm chi phí tốt sẽ đem lại nhiều lợi ích cho doanh nghiệp. Chi phí là một trong những thông tin quan trọng hàng đầu trong quá trình tổ chức điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh của các nhà quản trị và đứng trên giác độ kế toán, các thông tin mà các nhà quản trị cần hầu hết liên quan đến chi phí. Dưới góc độ quản lý hay dưới góc độ kế toán quản trị, chi phí không đơn giản được nhận thức theo quan điểm của kế toán như trên, mà nó được nhìn nhận theo nhiều phương diện khác nhau để đáp ứng thông tin một cách toàn diện nhất cho các nhà quản trị trong việc hoạch định, kiếm soát và ra quyết định. Theo đó, chi phí có thể là những phí tổn thực tế phát sinh gắn liền với hoạt động sản xuất kinh doanh hàng ngày của doanh nghiệp, chi phí cũng có thể là những phí tổn ước tính để thực hiện một dự án hoặc những lợi nhuận mất đi do lựa chọn phương án, hy sinh cơ hội kinh doanh. 2. Phân loại chi phí Về mặt lý thuyết, có nhiều tiêu thức khác nhau để phân loại chi phí, mỗi tiêu thức đều có ý nghĩa khác nhau đối với quá trình quản trị doanh nghiệp. 44 2.1 Phân loại chi phí theo cách ứng xử của chi phí Theo cách phân loại này, căn cứ vào mối quan hệ của chi phí và kết quả sản xuất kinh doanh, chi phí được chia thành hai dạng cơ bản: * Chi phí biến đổi hay còn gọi là biến phí là các khoản chi phí thường tỷ lệ thuận với kết quả sản xuất hay quy mô hoạt động, ví dụ như chi phí nguyên vật liệu chính dùng để sản xuất ra sản phẩm…. Chi phí biến đổi có đặc điểm là tỷ lệ thuận với khối lượng sản phẩm sản xuất, nhưng khi tính cho một đơn vị kết quả thì cố định. Do vậy để kiểm soát các chi phí biến đổi các nhà quản trị doanh nghiệp thường xây dựng mức chi phí biến đổi cho mỗi đơn vị kết quả sản xuất. Tổng biến phí Biến phí đơn vị Y=ax Y=ax Mức độ hoạt động Mức độ hoạt động - Chi phí biến đổi của doanh nghiệp có thể chia làm hai dạng: chi phí biến đổi tuyến tính và chi phí biến đổi cấp bậc. + Chi phí biến đổi tuyến tính đó là các khoản chi phí biến đổi hoàn toàn tỷ lệ thuận với kết quả sản xuất, ví dụ như chi phí nguyên vật liệu chính dùng để sản xuất hoặc hoa hồng cho người bán hàng được tính theo tỷ lệ doanh thu. Do đó, việc hoạch định, xây dựng và hoàn thiện định mức biến phí tuyệt đối sẽ là tiền đề tiết kiệm, kiểm soát chi phí một cách chặt chẽ hơn. + Chi phí biến đổi cấp bậc đó là các khoản chi phí cũng thay đổi nhưng gắn với phạm vi và quy mô hoạt động của công ty, ví dụ như chi phí vật liệu phụ để bảo dưỡng máy móc, thiết bị. Những chi phí này cũng thay đổi tỷ lệ thuận với mức độ hoạt động của doanh nghiệp nhưng chúng chỉ thay đổi khi quy mô sản xuất, mức độ hoạt động của máy móc thiết bị đạt đến một phạm vi nhất định. 55 * Chi phí cố định hay còn gọi là định phí đó là các khoản chi phí thường không thay đổi trong phạm vi giới hạn của quy mô hoạt động Chi phí cố định có đặc điểm là xét trong giới hạn của quy mô hoạt động thì tổng chi phí không thay đổi, nhưng trong giới hạn đó mà sản lượng sản phẩm sản xuất thay đổi thì chi phí cố định tính cho một đơn vị sản phẩm thay đổi. Định phí tính trên một đơn vị mức độ hoạt động (sản phẩm) tỷ lệ nghịch với mức độ hoạt động: mức độ hoạt động càng cao thì định phí cho một đơn vị hoạt động càng thấp. Như vậy, dù doanh nghiệp có hoạt động hay không hoạt động thì định phí vẫn tồn tại. Do vậy các nhà quản trị doanh nghiệp muốn giảm chi phí cần khai thác hết công suất của các tài sản cố định đã đầu tư vì hầu như các tài sản cố định đều tạo ra các khoản chi phí cố định. Tổng định phí Định phí đơn Y=a Y=b/x Mức độ hoạt động Mức độ hoạt động Chi phí cố định của doanh nghiệp có thể chia làm hai dạng là định phí thuộc tính và định phí bắt buộc. - Định phí thuộc tính đó là các khoản chi phí cố định thường gắn với hoạt động của các bộ phận trong tổ chức doanh nghiệp, ví dụ như chi phí thuê nhà xưởng của các phân xưởng, chi phí quảng cáo, nghiên cứu, giao dịch,…Do vậy, khi các bộ phận không tồn tại thì các định phí thuộc tính cũng mất đi. - Định phí bắt buộc là các khoản chi phí thường gắn với cấu trúc của một tổ chức kinh tế, do vậy khi các bộ phận không tồn tại thì định phí bắt buộc vẫn phát sinh, ví dụ như tiền thuê văn phòng hoạt động của doanh nghiệp. Định phí bắt buộc có hai đặc điểm cơ bản: + Chúng tồn tại lâu dài trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. + Chúng không thể cắt giảm đến bằng không trong một thời gian ngắn. 66 Các nhà quản trị muốn kiểm soát các khoản chi phí cố định thường căn cứ vào mức độ hoạt động của quy mô hoạt động và công suất của các tài sản đang sử dụng. * Chi phí hỗn hợp đó là các khoản chi phí bao gồm cả yếu tố biến phí và định phí. Thường ở mức độ hoạt động căn bản thì chi phí hỗn hợp thể hiện định phí, khi vượt khỏi mức độ hoạt động căn bản thì chi phí hỗn hợp bao gồm cả biến phí. Trong thực tế hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, chi phí hỗn hợp thường thể hiện như chi phí sản xuất chung, chi phí sử dụng máy móc, chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp. Việc phân loại chi phí theo cách ứng xử giúp doanh nghiệp: - Doanh nghiệp thiết kế, xây dựng các mô hình chi phí trong mối quan hệ giữa chi phí - khối lượng - lợi nhuận. - Phân tích chi phí, phân tích điểm hoà vốn để đưa ra quyết định kinh doanh phù hợp. - Xác định đúng đắn phương hướng sử dụng và nâng cao hiệu quả sử dụng các loại chi phí. 2.2 Phân loại chi phí theo chức năng hoạt động 2.2.1 Chi phí sản xuất và tiêu thụ sản phẩm 2.2.1.1 Chi phí sản xuất của doanh nghiệp Trong quá trình sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp phải tiêu hao các loại vật tư, nguyên vật liệu, hao mòn máy móc thiết bị,trả công cho người lao động,…Do vậy,có thể hiểu chi phí sản xuất của doanh nghiệp là biều hiện bằng tiền của tất cả hao phí về vật chất và về lao động mà doanh nghiệp phải bỏ ra để sản xuất sản phẩm trong một thời kỳ nhất định. Các chi phí này phát sinh có tính thường xuyên và gắn liền với quá trình sản xuất sản phẩm. Do đặc điểm của chi phí sản xuất là chi phí hàng ngày của doanh nghiệp gắn liền với từng vị trí sản xuất,từng loại sản phẩm và từng loại hoạt động sản xuất-kinh doanh, việc tổng hợp, tính toán chi phí sản xuất cần được tiến hành trong từng khoảng thời gian nhất định, không phân biệt các sản phẩm để sản xuất đã hoàn thành hay chưa hoàn thành. Để quản lý và kiểm tra chặt chẽ việc thực hiện các định mức chi phí, tính toán được kết quả tiết kiệm chi 77 phí ở từng bộ phận sản xuất và toàn doanh nghiệp, kiểm tra và phân tích quá trình phát sinh chi phí và hình thành giá thành sản phẩm người ta cần phân loại chi phí sản xuất. Thông thường người ta sử dụng một số cách thức phân loại chi phí như sau: Thứ nhất: Phân loại chi phí sản xuất theo yếu tố, tức là sắp xếp các chi phí có cùng tính chất kinh tế vào một loại, mỗi loại là một yếu tố chi phí sản xuất bao gồm 3 nhóm yểu tố sau: + Chi phí vật tư + Lương nhân công trực tiếp + Chi phí sản xuất chung Thứ hai: Phân loại chi phí sản xuất theo khoản mục tính giá thành. Cách phân loại này dựa vào công dụng kinh tế và địa điểm phát sinh của chi phí để sắp xếp chi phí thành những khoản mục nhất định, qua đó, phân tích tác động của từng khoản mục chi phí đến giá thành. Thứ ba: Phân loại chi phí sản xuất thành chi phí cố định và chi phí biến đổi. Phân loại chi phí theo cách này để có phương thức quản lý phù hợp với từng loại chi phí. Để quản lý tốt chi phí, ngoài phân loại chi phí, các doanh nghiệp cần phải xem xét cơ cấu chi phí sản xuất để định hướng thay đổi tỷ trọng mỗi loại chi phí sản xuất. Cơ cấu chi phí sản xuất là tỷ trọng giữa các yếu tố chi phí trong tổng số chi phí sản xuất. Các doanh nghiệp trong cùng một ngành và giữa các ngành khác nhau có cơ cấu chi phí sản xuất khác nhau. Cơ cấu chi phí sản xuất chịu tác động của nhiều nhân tố như: loại hình và quy mô sản xuất của từng doanh nghiệp, trình độ kỹ thuật, trang thiết bị, điều kiện tự nhiên, công tác tổ chức, năng lực quản lý, trình độ tay nghề của công nhân… Nghiên cứu cơ cấu chi phí sản xuất nhằm: - Xác định tỷ trọng và xu hướng thay đổi của từng yếu tố chi phí sản xuất. - Kiểm tra giá thành sản phẩm và có biện pháp hạ gia thành sản phẩm. 2.2.1.2 Chi phí tiêu thụ sản phẩm Đối với các doanh nghiệp, tiêu thụ sản phẩm là hết sức quan trọng. Khối lượng sản phẩm hàng hoá tiêu thụ ảnh hưởng quyết định tới quy mô sản xuất kinh 88 doanh của doanh nghiệp. Để thực hiện tiêu thụ sản phẩm, doanh nghiệp cũng phải bỏ ra những chi phí nhất định. Chi phí lưu thông sản phẩm bao gồm: Chi phí trực tiếp tiêu thụ sản phẩm, chi phí hỗ trợ marketing và phát triển. Chi phí trực tiếp tiêu thụ sản phẩm bao gồm: Chi phí chọn lọc, đóng gói; chi phí bao bì, vận chuyển, bảo quản, chi phí thuê kho, bến bãi… Chi phí hỗ trợ marketing và phát triển bao gồm: Chi phí điều tra nghiên cứu thị trường, chi phí quảng cáo, giới thiệu sản phẩm; chi phí bảo hành sản phẩm…Tỷ trọng của chi phí có xu hướng tăng trong điều kiện nền kinh tế thị trường phát triển. 2.2.1.3 Giá thành sản phẩm Nghiên cứu chi phí sản xuất và tiêu thụ sản phẩm chưa cho biết lượng chi phí cần thiết để hoàn thành sản xuất và tiêu thụ một loại sản phẩm hoặc một đơn vị sản phẩm nhất định. Mặt khác, trong hoạt động kinh doanh, khi quyết định lựa chọn phương án kinh doanh một loại sản phẩm nào đó, doanh nghiệp cần phải tính đến lượng chi phí bỏ ra để sản xuất và tiêu thụ một sản phẩm hoặc khối lượng sản phẩm đó. Do vậy, doanh nghiệp cần xác định giá thành của sản phẩm. Giá thành sản phẩm là biểu hiện bằng tiền toàn bộ chi phí của doanh nghiệp bỏ ra để hoàn thành việc sản xuất hoặc để sản xuất và tiêu thụ một loại sản phẩm nhất định. Giữa giá thành sản phẩm và chi phí sản xuất có sự giống nhau và khác nhau: chi phí sản xuất hợp thành giá thành sản phẩm nhưng không phải toàn bộ chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ đều được tính vào giá thành sản phẩm trong kỳ. Giá thành sản phẩm phản ánh lượng chi phí để hoàn thành sản xuất hoặc sản xuất và tiêu thụ 1 đơn vị hay khối lượng sản phẩm nhất định còn chi phí sản xuất và lưu thông sản phẩm thể hiện số chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra để sản xuất và tiêu thụ sản phẩm trong một thời kỳ nhất định, thời kỳ này thường là một năm. Trong phạm vi sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, có thể phân biệt giá thành sản xuất sản phẩm và giá thành tiêu thụ sản phẩm. Giá thành sản xuất sản phẩm (đối với sản phẩm xây dựng là giá thành thi công) bao gồm toàn bộ chi phí bỏ ra để hoàn thành việc sản xuất sản phẩm. Giá thành tiêu thụ sản phẩm còn gọi là giá thành toàn 99 bộ sản phẩm bao gồm toàn bộ chi phí để hoàn thành cả sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Trên giác độ kế hoạch hoá, giá thành sản phẩm của doanh nghiệp được phân biệt thành giá thành kế hoạch và giá thành thực tế. Các doanh nghiệp hoạt động luôn phải quan tâm tới giảm chi phí, hạ giá thành sản phẩm. Hạ giá thành sản phẩm là điều kiện căn bản để doanh nghiệp thực hiện tốt tiêu thụ sản phẩm, doanh nghiệp có thể hạ giá bán để tiêu thụ sản phẩm và thu hồi vốn nhanh. Đồng thời, hạ giá thành là yếu tố cơ bản để tăng lợi nhuận. Hạ giá thành sản phẩm trong kỳ được xác định cho những sản phẩm so sánh được thông qua hai chỉ tiêu: Mức giảm giá thành và tỷ lệ hạ giá thành sản phẩm. Riêng đối với sản phẩm xây dựng cơ bản, người ta chỉ so sánh giá thành thực tế với giá thành kế hoạch hoặc giá thành dự toán của khối lượng sản phẩm trong cùng một kỳ. Các nhân tố ảnh hưởng tới chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm doanh nghiệp: - Sự tiến bộ của khoa học - kỹ thuật và công nghệ - Tổ chức lao động khoa học và chiến lược sử dụng lao động - Tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh và quản lý tài chính 2.2.2 Chi phí hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp Chi phí hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bao gồm các chi phí có liên quan đến quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đây cũng là một cách tiếp cận phổ biến trong nền kinh tế thị trường. Dựa vào tính chất các yếu tố chi phí: chi phí hoạt động kinh doanh được chia thành các loại sau: - Chi phí nguyên vật liệu, nhiên liệu, động lực (gọi tắt là chi phí vật tư) - Chi phí vật tư phụ thuộc vào hai yếu tố là mức tiêu hao vật tư và giá vật tư. - Chi phí khấu hao tài sản cố định (KHTSCĐ) Chi phí KHTSCĐ được xác định dựa vào nguyên giá TSCĐ cần tính khấu hao và tỷ lệ KHTSCĐ. - Chi phí tiền lương và các khoản phụ cấp có tính chất tiền lương. - Chi phí bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và kinh phí công đoàn. 1010 - Chi phí dịch vụ mua ngoài. - Thuế và các chi phí khác. Dựa vào nội dung các yếu tố chi phí: Chi phí hoạt động kinh doanh được chia thành các khoản mục chi phí trực tiếp và chi phí gián tiếp. Chi phí sản xuất trực tiếp bao gồm: - Chi phí vật tư trực tiếp - Chi phí nhân công trực tiếp - Chi phí sản xuất chung * Giá thành sản xuất Giá thành sản xuất = Chi phí sản xuất + Chênh lệch sản phẩm dở dang Chênh lệch sản phẩm dở dang = Sản phẩm dở dang đầu kỳ - Sản phẩm dở dang cuối kỳ * Giá vốn hàng bán Giá vốn hàng bán = Giá thành sản xuất + chênh lệch thành phẩm tồn kho Chênh lệch thành phẩm tồn kho = Thành phẩm tồn kho đầu kỳ - Thành phẩm tồn kho cuối kỳ Riêng đối với doanh nghiệp thương mại: Giá vốn hàng bán = Giá vốn hàng mua + Chênh lệch hàng hoá tồn kho Chênh lệch hàng hoá tồn kho = Hàng hoá tồn kho đầu kỳ - Hàng hoá tồn kho cuối kỳ * Chi phí bán hàng: Gồm các chi phí phát sinh trong quá trình tiêu thụ sản phẩm hàng hoá và dịch vụ như tiền lương, các khoản phụ cấp phải trả cho nhân viên bán hàng, tiếp thị, đóng gói, bảo quản, khấu hao TSCĐ, chi phí vật liệu, bao bì, dụng cụ, đồ dùng, chi phí dịch vụ mua ngoài, chi phí bảo hành, quảng cáo. * Chi phí quản lý doanh nghiệp: Gồm các chi phí quản lý kinh doanh, quản lý hành chính và các chi phí chung khác có liên quan tới toàn bộ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp như: tiền lương và các khoản phụ cấp trả cho ban giám đốc và nhân viên quản lý ở các phòng ban, chi phí vật liệu dùng để dùng cho văn phòng, KHTSCĐ dùng chung cho doanh nghiệp, các khoản thuế, lệ phí, bảo hiểm, chi phí dịch vụ mua ngoài thuộc văn phòng doanh nghiệp và các chi phí khác chung cho 1111 toàn doanh nghiệp như lãi vay, dự phòng, phí kiểm toán, tiếp tân, tiếp khách, công tác phí… 2.2.3 Chi phí hoạt động tài chính và chi phí hoạt động bất thường Chi phí hoạt động tài chính bao gồm: Chi phí liên doanh liên kết, chi phí thuê tài sản, chi phí vay nợ, chi phí mua, bán chứng khoán. Chi phí hoạt động bất thường bao gồm: Chi phí nhượng bán thanh lý TSCĐ, giá trị tổn thất sau khi đã giảm trừ và chi phí bất thường khác. Cách phân chia chi phí theo chức năng hoạt động và từng yếu tố chi phí có ý nghĩa đối với các nhà quản trị kinh doanh trong việc xây dựng các dự toán chi phí nhằm đáp ứng nhu cầu của hoạt động kinh doanh. 2.3 Phân loại chi phí theo mối quan hệ với kỳ tính kết quả kinh doanh - Chi phí sản phẩm đó là các khoản chi phí gắn liền với quá trình sản xuất và quá trình mua hàng. Đối với một đơn vị sản xuất chi phí sản phẩm chính là chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sản xuất chung. Đối với một đơn vị kinh doanh thương mại chi phí sản phẩm chính là giá mua và chi phí mua hàng. Chi phí sản phẩm phát sinh và ảnh hưởng đến nhiều kỳ báo cáo, nói cách khác, sự phát sinh và khả năng bù đắp của chi phí sản phẩm trải qua nhiều kỳ sản xuất kinh doanh khác nhau. Vì vậy khi xác định chi phí sản phẩm, chúng ta cần xem xét đến các giai đoạn chuyển tiếp và mức độ chuyển tiếp của chúng.