Khóa luận Các giải pháp đẩy mạnh thu hút khách du lịch quốc tế đến thành phố Hội An giai đoạn 2010-2020

1. Tính cấp thiết của đề tài Hội nhập và toàn cầu là hai xu thế tất yếu của thời đại ngày nay. Xu thế này buộc tất cả các quốc gia phải mở cửa giao lưu trên hầu hết các lĩnh vực với các quốc gia khác nếu không muốn bị gạt ra bên lề của sự phát triển. Trong đó, ngành du lịch được xem là một trong những ngành thể hiện rõ nét nhất những xu thế trên, cụ thể hơn là loại hình du lịch quốc tế. Thật vậy, du lịch - ngành công nghiệp không khói - được đánh giá là có một vai trò rất quan trọng đối với việc phát triển kinh tế - xã hội, không chỉ đối với các quốc gia phát triển mà ngay cả với những quốc gia đang và kém phát triển. Thành công của ngành du lịch ở nhiều quốc gia đóng góp tích cực vào tốc độ tăng trưởng kinh tế của họ. Trong những năm qua, ngành du lịch Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Việt Nam đã trở thành một điểm đến du lịch an toàn và thân thiện đối với du khách quốc tế. Trong năm 2009, tổng số lượt khách quốc tế đến Việt Nam đạt khoảng 3,8 triệu lượt, khách du lịch nội địa đạt 25 triệu lượt, tổng doanh thu của toàn ngành trong năm 2009 đạt 68.000 - 70.000 tỷ đồng. Năm 2010 đã chứng kiến nhiều sự thay đổi trong toàn ngành du lịch Việt Nam, điều này được nhận thấy rõ nhất ở số lượng khách du lịch quốc tế đến Việt Nam tăng kỷ lục và đạt mức xấp xỉ 5 triệu lượt với mức doanh thu khoảng 96.000 tỷ đồng. Tuy nhiên, nếu so sánh với các quốc gia có ngành du lịch phát triển trong khu vực như Thái Lan, Singapore thì những con số này vẫn còn khá khiêm tốn. Việt Nam vẫn đang tích cực xây dựng và phát triển ngành du lịch, nhằm biến du lịch thành một ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước, từng bước đưa nước ta trở thành một trung tâm du lịch có tầm cỡ của khu vực, phấn đấu sau năm 2010 du lịch Việt Nam được xếp vào nhóm quốc gia có ngành du lịch phát triển trong khu vực (Quyết định số 97/2002/QĐ - TTg của Thủ tướng Chính phủ, 2002). Việt Nam với bờ biển dài, đẹp và hệ thống núi bao bọc che chắn, khí hậu ôn hòa, nhiều quần đảo và đảo cùng với một hệ sinh thái biển vô cùng phong phú, nhiều danh lam thắng cảnh nổi tiếng, trong đó Hội An được biết đến như một điểm dừng chân mới của khách du lịch. Nắm bắt được xu hướng trên, ngành du lịch Hội An đã và đang không ngừng đẩy mạnh chiến lược nhằm thu hút khách du lịch quốc tế. Hai cụm tài nguyên du lịch được Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hoá của Liên Hợp Quốc (UNESCO) công nhận: Di sản văn hóa thế giới (DSVHTG) Phố Cổ Hội An và Khu dự trữ sinh quyển thế giới (KDTSQTG) Cù Lao Chàm đã tạo nên hình ảnh và sức hút du lịch quốc tế tại Hội An, một vùng đất được cố GS. Trần Quốc Vượng nhận xét: “ là một sự hội nhân, hội thủy, hội tụ văn hóa vô cùng đa dạng”. Do đó, định hướng phát triển du lịch Hội An trong những năm tới là khai thác có hiệu quả các tiềm năng và lợi thế, phát triển một cách toàn diện cả du lịch biển, du lịch văn hóa và du lịch sinh thái đưa du lịch thật sự trở thành ngành kinh tế quan trọng của thành phố. Ý thức được tình hình trên, người viết đã mạnh dạn chọn đề tài: “Các giải pháp đẩy mạnh thu hút khách du lịch quốc tế đến thành phố Hội An giai đoạn 2010 - 2020” cho khóa luận tốt nghiệp của mình. 2. Mục đích nghiên cứu của đề tài Mục đích: Thông qua việc hệ thống hóa các yếu tố ảnh hưởng đến việc thu hút khách du lịch quốc tế đến Hội An và phân tích thực trạng việc thu hút khách du lịch quốc tế đến Hội An, khóa luận hướng đến việc đề xuất một số giải pháp cũng như kiến nghị nhằm đẩy mạnh thu hút khách du lịch quốc tế đến Hội An. Căn cứ vào mục đích nghiên cứu, khóa luận đề ra 3 mục tiêu sau: - Khái quát hóa lý luận về khách du lịch quốc tế và vấn đề thu hút khách du lịch quốc tế. Ngoài ra còn tìm hiểu kinh nghiệm thu hút khách du lịch quốc tế tại một số quốc gia trên thế giới để rút ra bài học kinh nghiệm cho Hội An. - Phân tích thực trạng thu hút khách du lịch quốc tế của Hội An. Từ đó đánh giá chung về những kết quả đạt được, những mặt hạn chế và nguyên nhân. - Đề xuất những giải pháp và kiến nghị để đẩy mạnh thu hút khách du lịch quốc tế đến Hội An trong giai đoạn 2010 - 2020. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài - Đối tượng nghiên cứu của đề tài: Việc thu hút khách du lịch quốc tế đến Hội An. - Phạm vi nghiên cứu của đề tài: Theo không gian: Xem xét thực trạng thu hút khách du lịch quốc tế trên địa bàn thành phố Hội An. Theo thời gian: + Phân tích và đánh giá thực trạng thu hút khách du lịch quốc tế đến Hội An trong giai đoạn 2000 - 2010. + Từ thực trạng và những dự báo du lịch quốc tế, đề xuất giải pháp và kiến nghị nhằm đẩy mạnh thu hút khách du lịch quốc tế đến Hội An trong giai đoạn 2010 - 2020. 4. Phương pháp nghiên cứu của đề tài Để thực hiện đề tài, phương pháp nghiên cứu được sử dụng gồm: Phương pháp tổng hợp (Dựa vào các dữ liệu thu thập được, đánh giá của các chuyên gia và định hướng cũng như kinh nghiệm rút ra từ các quốc gia khác để xây dựng bức tranh toàn cảnh của du lịch quốc tế tại thành phố Hội An), phương pháp phân tích (Sử dụng các nguồn tư liệu thu thập được để phân tích thực trạng của việc thu hút khách du lịch quốc tế đến Hội An), vận dụng các phương pháp mô tả, so sánh, thông kê, phân tích với nguồn số liệu được thu thập từ niên giám thống kê, các báo cáo của Ủy ban nhân dân tỉnh, các Sở, ban ngành trong tỉnh, thành phố và từ các nguồn khác. 5. Kết cấu nội dung của đề tài Đề tài gồm 3 chương: Chương 1: Khái quát về việc thu hút khách du lịch quốc tế và kinh nghiệm của một số nước. Chương 2: Thực trạng thu hút khách du lịch quốc tế đến Hội An giai đoạn 2000 - 2010. Chương 3: Một số giải pháp đẩy mạnh thu hút khách du lịch quốc tế đến Hội An giai đoạn 2010 - 2020.

doc104 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 5492 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Các giải pháp đẩy mạnh thu hút khách du lịch quốc tế đến thành phố Hội An giai đoạn 2010-2020, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Hội nhập và toàn cầu là hai xu thế tất yếu của thời đại ngày nay. Xu thế này buộc tất cả các quốc gia phải mở cửa giao lưu trên hầu hết các lĩnh vực với các quốc gia khác nếu không muốn bị gạt ra bên lề của sự phát triển. Trong đó, ngành du lịch được xem là một trong những ngành thể hiện rõ nét nhất những xu thế trên, cụ thể hơn là loại hình du lịch quốc tế. Thật vậy, du lịch - ngành công nghiệp không khói - được đánh giá là có một vai trò rất quan trọng đối với việc phát triển kinh tế - xã hội, không chỉ đối với các quốc gia phát triển mà ngay cả với những quốc gia đang và kém phát triển. Thành công của ngành du lịch ở nhiều quốc gia đóng góp tích cực vào tốc độ tăng trưởng kinh tế của họ. Trong những năm qua, ngành du lịch Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Việt Nam đã trở thành một điểm đến du lịch an toàn và thân thiện đối với du khách quốc tế. Trong năm 2009, tổng số lượt khách quốc tế đến Việt Nam đạt khoảng 3,8 triệu lượt, khách du lịch nội địa đạt 25 triệu lượt, tổng doanh thu của toàn ngành trong năm 2009 đạt 68.000 - 70.000 tỷ đồng. Năm 2010 đã chứng kiến nhiều sự thay đổi trong toàn ngành du lịch Việt Nam, điều này được nhận thấy rõ nhất ở số lượng khách du lịch quốc tế đến Việt Nam tăng kỷ lục và đạt mức xấp xỉ 5 triệu lượt với mức doanh thu khoảng 96.000 tỷ đồng. Tuy nhiên, nếu so sánh với các quốc gia có ngành du lịch phát triển trong khu vực như Thái Lan, Singapore thì những con số này vẫn còn khá khiêm tốn. Việt Nam vẫn đang tích cực xây dựng và phát triển ngành du lịch, nhằm biến du lịch thành một ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước, từng bước đưa nước ta trở thành một trung tâm du lịch có tầm cỡ của khu vực, phấn đấu sau năm 2010 du lịch Việt Nam được xếp vào nhóm quốc gia có ngành du lịch phát triển trong khu vực (Quyết định số 97/2002/QĐ - TTg của Thủ tướng Chính phủ, 2002). Việt Nam với bờ biển dài, đẹp và hệ thống núi bao bọc che chắn, khí hậu ôn hòa, nhiều quần đảo và đảo cùng với một hệ sinh thái biển vô cùng phong phú, nhiều danh lam thắng cảnh nổi tiếng, trong đó Hội An được biết đến như một điểm dừng chân mới của khách du lịch. Nắm bắt được xu hướng trên, ngành du lịch Hội An đã và đang không ngừng đẩy mạnh chiến lược nhằm thu hút khách du lịch quốc tế. Hai cụm tài nguyên du lịch được Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hoá của Liên Hợp Quốc (UNESCO) công nhận: Di sản văn hóa thế giới (DSVHTG) Phố Cổ Hội An và Khu dự trữ sinh quyển thế giới (KDTSQTG) Cù Lao Chàm đã tạo nên hình ảnh và sức hút du lịch quốc tế tại Hội An, một vùng đất được cố GS. Trần Quốc Vượng nhận xét: “…là một sự hội nhân, hội thủy, hội tụ văn hóa vô cùng đa dạng”. Do đó, định hướng phát triển du lịch Hội An trong những năm tới là khai thác có hiệu quả các tiềm năng và lợi thế, phát triển một cách toàn diện cả du lịch biển, du lịch văn hóa và du lịch sinh thái đưa du lịch thật sự trở thành ngành kinh tế quan trọng của thành phố. Ý thức được tình hình trên, người viết đã mạnh dạn chọn đề tài: “Các giải pháp đẩy mạnh thu hút khách du lịch quốc tế đến thành phố Hội An giai đoạn 2010 - 2020” cho khóa luận tốt nghiệp của mình. 2. Mục đích nghiên cứu của đề tài Mục đích: Thông qua việc hệ thống hóa các yếu tố ảnh hưởng đến việc thu hút khách du lịch quốc tế đến Hội An và phân tích thực trạng việc thu hút khách du lịch quốc tế đến Hội An, khóa luận hướng đến việc đề xuất một số giải pháp cũng như kiến nghị nhằm đẩy mạnh thu hút khách du lịch quốc tế đến Hội An. Căn cứ vào mục đích nghiên cứu, khóa luận đề ra 3 mục tiêu sau: - Khái quát hóa lý luận về khách du lịch quốc tế và vấn đề thu hút khách du lịch quốc tế. Ngoài ra còn tìm hiểu kinh nghiệm thu hút khách du lịch quốc tế tại một số quốc gia trên thế giới để rút ra bài học kinh nghiệm cho Hội An. - Phân tích thực trạng thu hút khách du lịch quốc tế của Hội An. Từ đó đánh giá chung về những kết quả đạt được, những mặt hạn chế và nguyên nhân. - Đề xuất những giải pháp và kiến nghị để đẩy mạnh thu hút khách du lịch quốc tế đến Hội An trong giai đoạn 2010 - 2020. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài - Đối tượng nghiên cứu của đề tài: Việc thu hút khách du lịch quốc tế đến Hội An. - Phạm vi nghiên cứu của đề tài: Theo không gian: Xem xét thực trạng thu hút khách du lịch quốc tế trên địa bàn thành phố Hội An. Theo thời gian: + Phân tích và đánh giá thực trạng thu hút khách du lịch quốc tế đến Hội An trong giai đoạn 2000 - 2010. + Từ thực trạng và những dự báo du lịch quốc tế, đề xuất giải pháp và kiến nghị nhằm đẩy mạnh thu hút khách du lịch quốc tế đến Hội An trong giai đoạn 2010 - 2020. 4. Phương pháp nghiên cứu của đề tài Để thực hiện đề tài, phương pháp nghiên cứu được sử dụng gồm: Phương pháp tổng hợp (Dựa vào các dữ liệu thu thập được, đánh giá của các chuyên gia và định hướng cũng như kinh nghiệm rút ra từ các quốc gia khác để xây dựng bức tranh toàn cảnh của du lịch quốc tế tại thành phố Hội An), phương pháp phân tích (Sử dụng các nguồn tư liệu thu thập được để phân tích thực trạng của việc thu hút khách du lịch quốc tế đến Hội An), vận dụng các phương pháp mô tả, so sánh, thông kê, phân tích với nguồn số liệu được thu thập từ niên giám thống kê, các báo cáo của Ủy ban nhân dân tỉnh, các Sở, ban ngành trong tỉnh, thành phố và từ các nguồn khác. 5. Kết cấu nội dung của đề tài Đề tài gồm 3 chương: Chương 1: Khái quát về việc thu hút khách du lịch quốc tế và kinh nghiệm của một số nước. Chương 2: Thực trạng thu hút khách du lịch quốc tế đến Hội An giai đoạn 2000 - 2010. Chương 3: Một số giải pháp đẩy mạnh thu hút khách du lịch quốc tế đến Hội An giai đoạn 2010 - 2020. Tác giả xin gửi lời cảm ơn đến các thầy cô của trường Đại học Ngoại Thương đã nhiệt tình giảng dạy và cung cấp những kiến thức bổ ích làm nền tảng cho khóa luận. Tác giả cũng xin cảm ơn Tổng Cục Du lịch (TCDL), Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Quảng Nam (VH, TT&DL), Phòng Thương mại - Du lịch (TM - DL) thành phố Hội An, Phòng Thống kê thành phố Hội An đã giúp đỡ, cung cấp các tài liệu phục vục cho việc nghiên cứu đề tài. Đặc biệt, tác giả muốn bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến giáo viên hướng dẫn TS. Vũ Hoàng Nam đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ tác giả hoàn thành khóa luận. Do sự hạn chế về thời gian cũng như kiến thức, nên dù đã cố gắng hết sức, khóa luận tốt nghiệp cũng không thể tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót. Tác giả rất mong muốn nhận được sự đóng góp ý kiến từ quý thầy cô và người đọc để khóa luận được hoàn thiện hơn. Sinh viên thực hiện Lê Thị Thu Huyền CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ VIỆC THU HÚT KHÁCH DU LỊCH QUỐC TẾ VÀ KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ NƯỚC I. Khái niệm khách du lịch quốc tế và ý nghĩa của việc thu hút khách du lịch quốc tế 1. Các khái niệm Du lịch hiện nay đã trở thành một hiện tượng kinh tế - xã hội phổ biến. Theo Tổ chức Du lịch Thế giới (UNWTO) thì năm 2000 số lượng khách du lịch toàn cầu là 698 triệu lượt người, thu nhập là 467 tỷ USD, năm 2002 lượng khách là 716,6 triệu lượt, thu nhập là 474 tỷ USD; năm 2010 lượng khách là 935 triệu lượt và thu nhập là 900 tỷ USD, dự tính đến hết năm 2011 lượng khách tăng 4-5% ước đạt khoảng 1.006 triệu lượt và đạt mức doanh thu khoảng gần 100 tỷ USD (Nguyễn Văn Đính và Trần Thị Minh Hòa 2008). ` Khái niệm du lịch Mặc dù hoạt động du lịch có nguồn gốc hình thành từ rất lâu và phát triển với tốc độ rất nhanh như vậy, nhưng cho đến nay khái niệm “du lịch” được hiểu rất khác nhau tại các quốc gia khác nhau và dưới nhiều góc độ khác nhau. Bản thân khái niệm “du lịch” có ý nghĩa đầu tiên là sự khởi hành và lưu trú tạm thời của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của họ. Từ “du lịch” được định nghĩa lần đầu tiên tại Anh như sau: “Du lịch là sự phối hợp nhịp nhàng giữa lý thuyết và thực hành của (các) cuộc hành trình với mục đích giải trí. Ở đây sự giải trí là động cơ chính (Nguyễn Văn Đính và Trần Thị Minh Hòa 2008).” Tổ chức Du lịch Thế giới (UNWTO) định nghĩa về “du lịch” như sau: “ Du lịch là hành động rời khỏi nơi thường trú để đi đến một nơi khác, một môi trường khác trong một thời gian ngắn nhằm mục đích tìm hiểu, khám phá, vui chơi, giải trí, nghỉ dưỡng. Du lịch bao gồm mọi hoạt động của những người du hành, tạm trú trong mục đích tham quan, khám phá và tìm hiểu, trải nghiệm hoặc trong mục đích nghỉ ngơi, giải trí, thư giãn, cũng như mục đích hành nghề và những mục đích khác nữa, trong thời gian liên tục nhưng không vượt quá một năm, ở bên ngoài môi trường sống định cư, nhưng loại trừ các du hành mà có mục đích là thu lợi nhuận. Trong Pháp lệnh Du lịch của Việt Nam, tại Điều 10, thuật ngữ “du lịch” được hiểu như sau: “Du lịch là hoạt động của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm thỏa mãn nhu cầu tham quan, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định.” Giáo sư, tiến sỹ Hunziker và giáo sư, tiến sỹ Kraft - hai người được coi là những người đặt nền móng cho lý thuyết về cung du lịch đưa ra các định nghĩa như sau: “Du lịch là tập hợp các mối quan hệ và các hiện tượng phát sinh trong các cuộc hành trình và lưu trú của những người ngoài địa phương, nếu việc lưu trú đó không thành cư trú thường xuyên và không dính dáng đến hoạt động kiếm lời”. Khái niệm du lịch quốc tế Du lịch quốc tế là sự dịch chuyển và lưu trú tạm thời của con người trong thời gian nhàn rỗi ở một quốc gia khác bên ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm mục đích tham quan, giải trí, nghỉ ngơi, chữa bệnh. Qua đó, con người có điều kiện phát triển thể chất và tinh thần, nâng cao nhận thức văn hóa, kèm theo việc tiêu thụ các giá trị tự nhiên, kinh tế và văn hóa qua các sản phẩm du lịch. Du lịch quốc tế mang tất cả các đặc điểm của du lịch nói chung cộng thêm yếu tố quốc tế. Đặc điểm của du lịch nói chung bao gồm (Nguyễn Thị Hồng Lâm 2006): Thứ nhất, du lịch có tính nhạy cảm, gồm nhiều bộ phận tạo thành nên trong quá trình cung cấp dịch vụ đối với du khách, nhà cung ứng cần bố trí chính xác về thời gian, có kế hoạch chu đáo chi tiết về nội dung các hoạt động, cần phải kết hợp một cách hữu cơ, chặt chẽ giữa các khâu. Mặt khác, các yếu tố như thiên nhiên, chính trị, kinh tế và xã hội đều có ảnh hưởng đến du lịch. Thảm họa chiến tranh, động đất, khủng bố, sa sút kinh tế đều gây ảnh hưởng lớn đối với sự phát triển du lịch. Thứ hai, du lịch mang tính đa ngành cao. Tính đa ngành được thể hiện qua đối tượng khai thác phục vụ cho hoạt động du lịch như sự hấp dẫn về cảnh quan tự nhiên, các giá trị lịch sử, văn hóa, cơ sở hạ tầng và các dịch vụ kèm theo. Du lịch sẽ không phát triển nếu không có sự trợ giúp của các ngành kinh tế - xã hội khác như bảo hiểm, y tế, giao thông vận tải. Ngược lại, du lịch cũng mang lại nguồn thu cho nhiều ngành kinh tế khác nhau thông qua các sản phẩm, dịch vụ cung cấp cho khách du lịch. Thứ ba, du lịch mang tính đa thành phần. Thành phần tham gia trong hoạt động kinh doanh du lịch gồm: khách du lịch, những người quản lý và phục vụ du lịch, cộng đồng dân cư, các tổ chức xã hội. Do đặc tính đa thành phần trên đây mà có nhiều loại hình du lịch dịch vụ ra đời, đáp ứng nhu cầu phong phú đa dạng của du khách. Thứ tư, do ảnh hưởng của yếu tố địa lý tự nhiên, thời tiết khí hậu nên du lịch hầu hết các nước đều mang tính thời vụ đặc trưng. Tại điểm du lịch, điều kiện khí hậu có ảnh hưởng rất lớn đối với sự hình thành tính thời vụ du lịch. Ngoài ra, tính thời vụ của du lịch có liên quan mật thiết tới việc sắp xếp ngày nghỉ của nhân viên, các kì nghỉ của học sinh, sinh viên, sự bố trí này có ảnh hưởng đáng kể đến hoạt động của du lịch. Thứ năm, du lịch mang tính liên vùng, biểu hiện thông qua các tuyến du lịch với một quần thể các điểm du lịch trong một khu vực, trong một quốc gia hay giữa các quốc gia với nhau. Mỗi một điểm du lịch đều có những điểm hấp dẫn, độc đáo riêng, song nó không thể tách khỏi xu thế thời đại và sự phát triển chung của khu vực và quốc gia. Hoạt động du lịch ở một vùng, một quốc gia khó có thể phát triển nếu không có sự liên kết các tuyến, điểm du lịch trong phạm vi quốc gia và toàn thế giới. Thứ sáu, du lịch còn mang tính chi phí và tính tổng hợp cao. Mục đích của du khách du lịch là hưởng thụ các sản phẩm du lịch, do vậy họ sẵn sàng trả những khoản chi phí trong chuyến đi của mình về các khoản dịch vụ như: ăn uống, ngủ nghỉ, đi lại và nhiều chi phí khác nhằm thực hiện mục đích vui chơi, giải trí, tham quan. Về tính tổng hợp, sản phẩm du lịch là sản phẩm tổng hợp được biểu hiện bằng nhiều loại hình dịch vụ. Phạm vi hoạt động của ngành kinh tế du lịch bao gồm các khách sạn, giao thông, nhà hàng, dịch vụ bán đồ lưu niệm. Ngoài ra còn có bộ phận sản xuất tư liệu phi vật chất như văn hóa, giáo dục, tôn giáo, hải quan, tài chính, bưu điện. Khái niệm khách du lịch quốc tế Khoản 3 (Điều 34, chương 1) của Luật Du lịch Việt Nam 2005 quy định: “Khách du lịch quốc tế là người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài vào Việt Nam du lịch; công dân Việt Nam, người nước ngoài thường trú tại Việt Nam ra nước ngoài du lịch”. Theo định nghĩa UNWTO đưa ra thì: Khách du lịch quốc tế là bất kỳ một người nào đó đi ra khỏi nước người đó cư trú thường xuyên và ngoài môi trường sống thường xuyên của họ với thời gian liên tục ít hơn 12 tháng với mục đích của chuyến đi là không phải đến đó để nhận thù lao (hay nói cách khác là không phải để kiếm sống), không bao gồm các trường hợp sau (Tổng Cục Thống kê, 2001): - Những người đến và sống ở nước ngoài này như một người cư trú thường xuyên ở nước đó kể cả những người đi theo sống dựa vào họ. - Những người công nhân cư trú ở gần biên giới nước này nhưng lại làm việc cho một nước khác ở gần biên giới nước đó. - Những nhà ngoại giao, tư vấn và các thành viên lực lượng vũ trang ở nước khác đến theo sự phân công bao gồm cả những người ở và những người đi theo sống dựa vào họ. - Những người đi theo dạng tị nạn hoặc du mục. - Những người quá cảnh mà không vào nước đó (chỉ chờ chuyển máy bay ở sân bay) thông qua kiểm tra hộ chiếu như những hành khách transit ở lại trong thời gian rất ngắn ở ga sân bay, hoặc là những hành khách trên thuyền đỗ ở cảng mà không được phép lên bờ. 2. Động cơ của khách du lịch quốc tế Chúng ta biết rằng mọi hành động của con người đều do những động cơ bên trong thúc đẩy mà bản thân những động cơ đó lại do những nhu cầu nội lực tiềm tàng của con người sản sinh ra. Trên thế giới có rất nhiều lý thuyết khác nhau nghiên cứu về nhu cầu của con người, mà lý thuyết nổi tiếng nhất, được biết đến nhiều nhất là lý thuyết của Maslow về nhu cầu của con người, mà theo đó con người có 5 nhu cầu cơ bản sau (theo thứ tự từ thấp đến cao): nhu cầu cơ bản, nhu cầu về an toàn, nhu cầu về xã hội, nhu cầu được tôn trọng, và cuối cùng là nhu cầu tự hoàn thiện. Tuy nhiên, để hiểu một cách đầy đủ và chính xác về nhu cầu du lịch của con người thì ngoài việc nghiên cứu những nhu cầu nói chung của con người theo thang cấp bậc, ta còn phải nghiên cứu ở một khía cạnh nữa từ việc thống kê, nghiên cứu các mục đích và động cơ chính của con người khi đi du lịch. Căn cứ vào việc thống kê và nghiên cứu những mục đích chính của các chuyến hành trình du lịch, các chuyên gia về du lịch đã phân loại thành các nhóm động cơ đi du lịch gắn với các mục đích cụ thể như sau (Nguyễn Văn Đính và Trần Thị Minh Hòa 2008 ): Bảng 1.1: Nhóm động cơ đi du lịch của con người Nhóm động cơ  Mục đích   Nhóm 1: Động cơ nghỉ ngơi  Giải trí, phục hồi tâm sinh lý, tiếp cận gần gũi với thiên nhiên, thay đổi môi trường sống    Thể thao    Văn hóa, giáo dục   Nhóm 2: Động cơ nghề nghiệp  Tìm hiểu cơ hội kinh doanh kết hợp với giải trí    Thăm viếng ngoại giao    Công tác   Nhóm 3: Các động cơ khác  Thăm viếng người thân    Nghỉ tuần trăng mật    Chữa bệnh    Bắt chước, coi du lịch là “mốt”    “Chơi trội” để tập trung sự chú ý của những người xung quanh   Nguồn: Giáo trình kinh tế Du lịch (2008) Tựu trung lại, chúng ta có thể thấy nhu cầu du lịch là một loại nhu cầu đặc biệt, thứ cấp và tổng hợp của con người. Đặc biệt là do nó khác những nhu cầu hàng ngày của con người, khi đi du lịch con người ta thường chi tiêu nhiều hơn, đòi hỏi được phục vụ với chất lượng cao hơn nhiều cho việc thỏa mãn những nhu cầu của mình. Thứ cấp vì con người ta chỉ có thể nghĩ đến du lịch khi đã thỏa mãn những nhu cầu cần thiết, tối cần thiết hàng ngày như cơm ăn, áo mặc. Và tổng hợp là vì trong một chuyến hành trình du lịch thường con người đòi hỏi phải thỏa mãn nhiều nhu cầu khác nhau, mà để thỏa mãn chúng cần có sự kết hợp dịch vụ của nhiều ngành, nhiều lĩnh vực khác nhau trong một khoảng thời gian nhất định. Hơn nữa, do khi đi du lịch tức là con người ta phải rời khỏi nơi cư trú thường xuyên của mình, nên chúng ta có thể thấy nhu cầu du lịch được hình thành và phát triển dựa trên nền tảng của nhu cầu sinh lý (sự đi lại) và các nhu cầu tinh thần (nhu cầu nghỉ ngơi, tự khẳng định, nhận thức, giao tiếp). 3. Ý nghĩa của việc thu hút khách du lịch quốc tế 3.1. Ý nghĩa về mặt kinh tế 3.1.1. Tăng GDP cho đất nước Du lịch quốc tế phát triển sẽ góp phần tăng tỷ trọng GDP của ngành du lịch trong khu vực dịch vụ, theo đó làm tăng GDP của nền kinh tế quốc dân. Ở đâu du lịch phát triển, đặc biệt là du lịch quốc tế thì ở đó diện mạo đô thị, nông thôn được chỉnh trang, sạch đẹp hơn, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt, mức sống của nhân dân được nâng cao. Hơn nữa, hoạt động du lịch quốc tế còn tạo ra khả năng tiêu thụ tại chỗ cho hàng hóa và dịch vụ, thúc đẩy các ngành khác phát triển, khôi phục nhiều lễ hội và nghề thủ công truyền thống, góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế cả nước và từng địa phương, tăng thu nhập, xóa đói giảm nghèo và vươn lên làm giàu, mở rộng giao lưu giữa các vùng, miền trong nước và với nước ngoài.  3.1.2. Đem lại ngoại tệ cho đất nước Khách du lịch quốc tế mang theo tiền kiếm được từ quốc gia cư trú đến tiêu ở nước đến du lịch, trong chừng mực nào đó được coi là xuất khẩu của nước đến du lịch, do đó giúp cải thiện cán cân thương mại quốc gia. Vì vậy, nếu du lịch quốc tế được duy trì một cách thường xuyên và phù hợp thì nó có thể được coi như một tác nhân giữ ổn định nguồn thu ngoại tệ từ xuất khẩu. Các nước đang phát triển như Việt Nam cần du khách quốc tế đến đất nước đông hơn số công dân nước mình đi du lịch ra nước ngoài. Đây là lợi thế nhằm cải thiện cán cân thương mại do công dân trong nước có thu nhập thấp ít có điều kiện đi du lịch ra nước ngoài. 3.1.3. Là một hoạt động xuất khẩu đạt hiệu quả cao Tính hiệu quả cao trong kinh doanh du lịch đặc biệt là kinh doanh du lịch quốc tế thể hiện ở chỗ du lịch quốc tế là một ngành “xuất khẩu tại chỗ” những hàng hóa công nghiệp, hàng tiêu dùng, thủ công mỹ nghệ, đồ cổ phục chế, nông lâm sản theo giá bán lẻ cao hơn giá xuất khẩu (nếu như bán qua xuất khẩu sẽ theo giá bán buôn). Thông thường, khách quốc tế khi đi ra nước ngoài du lịch, họ đều muốn mua những sản phẩm địa phương tại nước sở tại để mang về làm quà cho bạn bè, người thân hoặc để lưu giữ lại kỷ niệm của những vùng đất mà họ đã từng đặt chân đến. Vì thế, các hàng hóa mà được trao đổi thông qua con đường du lịch quốc tế sẽ được xuất khẩu mà không phải chịu hàng rào thuế quan mậu dịch quốc tế. Du lịch quốc tế không chỉ là ngành “xuất khẩu tại chỗ ”, mà còn là ngành “xuất khẩu vô hình” hàng hóa du lịch. Đó là các cảnh quan thiên nhiên khí hậu và ánh nắng mặt trời vùng nhiệt đới, những giá trị của những di tích lịch sử - văn hóa, tính độc đáo trong truyền thống phong tục, tập quán mà không bị mất đi qua mỗi lần “bán” mà thậm chí giá trị và uy tín của nó còn tăng lên qua mỗi lần đưa ra thị trường nếu như chất lượng phục vụ du lịch cao. Sở dĩ có hiện tượng đó là do chúng ta “bán” cho khách không phải là bản thân tài nguyên du lịch mà chỉ là giá trị các khả năng thỏa mãn nhu cầu đặc trưng của khách du lịch được chứa đựng trong tài nguyên du lịch. Khách du lịch quốc tế khi về lại nước mình sẽ quảng bá thêm cho nước mà khách đến du lịch qua con đường truyền miệng nếu chất lượng phục vụ du lịch mang
Luận văn liên quan