Chúng ta biết rằng khủng hoảng tài chính xuất hiện đầu tiên ở Mỹ rồi lan
rộng khắp toàn cầu kéo dài hơn một năm nay đã gây nên rất nhiều khó khăn đối với
nền kinh tế khắp các quốc gia trên thế giới. Khủng hoảng tài chính toàn cầu là một
vấn đề lớn của xã hội mà dường như ai cũng phải quan tâm đến nó, nhất là những
nhà lãnh đạo, nhà phân tích kinh tế, hoạch định chính sách Xung quanh chủ đề về
khủng hoảng tài chính sẽ có không biết bao nhiêu vấn đề phải bàn luận như: nguyên
nhân của nó ra sao?, khủng hoảng tác động như thế nào?, chúng ta cần làm gì để đối
phó với những khó khăn mà khủng hoảng đã gây ra?.Những vấn đề cấp thiết ấy là
mối quan tâm của tất cả các quốc gia và Việt Nam cũng không nằm ngoài số đó.
Cuộc khủng hoảng tài chính có ảnh hưởng lớn tới nền kinh tế Việt Nam hay không
và chính phủ cùng các doanh nghiệp Việt Nam cần làm gì trước những nguy cơ của
cuộc khủng hoảng?
Bầt kỳ một nhà quản trị nào cũng phải nắm rõ và kiểm soát chặt chẽ mọi hoạt
động của công ty trong đó có kiểm soát chi phí. Chi phí gắn liền với mọi hoạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nên quản lý chi phí tốt vẫn là một bài toán
nan giải đối với các nhà quản lý kinh tế. Đặc biệt, trong thời kỳ khủng hoảng như
hiện nay, các công ty đều gặp khó khăn về tài chính nên việc quản lý chi phí tốt
càng trở nên cấp thiết hơn nữa. Một trong những vấn đề quan tâm hàng đầu của các
doanh nghiệp trong việc quản lý chi phí là vấn đề cắt giảm chi phí thời kỳ khủng
hoảng này.
Xuất phát từ thực tiễn ấy, dưới sự hướng dẫn của cô Nguyễn Thị Tuyết
Nhung và được sự đồng ý của khoa Quản trị kinh doanh em đã lựa chọn đề tài:
“Các biện pháp cắt giảm chi phí của một số doanh nghiệp trên thế giới trong thời
kỳ khủng hoảng tài chính, đề xuất cho doanh nghiệp Việt Nam” làm đề tài cho
khóa luận tốt nghiệp của mình với mục đích muốn tìm hiểu về cuộc khủng hoảng tài
chính này và các biện pháp cắt giảm chi phí của một số doanh nghiệp trên thế giới
trong cơn khủng hoảng, từ đó đưa ra một số kiến nghị, đề xuất cho các doanh
nghiệp Việt Nam với hy vọng các doanh nghiệp sẽ cắt giảm chi phí tốt, vượt qua
những khó khăn của khủng hoảng tài chính và phát triển bền vững.
91 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 4008 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Các biện pháp cắt giảm chi phí của một số doanh nghiệp trên thế giới trong thời kỳ khủng hoảng tài chính đề xuất cho doanh nghiệp Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH
CHUYÊN NGÀNH KINH DOANH QUỐC TẾ
--------***--------
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Đề tài:
CÁC BIỆN PHÁP CẮT GIẢM CHI PHÍ CỦA MỘT SỐ DOANH
NGHIỆP TRÊN THẾ GIỚI TRONG THỜI KỲ KHỦNG HOẢNG
TÀI CHÍNH ĐỀ XUẤT CHO DOANH NGHIỆP VIỆT NAM
Sinh viên thực hiện : Nguyễn Thị Mai
Lớp : Anh 3
Khoá : 44
Giáo viên hướng dẫn : ThS. Nguyễn Thị Tuyết Nhung
Hà Nội, 05/2009
11
LỜI MỞ ĐẦU
Chúng ta biết rằng khủng hoảng tài chính xuất hiện đầu tiên ở Mỹ rồi lan
rộng khắp toàn cầu kéo dài hơn một năm nay đã gây nên rất nhiều khó khăn đối với
nền kinh tế khắp các quốc gia trên thế giới. Khủng hoảng tài chính toàn cầu là một
vấn đề lớn của xã hội mà dường như ai cũng phải quan tâm đến nó, nhất là những
nhà lãnh đạo, nhà phân tích kinh tế, hoạch định chính sách…Xung quanh chủ đề về
khủng hoảng tài chính sẽ có không biết bao nhiêu vấn đề phải bàn luận như: nguyên
nhân của nó ra sao?, khủng hoảng tác động như thế nào?, chúng ta cần làm gì để đối
phó với những khó khăn mà khủng hoảng đã gây ra?...Những vấn đề cấp thiết ấy là
mối quan tâm của tất cả các quốc gia và Việt Nam cũng không nằm ngoài số đó.
Cuộc khủng hoảng tài chính có ảnh hưởng lớn tới nền kinh tế Việt Nam hay không
và chính phủ cùng các doanh nghiệp Việt Nam cần làm gì trước những nguy cơ của
cuộc khủng hoảng?
Bầt kỳ một nhà quản trị nào cũng phải nắm rõ và kiểm soát chặt chẽ mọi hoạt
động của công ty trong đó có kiểm soát chi phí. Chi phí gắn liền với mọi hoạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nên quản lý chi phí tốt vẫn là một bài toán
nan giải đối với các nhà quản lý kinh tế. Đặc biệt, trong thời kỳ khủng hoảng như
hiện nay, các công ty đều gặp khó khăn về tài chính nên việc quản lý chi phí tốt
càng trở nên cấp thiết hơn nữa. Một trong những vấn đề quan tâm hàng đầu của các
doanh nghiệp trong việc quản lý chi phí là vấn đề cắt giảm chi phí thời kỳ khủng
hoảng này.
Xuất phát từ thực tiễn ấy, dưới sự hướng dẫn của cô Nguyễn Thị Tuyết
Nhung và được sự đồng ý của khoa Quản trị kinh doanh em đã lựa chọn đề tài:
“Các biện pháp cắt giảm chi phí của một số doanh nghiệp trên thế giới trong thời
kỳ khủng hoảng tài chính, đề xuất cho doanh nghiệp Việt Nam” làm đề tài cho
khóa luận tốt nghiệp của mình với mục đích muốn tìm hiểu về cuộc khủng hoảng tài
chính này và các biện pháp cắt giảm chi phí của một số doanh nghiệp trên thế giới
trong cơn khủng hoảng, từ đó đưa ra một số kiến nghị, đề xuất cho các doanh
nghiệp Việt Nam với hy vọng các doanh nghiệp sẽ cắt giảm chi phí tốt, vượt qua
những khó khăn của khủng hoảng tài chính và phát triển bền vững.
22
*Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài:
Các biện pháp cắt giảm chi phí của một số doanh nghiệp trên thế giới trong
thời kỳ khủng hoảng tài chính, đưa ra đề xuất cho doanh nghiệp Việt Nam.
*Phương pháp nghiên cứu:
- Thu thập thông tin, số liệu
- Phân tích, đánh giá, so sánh, tổng hợp
*Kết cấu của khoá luận : Ngoài lời mở đầu, kết luận, nội dung của khoá luận được
chia làm 3 chương.
- Chương I: Những lý luận chung về chi phí và quản lý chi phí trong doanh
nghiệp
- Chương II: Khủng hoảng tài chính toàn cầu và các biện pháp cắt giảm chi
phí của một số doanh nghiệp trên thế giới
- Chương III: Giải pháp và định huớng cho các doanh nghiệp Việt Nam trong
việc cắt giảm chi phí
Nhân đây, cho phép em được gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến cô Nguyễn
Thị Tuyết Nhung đã tận tình hướng dẫn em khoá luận tốt nghiệp này. Em cũng xin
cảm ơn khoa Quản trị Kinh doanh, Ban giám hiệu nhà trường cùng tất cả các thầy
cô giáo dạy dỗ em suốt 4 năm học qua đã tạo cho em những điều kiện học tập,
nghiên cứu tốt nhất!
Hà Nội, ngày 2/4/2009
Sinh viên:
Nguyễn Thị Mai
33
CHƢƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHI PHÍ VÀ
QUẢN LÝ CHI PHÍ TRONG DOANH NGHIỆP
I.Tổng quan về chi phí trong doanh nghiệp
1. Khái niệm chi phí
Theo chuẩn mực kế toán Việt Nam, chuẩn mực số 01- chuẩn mực chung, chi
phí được định nghĩa như sau:
Chi phí: Là tổng giá trị các khoản làm giảm lợi ích kinh tế trong kỳ kế toán
dưới hình thức các khoản tiền chi ra, các khoản khấu trừ tài sản hoặc phát sinh nợ
dẫn đến làm giảm vốn chủ sở hữu, không bao gồm khoản phân phối cho cổ đông
hoặc chủ sở hữu.
Từ định nghĩa như vậy, có thể thấy ngay kiểm soát và tiết kiệm chi phí tốt sẽ
đem lại nhiều lợi ích cho doanh nghiệp. Chi phí là một trong những thông tin quan
trọng hàng đầu trong quá trình tổ chức điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh của
các nhà quản trị và đứng trên giác độ kế toán, các thông tin mà các nhà quản trị cần
hầu hết liên quan đến chi phí.
Dưới góc độ quản lý hay dưới góc độ kế toán quản trị, chi phí không đơn
giản được nhận thức theo quan điểm của kế toán như trên, mà nó được nhìn nhận
theo nhiều phương diện khác nhau để đáp ứng thông tin một cách toàn diện nhất
cho các nhà quản trị trong việc hoạch định, kiếm soát và ra quyết định. Theo đó, chi
phí có thể là những phí tổn thực tế phát sinh gắn liền với hoạt động sản xuất kinh
doanh hàng ngày của doanh nghiệp, chi phí cũng có thể là những phí tổn ước tính
để thực hiện một dự án hoặc những lợi nhuận mất đi do lựa chọn phương án, hy
sinh cơ hội kinh doanh.
2. Phân loại chi phí
Về mặt lý thuyết, có nhiều tiêu thức khác nhau để phân loại chi phí, mỗi tiêu
thức đều có ý nghĩa khác nhau đối với quá trình quản trị doanh nghiệp.
44
2.1 Phân loại chi phí theo cách ứng xử của chi phí
Theo cách phân loại này, căn cứ vào mối quan hệ của chi phí và kết quả sản
xuất kinh doanh, chi phí được chia thành hai dạng cơ bản:
* Chi phí biến đổi hay còn gọi là biến phí là các khoản chi phí thường tỷ lệ
thuận với kết quả sản xuất hay quy mô hoạt động, ví dụ như chi phí nguyên vật liệu
chính dùng để sản xuất ra sản phẩm….
Chi phí biến đổi có đặc điểm là tỷ lệ thuận với khối lượng sản phẩm sản
xuất, nhưng khi tính cho một đơn vị kết quả thì cố định. Do vậy để kiểm soát các
chi phí biến đổi các nhà quản trị doanh nghiệp thường xây dựng mức chi phí biến
đổi cho mỗi đơn vị kết quả sản xuất.
Tổng biến phí Biến phí đơn vị
Y=ax Y=ax
Mức độ hoạt động Mức độ hoạt động
- Chi phí biến đổi của doanh nghiệp có thể chia làm hai dạng: chi phí biến
đổi tuyến tính và chi phí biến đổi cấp bậc.
+ Chi phí biến đổi tuyến tính đó là các khoản chi phí biến đổi hoàn toàn tỷ lệ
thuận với kết quả sản xuất, ví dụ như chi phí nguyên vật liệu chính dùng để sản xuất
hoặc hoa hồng cho người bán hàng được tính theo tỷ lệ doanh thu. Do đó, việc
hoạch định, xây dựng và hoàn thiện định mức biến phí tuyệt đối sẽ là tiền đề tiết
kiệm, kiểm soát chi phí một cách chặt chẽ hơn.
+ Chi phí biến đổi cấp bậc đó là các khoản chi phí cũng thay đổi nhưng gắn
với phạm vi và quy mô hoạt động của công ty, ví dụ như chi phí vật liệu phụ để bảo
dưỡng máy móc, thiết bị. Những chi phí này cũng thay đổi tỷ lệ thuận với mức độ
hoạt động của doanh nghiệp nhưng chúng chỉ thay đổi khi quy mô sản xuất, mức độ
hoạt động của máy móc thiết bị đạt đến một phạm vi nhất định.
55
* Chi phí cố định hay còn gọi là định phí đó là các khoản chi phí thường
không thay đổi trong phạm vi giới hạn của quy mô hoạt động
Chi phí cố định có đặc điểm là xét trong giới hạn của quy mô hoạt động thì
tổng chi phí không thay đổi, nhưng trong giới hạn đó mà sản lượng sản phẩm sản
xuất thay đổi thì chi phí cố định tính cho một đơn vị sản phẩm thay đổi. Định phí
tính trên một đơn vị mức độ hoạt động (sản phẩm) tỷ lệ nghịch với mức độ hoạt
động: mức độ hoạt động càng cao thì định phí cho một đơn vị hoạt động càng thấp.
Như vậy, dù doanh nghiệp có hoạt động hay không hoạt động thì định phí vẫn tồn
tại. Do vậy các nhà quản trị doanh nghiệp muốn giảm chi phí cần khai thác hết công
suất của các tài sản cố định đã đầu tư vì hầu như các tài sản cố định đều tạo ra các
khoản chi phí cố định.
Tổng định phí Định phí đơn
Y=a Y=b/x
Mức độ hoạt động Mức độ hoạt động
Chi phí cố định của doanh nghiệp có thể chia làm hai dạng là định phí thuộc
tính và định phí bắt buộc.
- Định phí thuộc tính đó là các khoản chi phí cố định thường gắn với hoạt
động của các bộ phận trong tổ chức doanh nghiệp, ví dụ như chi phí thuê nhà xưởng
của các phân xưởng, chi phí quảng cáo, nghiên cứu, giao dịch,…Do vậy, khi các bộ
phận không tồn tại thì các định phí thuộc tính cũng mất đi.
- Định phí bắt buộc là các khoản chi phí thường gắn với cấu trúc của một tổ
chức kinh tế, do vậy khi các bộ phận không tồn tại thì định phí bắt buộc vẫn phát
sinh, ví dụ như tiền thuê văn phòng hoạt động của doanh nghiệp. Định phí bắt buộc
có hai đặc điểm cơ bản:
+ Chúng tồn tại lâu dài trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp.
+ Chúng không thể cắt giảm đến bằng không trong một thời gian ngắn.
66
Các nhà quản trị muốn kiểm soát các khoản chi phí cố định thường căn cứ
vào mức độ hoạt động của quy mô hoạt động và công suất của các tài sản đang sử
dụng.
* Chi phí hỗn hợp đó là các khoản chi phí bao gồm cả yếu tố biến phí và
định phí. Thường ở mức độ hoạt động căn bản thì chi phí hỗn hợp thể hiện định phí,
khi vượt khỏi mức độ hoạt động căn bản thì chi phí hỗn hợp bao gồm cả biến phí.
Trong thực tế hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, chi phí hỗn hợp thường thể
hiện như chi phí sản xuất chung, chi phí sử dụng máy móc, chi phí bán hàng, chi phí
quản lý doanh nghiệp.
Việc phân loại chi phí theo cách ứng xử giúp doanh nghiệp:
- Doanh nghiệp thiết kế, xây dựng các mô hình chi phí trong mối quan hệ
giữa chi phí - khối lượng - lợi nhuận.
- Phân tích chi phí, phân tích điểm hoà vốn để đưa ra quyết định kinh doanh
phù hợp.
- Xác định đúng đắn phương hướng sử dụng và nâng cao hiệu quả sử dụng
các loại chi phí.
2.2 Phân loại chi phí theo chức năng hoạt động
2.2.1 Chi phí sản xuất và tiêu thụ sản phẩm
2.2.1.1 Chi phí sản xuất của doanh nghiệp
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp phải tiêu hao các loại vật
tư, nguyên vật liệu, hao mòn máy móc thiết bị,trả công cho người lao động,…Do
vậy,có thể hiểu chi phí sản xuất của doanh nghiệp là biều hiện bằng tiền của tất cả
hao phí về vật chất và về lao động mà doanh nghiệp phải bỏ ra để sản xuất sản
phẩm trong một thời kỳ nhất định. Các chi phí này phát sinh có tính thường xuyên
và gắn liền với quá trình sản xuất sản phẩm. Do đặc điểm của chi phí sản xuất là chi
phí hàng ngày của doanh nghiệp gắn liền với từng vị trí sản xuất,từng loại sản phẩm
và từng loại hoạt động sản xuất-kinh doanh, việc tổng hợp, tính toán chi phí sản
xuất cần được tiến hành trong từng khoảng thời gian nhất định, không phân biệt các
sản phẩm để sản xuất đã hoàn thành hay chưa hoàn thành. Để quản lý và kiểm tra
chặt chẽ việc thực hiện các định mức chi phí, tính toán được kết quả tiết kiệm chi
77
phí ở từng bộ phận sản xuất và toàn doanh nghiệp, kiểm tra và phân tích quá trình phát
sinh chi phí và hình thành giá thành sản phẩm người ta cần phân loại chi phí sản xuất.
Thông thường người ta sử dụng một số cách thức phân loại chi phí như sau:
Thứ nhất: Phân loại chi phí sản xuất theo yếu tố, tức là sắp xếp các chi phí
có cùng tính chất kinh tế vào một loại, mỗi loại là một yếu tố chi phí sản xuất bao
gồm 3 nhóm yểu tố sau:
+ Chi phí vật tư
+ Lương nhân công trực tiếp
+ Chi phí sản xuất chung
Thứ hai: Phân loại chi phí sản xuất theo khoản mục tính giá thành. Cách
phân loại này dựa vào công dụng kinh tế và địa điểm phát sinh của chi phí để sắp
xếp chi phí thành những khoản mục nhất định, qua đó, phân tích tác động của từng
khoản mục chi phí đến giá thành.
Thứ ba: Phân loại chi phí sản xuất thành chi phí cố định và chi phí biến đổi.
Phân loại chi phí theo cách này để có phương thức quản lý phù hợp với từng loại
chi phí.
Để quản lý tốt chi phí, ngoài phân loại chi phí, các doanh nghiệp cần phải xem xét
cơ cấu chi phí sản xuất để định hướng thay đổi tỷ trọng mỗi loại chi phí sản xuất.
Cơ cấu chi phí sản xuất là tỷ trọng giữa các yếu tố chi phí trong tổng số chi phí sản
xuất. Các doanh nghiệp trong cùng một ngành và giữa các ngành khác nhau có cơ
cấu chi phí sản xuất khác nhau. Cơ cấu chi phí sản xuất chịu tác động của nhiều
nhân tố như: loại hình và quy mô sản xuất của từng doanh nghiệp, trình độ kỹ thuật,
trang thiết bị, điều kiện tự nhiên, công tác tổ chức, năng lực quản lý, trình độ tay
nghề của công nhân…
Nghiên cứu cơ cấu chi phí sản xuất nhằm:
- Xác định tỷ trọng và xu hướng thay đổi của từng yếu tố chi phí sản xuất.
- Kiểm tra giá thành sản phẩm và có biện pháp hạ gia thành sản phẩm.
2.2.1.2 Chi phí tiêu thụ sản phẩm
Đối với các doanh nghiệp, tiêu thụ sản phẩm là hết sức quan trọng. Khối
lượng sản phẩm hàng hoá tiêu thụ ảnh hưởng quyết định tới quy mô sản xuất kinh
88
doanh của doanh nghiệp. Để thực hiện tiêu thụ sản phẩm, doanh nghiệp cũng phải
bỏ ra những chi phí nhất định.
Chi phí lưu thông sản phẩm bao gồm: Chi phí trực tiếp tiêu thụ sản phẩm,
chi phí hỗ trợ marketing và phát triển.
Chi phí trực tiếp tiêu thụ sản phẩm bao gồm: Chi phí chọn lọc, đóng gói; chi
phí bao bì, vận chuyển, bảo quản, chi phí thuê kho, bến bãi…
Chi phí hỗ trợ marketing và phát triển bao gồm: Chi phí điều tra nghiên cứu
thị trường, chi phí quảng cáo, giới thiệu sản phẩm; chi phí bảo hành sản phẩm…Tỷ
trọng của chi phí có xu hướng tăng trong điều kiện nền kinh tế thị trường phát triển.
2.2.1.3 Giá thành sản phẩm
Nghiên cứu chi phí sản xuất và tiêu thụ sản phẩm chưa cho biết lượng chi phí
cần thiết để hoàn thành sản xuất và tiêu thụ một loại sản phẩm hoặc một đơn vị sản
phẩm nhất định. Mặt khác, trong hoạt động kinh doanh, khi quyết định lựa chọn
phương án kinh doanh một loại sản phẩm nào đó, doanh nghiệp cần phải tính đến
lượng chi phí bỏ ra để sản xuất và tiêu thụ một sản phẩm hoặc khối lượng sản phẩm
đó. Do vậy, doanh nghiệp cần xác định giá thành của sản phẩm.
Giá thành sản phẩm là biểu hiện bằng tiền toàn bộ chi phí của doanh nghiệp
bỏ ra để hoàn thành việc sản xuất hoặc để sản xuất và tiêu thụ một loại sản phẩm
nhất định.
Giữa giá thành sản phẩm và chi phí sản xuất có sự giống nhau và khác nhau:
chi phí sản xuất hợp thành giá thành sản phẩm nhưng không phải toàn bộ chi phí
sản xuất phát sinh trong kỳ đều được tính vào giá thành sản phẩm trong kỳ. Giá
thành sản phẩm phản ánh lượng chi phí để hoàn thành sản xuất hoặc sản xuất và
tiêu thụ 1 đơn vị hay khối lượng sản phẩm nhất định còn chi phí sản xuất và lưu
thông sản phẩm thể hiện số chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra để sản xuất và tiêu thụ
sản phẩm trong một thời kỳ nhất định, thời kỳ này thường là một năm.
Trong phạm vi sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, có thể phân biệt giá thành sản
xuất sản phẩm và giá thành tiêu thụ sản phẩm. Giá thành sản xuất sản phẩm (đối
với sản phẩm xây dựng là giá thành thi công) bao gồm toàn bộ chi phí bỏ ra để hoàn
thành việc sản xuất sản phẩm. Giá thành tiêu thụ sản phẩm còn gọi là giá thành toàn
99
bộ sản phẩm bao gồm toàn bộ chi phí để hoàn thành cả sản xuất và tiêu thụ sản
phẩm.
Trên giác độ kế hoạch hoá, giá thành sản phẩm của doanh nghiệp được phân
biệt thành giá thành kế hoạch và giá thành thực tế.
Các doanh nghiệp hoạt động luôn phải quan tâm tới giảm chi phí, hạ giá
thành sản phẩm. Hạ giá thành sản phẩm là điều kiện căn bản để doanh nghiệp thực
hiện tốt tiêu thụ sản phẩm, doanh nghiệp có thể hạ giá bán để tiêu thụ sản phẩm và
thu hồi vốn nhanh. Đồng thời, hạ giá thành là yếu tố cơ bản để tăng lợi nhuận.
Hạ giá thành sản phẩm trong kỳ được xác định cho những sản phẩm so sánh
được thông qua hai chỉ tiêu: Mức giảm giá thành và tỷ lệ hạ giá thành sản phẩm.
Riêng đối với sản phẩm xây dựng cơ bản, người ta chỉ so sánh giá thành thực
tế với giá thành kế hoạch hoặc giá thành dự toán của khối lượng sản phẩm trong
cùng một kỳ.
Các nhân tố ảnh hưởng tới chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm doanh nghiệp:
- Sự tiến bộ của khoa học - kỹ thuật và công nghệ
- Tổ chức lao động khoa học và chiến lược sử dụng lao động
- Tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh và quản lý tài chính
2.2.2 Chi phí hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
Chi phí hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bao gồm các chi phí có liên
quan đến quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đây cũng là
một cách tiếp cận phổ biến trong nền kinh tế thị trường.
Dựa vào tính chất các yếu tố chi phí: chi phí hoạt động kinh doanh được chia thành
các loại sau:
- Chi phí nguyên vật liệu, nhiên liệu, động lực (gọi tắt là chi phí vật tư)
- Chi phí vật tư phụ thuộc vào hai yếu tố là mức tiêu hao vật tư và giá vật tư.
- Chi phí khấu hao tài sản cố định (KHTSCĐ)
Chi phí KHTSCĐ được xác định dựa vào nguyên giá TSCĐ cần tính khấu hao và tỷ
lệ KHTSCĐ.
- Chi phí tiền lương và các khoản phụ cấp có tính chất tiền lương.
- Chi phí bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và kinh phí công đoàn.
1010
- Chi phí dịch vụ mua ngoài.
- Thuế và các chi phí khác.
Dựa vào nội dung các yếu tố chi phí: Chi phí hoạt động kinh doanh được
chia thành các khoản mục chi phí trực tiếp và chi phí gián tiếp.
Chi phí sản xuất trực tiếp bao gồm:
- Chi phí vật tư trực tiếp
- Chi phí nhân công trực tiếp
- Chi phí sản xuất chung
* Giá thành sản xuất
Giá thành sản xuất = Chi phí sản xuất + Chênh lệch sản phẩm dở dang
Chênh lệch sản phẩm dở dang = Sản phẩm dở dang đầu kỳ - Sản phẩm dở
dang cuối kỳ
* Giá vốn hàng bán
Giá vốn hàng bán = Giá thành sản xuất + chênh lệch thành phẩm tồn kho
Chênh lệch thành phẩm tồn kho = Thành phẩm tồn kho đầu kỳ - Thành phẩm
tồn kho cuối kỳ
Riêng đối với doanh nghiệp thương mại:
Giá vốn hàng bán = Giá vốn hàng mua + Chênh lệch hàng hoá tồn kho
Chênh lệch hàng hoá tồn kho = Hàng hoá tồn kho đầu kỳ - Hàng hoá tồn kho
cuối kỳ
* Chi phí bán hàng: Gồm các chi phí phát sinh trong quá trình tiêu thụ sản
phẩm hàng hoá và dịch vụ như tiền lương, các khoản phụ cấp phải trả cho nhân viên
bán hàng, tiếp thị, đóng gói, bảo quản, khấu hao TSCĐ, chi phí vật liệu, bao bì,
dụng cụ, đồ dùng, chi phí dịch vụ mua ngoài, chi phí bảo hành, quảng cáo.
* Chi phí quản lý doanh nghiệp: Gồm các chi phí quản lý kinh doanh, quản
lý hành chính và các chi phí chung khác có liên quan tới toàn bộ hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp như: tiền lương và các khoản phụ cấp trả cho ban giám đốc
và nhân viên quản lý ở các phòng ban, chi phí vật liệu dùng để dùng cho văn phòng,
KHTSCĐ dùng chung cho doanh nghiệp, các khoản thuế, lệ phí, bảo hiểm, chi phí
dịch vụ mua ngoài thuộc văn phòng doanh nghiệp và các chi phí khác chung cho
1111
toàn doanh nghiệp như lãi vay, dự phòng, phí kiểm toán, tiếp tân, tiếp khách, công
tác phí…
2.2.3 Chi phí hoạt động tài chính và chi phí hoạt động bất thường
Chi phí hoạt động tài chính bao gồm: Chi phí liên doanh liên kết, chi phí
thuê tài sản, chi phí vay nợ, chi phí mua, bán chứng khoán.
Chi phí hoạt động bất thường bao gồm: Chi phí nhượng bán thanh lý TSCĐ,
giá trị tổn thất sau khi đã giảm trừ và chi phí bất thường khác.
Cách phân chia chi phí theo chức năng hoạt động và từng yếu tố chi phí có ý
nghĩa đối với các nhà quản trị kinh doanh trong việc xây dựng các dự toán chi phí
nhằm đáp ứng nhu cầu của hoạt động kinh doanh.
2.3 Phân loại chi phí theo mối quan hệ với kỳ tính kết quả kinh doanh
- Chi phí sản phẩm đó là các khoản chi phí gắn liền với quá trình sản xuất
và quá trình mua hàng. Đối với một đơn vị sản xuất chi phí sản phẩm chính là chi
phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sản xuất chung.
Đối với một đơn vị kinh doanh thương mại chi phí sản phẩm chính là giá mua và
chi phí mua hàng. Chi phí sản phẩm phát sinh và ảnh hưởng đến nhiều kỳ báo cáo,
nói cách khác, sự phát sinh và khả năng bù đắp của chi phí sản phẩm trải qua nhiều
kỳ sản xuất kinh doanh khác nhau. Vì vậy khi xác định chi phí sản phẩm, chúng ta
cần xem xét đến các giai đoạn chuyển tiếp và mức độ chuyển tiếp của chúng.