Sự hợp tác và tham gia phân công lao động quốc tế tăng lên không những làm cho trao đổi hàng hoá trong nước gia tăng mà còn làm cho trao đổi hang hoá và dịch vụ giữa các nước phát triển.Xu hướng chung hiện nay là sự liên kết kinh tế giữa các nước ngày càng chặt chẽ và hình thành một thị trường thống nhất. Các quốc gia có vai trò như một chủ thể kinh tế trên thị trường và cạnh tranh nhau để phát triển. Tuy nhiên, sự cạnh tranh để phát triển tự nó lại phát sinh nhu cầu hợp tác và phân công lao động quốc tế nhằm giải quyết những nhu cầu về tiền vốn, công nghệ, nhân lực, tài nguyên và thị trường tiêu thụ.
Trước thời kỳ đổi mới, nền kinh tế nước ta thực chất là một nền kinh tế tự cung tự cấp, khép kín với thị trường thế giới và chia cắt giữa các địa phương trong nước. Cơ chế hoạt động kinh tế đối ngoại trong thời kỳ này là kế hoạch hóa cứng nhắc theo Nghị định thư và nhà nước độc quyền ngoại thương cả về phươg diện quản lý nhà nước XHCN, dưới các hình thức: Viện trợ nhân đạo, hoặc giá cả tượng trưng, hữu nghị. Cho nên các được các đơn vị, các ngành sản xuất khẩu có chất lượng, nhập khẩu cũng không được chú trọng đúng mức. Với tính chất và đặc điểm của hoạt động kinh tế đối ngoại như vậy, thực chất chúng ta đã duy trì quá lâu một hệ thống kinh tế lạc hậu cứng nhắc, trong đó có hệ thống thanh toán quốc tế của Ngân hàng.
Để điều tiết lợi ích kinh tế, nhà nước áp dụng lấy thu bù chênh lệch ngoại thương trên cơ sở một tỷ gía được ấn định trong một thời gian dài, nếu chi phí thực tế thấp hơn hoặc cao hơn tỷ giá quy định sẽ được Ngân Hàng Nhà Nước cấp bù hoặc thu về. Do vậy cũng không khuyến khích được các công ty hạch toán theo đúng thực chất mà còn mang tính thụ động trông chờ vào Nhà Nước. Trong khi đó nền kinh tế hàng hoá tạo ra cái gọi là “ lợi thế so sánh ”, trong quan hệ buôn bán và hợp tác tái sản xuất giữa các vùng, các quốc gia với nhau. Mỗi nước đều có thể tìm ra thế mạnh tương đối của mình trong phân công lao động quốc tế và mở rộng trao đổi với các nước khác trên phạm vi toàn cầu. Với quan điểm “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước, chiến lược cùng cất cánh (Theo Kinh Tế-Xã Hội Việt Nam Năm 2000 : Mục tiêu, phương hướng và biện pháp chủ yếu - Uỷ ban khoa học nhà nước 12/1990), sự hoà nhập của Việt Nam vào cộng đồng thế giới văn minh trong giai đoạn hiện nay là hết sức cần thiết, phù hợp với xu thế chung của thời đại.
Vì vậy mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại là một chiến lược không thể thiếu được trong thời kỳ đổi mới, là con đường thực hiện các mục tiêu tăng trưởng kinh tế, phát huy lợi thế của đất nước, đưa đất nước vào một thời kỳ phát triển nhanh hơn, toàn diện hơn. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, thực hiện chính sách mở cửa, tổ chức tốt công tác thanh toán quốc tế sẽ thúc đẩy hoạt động nhập khẩu, không ngừng thúc đẩy hoạt động kinh tế đối ngoại.
78 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2431 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Các phương thức thanh toán chủ yếu được áp dụng trong thanh toán Quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chương I
Những vấn đề cơ bản về thanh toán quốc tế
theo phương thức tín dụng chứng từ
I. thanh toán Quốc tế nhiệp vụ quan trọng của ngân hàng thương mại trong phục vụ kinh tế đối ngoại
1. Tầm quan trọng của kinh tế đối ngoại trong sự nghiệp đổi mới nền kinh tế nước ta
Sự hợp tác và tham gia phân công lao động quốc tế tăng lên không những làm cho trao đổi hàng hoá trong nước gia tăng mà còn làm cho trao đổi hang hoá và dịch vụ giữa các nước phát triển.Xu hướng chung hiện nay là sự liên kết kinh tế giữa các nước ngày càng chặt chẽ và hình thành một thị trường thống nhất. Các quốc gia có vai trò như một chủ thể kinh tế trên thị trường và cạnh tranh nhau để phát triển. Tuy nhiên, sự cạnh tranh để phát triển tự nó lại phát sinh nhu cầu hợp tác và phân công lao động quốc tế nhằm giải quyết những nhu cầu về tiền vốn, công nghệ, nhân lực, tài nguyên và thị trường tiêu thụ...
Trước thời kỳ đổi mới, nền kinh tế nước ta thực chất là một nền kinh tế tự cung tự cấp, khép kín với thị trường thế giới và chia cắt giữa các địa phương trong nước. Cơ chế hoạt động kinh tế đối ngoại trong thời kỳ này là kế hoạch hóa cứng nhắc theo Nghị định thư và nhà nước độc quyền ngoại thương cả về phươg diện quản lý nhà nước XHCN, dưới các hình thức: Viện trợ nhân đạo, hoặc giá cả tượng trưng, hữu nghị... Cho nên các được các đơn vị, các ngành sản xuất khẩu có chất lượng, nhập khẩu cũng không được chú trọng đúng mức. Với tính chất và đặc điểm của hoạt động kinh tế đối ngoại như vậy, thực chất chúng ta đã duy trì quá lâu một hệ thống kinh tế lạc hậu cứng nhắc, trong đó có hệ thống thanh toán quốc tế của Ngân hàng.
Để điều tiết lợi ích kinh tế, nhà nước áp dụng lấy thu bù chênh lệch ngoại thương trên cơ sở một tỷ gía được ấn định trong một thời gian dài, nếu chi phí thực tế thấp hơn hoặc cao hơn tỷ giá quy định sẽ được Ngân Hàng Nhà Nước cấp bù hoặc thu về. Do vậy cũng không khuyến khích được các công ty hạch toán theo đúng thực chất mà còn mang tính thụ động trông chờ vào Nhà Nước. Trong khi đó nền kinh tế hàng hoá tạo ra cái gọi là “ lợi thế so sánh ”, trong quan hệ buôn bán và hợp tác tái sản xuất giữa các vùng, các quốc gia với nhau. Mỗi nước đều có thể tìm ra thế mạnh tương đối của mình trong phân công lao động quốc tế và mở rộng trao đổi với các nước khác trên phạm vi toàn cầu. Với quan điểm “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước’, chiến lược ‘ cùng cất cánh ’ (Theo Kinh Tế-Xã Hội Việt Nam Năm 2000 : Mục tiêu, phương hướng và biện pháp chủ yếu - Uỷ ban khoa học nhà nước 12/1990), sự hoà nhập của Việt Nam vào cộng đồng thế giới văn minh trong giai đoạn hiện nay là hết sức cần thiết, phù hợp với xu thế chung của thời đại.
Vì vậy mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại là một chiến lược không thể thiếu được trong thời kỳ đổi mới, là con đường thực hiện các mục tiêu tăng trưởng kinh tế, phát huy lợi thế của đất nước, đưa đất nước vào một thời kỳ phát triển nhanh hơn, toàn diện hơn. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, thực hiện chính sách mở cửa, tổ chức tốt công tác thanh toán quốc tế sẽ thúc đẩy hoạt động nhập khẩu, không ngừng thúc đẩy hoạt động kinh tế đối ngoại.
2. Ngân Hàng Thương Mại quốc Doanh với Tăng Trưởng kinh Tế Đối Ngoại
Trong điều kiện nhà nước áp dụng chính sách mở cửa và vận hành nền kinh tế theo cơ chế thị trường, các hoạt động kinh tế đối ngoại nói chung và ngoại thương nói riêng của nước ta đã có nhiều vận hội để phát triển nhanh chóng và thu được những thành tựu đáng khích lệ. Tốc độ xuất khẩu hàng năm trong những năm qua cao hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế của những năm trước gấp nhiều lần. Tình trạng nhập siêu giảm dần, mối quan hệ thị trường trong nước và thị trường ngoài nước gắn bó chặt chẽ với nhau hơn. Không những thế chính sách đổi mới của Đảng và Nhà Nước ta trong việc điều hành nền kinh tế đã tạo ra những thuận lợi cơ bản cho việc đổi mơí hoạt động Ngân Hàng, trước hết là đổi mới hệ thống Ngân Hàng thương mại quốc doanh.
Ngân hàng với tư cách là một tổ chức kinh tế đặc biệt đảm nhận vai trò ba trung tâm lớn: trung tâm tiền mặt, trung tâm tín dụng, và trung tâm thanh toán. Vì vậy, các tổ chức Ngân Hàng cũng là bạn hàng của các tổ chức sản xuất kinh doanh khác, là trợ thủ đắc lực của các nhà kinh doanh. Bản thân Ngân hàng cũng phải cạnh tranh để tồn tại và phát triển nên cũng cần tính đến việc mở rộng quan hệ đối ngoại, sử dụng có hiêụ quả công cụ thanh toán quốc tế góp phần đáng kể vào việc tăng trưởng kinh tế đối ngoại của đất nước.
Hiện nay, theo cơ chế thị trường các Ngân hàng thương mại quốc doanh hoạt động trong bối cảnh có nhiều ngân hàng cổ phần, chi nhánh Ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam, phải vừa thực hiên tốt chính sách quản lý của Nhà Nước, vừa là cầu nối giữa vốn nước ngòai và vốn trong nước phục vụ cho nền kinh tế quốc dân, cho hoạt của các đơn vị kinh tế, lại vừa phải kinh doanh có hiệu quả, rõ ràng không phải là vấn đề đơn giản. Vì vậy việc tăng cường quan hệ đối ngoại và thanh toán quốc tế của các Ngân Hàng được đặt ra không chỉ cho những năm vừa qua mà còn nhiều năm tới. Mở rộng thêm quan hệ với các ngân hàng trên thế giới, phục vụ yêu cầu đầu tư quốc tế vào đất nước ta ngày một tăng lên. Các ngân hàng đang rất quan tâm đến việc mở rộng mạng lưới, đại lý của các Ngân Hàng nước ngoài, cải tiến công nghệ Ngân hàng, thực hiện tốt thanh toán quốc tế với phương châm: “ nhanh chóng - chính xác - an toàn ”. Bên cạnh đó nâng cao trình độ của cán bộ nhân viên Ngân hàng để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế và quan hệ ngoại thương là một vấn đề hết sức cấp bách. Xử lý thuần thục kỹ thuật nghiệp vụ thanh toán quốc tế, thực hiện đúng đắn thông lệ quốc tế về thanh toán, thông thạo ngoại ngữ không những giúp cho việc thanh toán chính xác, nhanh chóng mà còn góp phần nâng cao uy tín của Ngân Hàng.
3. Thanh toán quốc tế với việc phục vụ thanh toán tiền hàng hoá dịch vụ trong quan hệ thương mại quốc tế.
Các hoạt động xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ không bao giờ tách rời nhau mà chúng thường có mối liên quan với nhau. Việc mua hàng xuất bán hàng nhập bằng nội tệ trên thị trường trong nước là khâu mở đầu và kết thúc cho việc bán hàng xuất và mua hàng nhập bằng ngoại tệ trên thị trường trong nước là khâu mở đầu và kết thúc cho việc bán hàng xuất và mua hàng nhập bằng ngoại tệ trên thị trường thế giới. Xuất khẩu là hành vi nội tệ biến thành hàng xuất khẩu lấy ngoại tệ và nhập khẩu là hành vi ngoại tệ chuyển hóa thành hàng nhập khẩu. Toàn bộ xuất nhập khẩu của một nước ký kết với nhau trong một hu kỳ khép kín, chu kỳ có dạng “ Nội tệ- Hàng xuất khẩu- Ngoại tệ- Hàng nhập khẩu”. Đó là một quan hệ giữa hàng hóa nhập khẩu và hàng hoá xuất khẩu, giữa giá ngoại tệ và giá ngoại tệ. Các quan hệ hàng hoá và tiền tệ nói trên chỉ có thể thực hiện được thông qua trao đổi quốc tế.
Trong chu kỳ này, khâu thu chi đối với xuất khẩu có ý nghĩa rất quan trọng, vì hàng hóa không thu được ngoại tệ và ngược lại chi ngoại tệ nhưng không nhập khẩu được hàng hoá đã dẫn đến thiệt hại trong hoạt động thương mại.
Để đảm bảo việc thu chi ngoại tệ có kết quả tốt, các nhà kinh doanh xuất nhập khẩu đều phải thành thạo công tác thanh toán quốc tế, thanh toán quốc tế là việc chi trả tiền tệ giữa các đối tác thuộc các nước khác nhau trong quan hệ kinh tế quốc tế, thực hiện theo đúng các điều kiện và phương thức thanh toán đã được các bên thoả thuận ghi trong hợp đồng ngoại thương, được tiến hành thông qua Ngân hàng giữa các nước có liên quan có khách hàng buôn bán với nhau. Cụ thể các điều kiện đó là: Điều kiện về địa điểm, về tiền tệ, thơì gian, và về phương thức thanh toán. Trong đó phương thức thanh toán là điều kiện quan trọng nhất. Phương thức thanh toán là người áp dụng cách nào đó để thu tiền về, người mua dùng cách nào đó để trả tiền.
Trong buôn bán người ta có thể chọn nhiều phương thức thanh toán khác nhau nhưng xét cho đến cùng việc lựa chọn phương thức nào cũng xuất phát từ yêu cầu của người mua là nhận hàng kịp thời, đúng số lượng và chất lượng.Nhìn chung, các thể thức thanh toán quốc tế thường tách rời với sự di chuyển từ người bán tới người mua. Nó phản ánh sự vận dộng có tính chất độc lập tương đối của giá trị trong quá trình chu chuyển hàng hoá và tiền tệ của các quốc gia do sự không đồng thời giữa sản xuất và tiêu thụ, đầu tư tín dụng giữa các bên tại thời điểm nhất định. thanh toán quốc tế có quan hệ trực tiếp đén lợi ích cả bên mua và bên bán. Vì vậy nó thường là một trong những đối tượng quan trọng trong việc đàm phán và ký kết các hợp đồng mua bán thương mại. Nếu công tác thanh toán quốc tế làm tốt sẽ góp phần thúc đẩy thương mại phát triển, nếu làm không tốt sẽ làm kìm hãm sự phát triển của thương mại
4. Sự cần thiết của thanh thanh toán quốc tế trong nền kinh tế thị trường
Trong hoạt động thương mại Quốc tế, việc thanh toán có thể diễn ra dưới các hình thức như hàng đổi hàng hay chi trả bằng tiền tệ. Khi chế độ tiền tệ, tín dụng phát triển thành một hệ thống thanh toán hoàn chỉnh và dựa trên cơ sở hệ thống các Ngân hàng thương mại thì các Ngân hàng thương mại đảm nhiệm toàn bộ quá trình thanh toán này.
Thanh toán Quốc tế phản ánh sự vận động có tính chất độc lập tương đối của giá trị hàng hoá trong quá trình chu chuyển Tư bản giữa các Quốc gia và sự không cân bằng giữa sản xuất, tiêu thụ, đầu tư tín dụng giữa các bên tại một thời điểm nhất định.
5. Vai trò của thanh toán quốc tế đối với việc phát triển kinh tế đối ngoại ở Việt Nam
Với sự tham gia mạnh mẽ của giao lưu kinh tế Quốc tế, mối liên hệ giữa các Quốc gia ngày càng mật thiết và dần dần hình thành một thị trường thế giới thống nhất. Các Quốc gia có vai trò như một chủ thể kinh tế trên thị trường cạnh tranh với nhau để phát triển.
Tham gia vào quá trình phân công lao động Quốc tế các Quốc gia có điều kiện tốt nhất để phát triển kinh tế do khả năng tận dụng được các thành quả kỹ thuật công nghệ tiên tiến trên thế giới, giải quyết được những khó khăn về tiền vốn, nhân lực, tài nguyên và thị trường tiêu thụ hàng hoá. Thực tế cho thấy các nước phát triển đều là nước tham gia mạnh mẽ vào phân công lao động Quốc tế.
Việt Nam xây dựng đất nước từ một nước nông nghiệp lạc hậu, cơ sở vật chất nghèo nàn. Để bổ sung những yếu kém đó, chúng ta phải tranh thủ nền khoa học kỹ thuật tiên tiến của các nước phát triển. Chúng ta đang trên con đường cải cách và mở cửa nền kinh tế với tinh thần muốn làm bạn với tất cả các nước trên nguyên tắc hợp tác cùng có lợi.
Chúng ta đang nỗ lực tạo lập một môi trường thuận lợi cho quá trình hợp tác và phân công lao động Quốc tế trong đó tập trung vào việc cải tạo cơ sở hạ tầng, dịch vụ thông tin, dịch vụ Ngân hàng và thanh toán Quốc tế.
Về hoạt động Ngân hàng sau khi có Pháp lệnh Ngân hàng và Công ty tài chính, Hợp tác xã tín dụng ra đời. Chúng ta có hệ thống Ngân hàng hoạt động theo cơ chế thị trường, đáp ứng tốt hơn quá trình lưu thông tiền tệ tín dụng vì thông qua nó thì giá trị hàng hoá Xuất Nhập khẩu mới được thực hiện qua các khoản tín dụng, đầu tư hay mọi giao dịch đối ngoại.
Với chính sách mở cửa hướng ngoại đòi hỏi chúng ta phải tổ chức tốt hoạt động ngân hàng đối ngoại, đặc biệt là khâu thanh toán Quốc tế để đảm bảo mọi điều kiện thuận lợi cho quá trình hợp tác và phân công lao động Quốc tế của Việt Nam ngày càng phát triển.
Thanh toán Quốc tế là khâu cuối cùng của quá trình lưu thông hàng hoá và dịch vụ. Do ảnh hưởng của các yếu tố tiền tệ, tín dụng, ngân hàng, sự khác biệt về ngôn ngữ, tập quán cũng như khả năng kiểm soát toàn bộ quá trình sản xuất cho đến việc lưu thông hàng hoá mà thanh toán Quốc tế còn gặp khó khăn và phức tạp. Nếu nghiệp vụ thanh toán không đáp ứng và theo kịp với nhu cầu phát triển kinh tế thì nó sẽ là nhân tố kìm hãm sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế.
II/ Các phương thức thanh toán chủ yếu được áp dụng trong thanh toán Quốc tế.
1. Phương thức chuyển tiền (Remittance):
a/ Khái niệm:
Phương thức chuyển tiền là phương thức thanh toán trong đó khách hàng (người trả tiền) yêu cầu Ngân hàng của mình chuyển một số tiền nhất định cho một người khác (người hưởng lợi) ở một địa điểm nhất định bằng phương tiện chuyển tiền.
Các bên tham gia:
- Người trả tiền (Người mua, người mắc nợ) hoặc người chuyển tiền
(người đầu tư, kiều bào chuyển tiền về nước, người chuyển kinh phí ra ngoài nước) là người yêu cầu Ngân hàng chuyển tiền ra nước ngoài.
- Người hưởng lợi (người bán, chủ nợ, người tiếp nhận vốn đầu tư) hoặc là người nào đó do người chuyển tiền chỉ định.
- Ngân hàng chuyển tiền là Ngân hàng ở nước Người chuyển tiền.
- Ngân hàng đại lý của ngân hàng chuyển tiền là ngân hàng ở nước người hưởng lợi.
b./ Trình tự tiến hành nghiệp vụ:
Ngân hàng
chuyển tiền
Ngân hàng đại lý
Người chuyển tiền
Người hưởng lợi
(3) (3)
(2) (4)
(1)
(1) Giao dịch thương mại
(2) Viết đơn yêu cầu chuyển tiền (bằng thư hoặc bằng điện) cùng với ủy nhiệm chi (nếu có tài khoản mở tại Ngân hàng)
(3) Chuyển tiền ra nước ngoài qua Ngân hàng
(4) Ngân hàng chuyển tiền cho Người hưởng lợi.
c. Trường hợp áp dụng:
* Trả tiền hàng nhập khẩu với nước ngoài cần chú ý:
+ Lúc nào thì chuyển tiền: thường là sau khi nhận xong hàng hoá hoặc là sau khi nhận được chứng từ gửi hàng.
+ Số tiền được chuyển dựa vào: Trị giá của hoá đơn thương mại hoặc kết quả của việc nhận hàng về số lượng và chất lượng để quy ra số tiền phải chuyển.
+ Chuyển tiền bằng thư chậm hơn chuyển tiền bằng điện.
+ Nên hạn chế áp dụng trong thanh toán hàng xuất khẩu với nước ngoài vì dễ bị người mua chiếm dụng vốn.
* Thanh toán trong lĩnh vực thương mại và các chi phí có liên quan đến xuất nhập khẩu hàng hoá.
* Chuyển vốn ra nước ngoài để đầu tư hoặc chi tiêu phi thương mại.
Chuyển kiều hối.
d. Các yêu cầu về chuyển tiền :
* Muốn chuyển tiền phải có giấy phép của Bộ chủ quản hoặc bộ tài chính. Chuyển tiền thanh toán trong ngoại thương phải có:
+ Hợp đồng mua bán ngoại thương
+ Giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu
+ Uỷ nhiệm chi ngoại tệ và phí chuyển tiền.
+ Đơn xin chuyển tiền.
Trên đơn chuyển tiền gửi đến Vietcombank hoặc một ngân hàng thương mại được phép thanh toán Quốc tế cần ghi đủ:
- Tên, địa chỉ của người hưởng lợi, số tài khoản nếu người hưởng lợi yêu cầu.
- Số ngoại tệ xin chuyển cần ghi rõ bằng số và bằng chữ, loại ngoại tệ.
- Lý do chuyển tiền
- Những yêu cầu khác
- Ký tên đóng dấu.
2. Phương thức nhờ thu (Collecection of payment):
a. Khái niệm :
Phương thức nhờ thu là một phương thức thanh toán trong đó người bán hoàn thành nghĩa vụ giao hàng hoặc cung ứng một dịch vụ cho khách hàng uỷ thác cho ngân hàng của mình thu hộ số tiền ở người mua trên cơ sở hối phiếu của người bán lập ra.
Các bên tham gia phương thức nhờ thu gồm có:
- Người bán tức là người hưởng lợi
- Ngân hàng bên bán tức là Ngân hàng nhận uỷ thác của người bán
- Ngân hàng đại lý của ngân hàng bên bán là Ngân hàng ở nước người mua
- Người mua tức là người trả tiền
b. Các loại nhờ thu:
b.1 Nhờ thu phiếu trơn (clean collection) Là phương thức trong đó người bán uỷ thác cho Ngân hàng thu hộ tiền ở người mua căn cứ vào hối phiếu do mình lập ra, còn chứng từ gửi hàng thì gửi thẳng cho người mua không qua Ngân hàng.
Trình tự tiến hành nghiệp vụ của nhờ thu phiếu trơn phải trải qua các bước sau :
(1) Người bán sau khi gửi hàng và chứng từ gửi hàng cho người mua, lập một hối phiếu đòi tiền người mua và uỷ thác cho ngân hàng của mình đòi tiền hộ bằng chỉ thị nhờ thu.
(2) Ngân hàng phục vụ bên bán gưỉ chỉ thị nhờ thu kèm hối phiếu cho Ngân hàng đại lý của mình ở nước người mua nhờ thu tiền.
(3) Ngân hàng đại lý yêu cầu người mua trả tiền hối phiếu nếu trả tiền ngay hoặc chấp nhận trả tiền hối phiếu (nếu mua chịu).
(4) Ngân hàng đại lý chuyển tiền thu được cho người bán, nếu chỉ là chấp nhận hối phiếu thì Ngân hàng giữ hối phiếu hoặc chuyển giao lại cho người bán.
Khi đến hạn thanh toán, ngân hàng sẽ đòi tiền ở nước người mua và thực hiện việc chuyển tiền như trên.
Sơ đồ trình tự nghiệp vụ nhờ thu phiếu trơn
Ngân hàng phục vụ bên bán
(2)
(4)
Ngân hàng
phục vụ
bên mua
(1) (4) (4) (3)
Người bán
Gửi hàngvà chứng từ
Người mua
(1). Nhờ thu hối phiếu
(2,3) Đòi tiền người mua
(4) Người mua trả tiền cho người bán
* Phương thức nhờ thu phiếu trơn thường được áp dụng trong những trong những trường hợp sau:
- Người bán và người mua tin cậy lẫn nhau hoặc là có quan hệ liên doanh với nhau giữa các công ty mẹ, công ty con hoặc chi nhánh của nhau;
- Thanh toán về các dịch vụ có liên quan tới xuất nhập khẩu hàng hoá vì việc thanh toán này không nhất thiết phải kèm theo chứng từ như tiền cước phí vận tải, bảo hiểm, phạt bồi thường v.v...
* Phương thức nhờ thu phiếu trơn không được áp dụng nhiều trong thanh toán về mậu dịch, vì nó không bảo đảm quyền lợi cho người bán, việc nhận hàng của người mua hoàn toàn tách rời khỏi khâu thanh toán, do đó người mua có thể nhận hàng và không trả tiền hoặc chậm trễ việc trả tiền. Đối với người mua áp dụng phương thức này có nhiều bất lợi, vì nếu hối phiếu đến sớm hơn chứng từ, người mua phải trả tiền ngay trong khi không biết việc giao hàng của người bán có đúng hợp đồng hay không.
b.2/ Nhờ thu kèm chứng từ (Documentary collection):
Sơ đồ trình tự nghiệp vụ nhờ thu kèm chứng từ:
Ngân hàng
phục vụ
bên bán
(3)
(6)
Ngân hàng
phục vụ
bên mua
(7) (2) (5) (4)
Người bán
Gửi hàng
(1)
Người mua
Là phương thức trong đó người bán uỷ thác cho Ngân hàng thu hộ tiền ở người mua không những căn cứ vào hối phiếu mà còn căn cứ vào bộ chứng từ gửi hàng kèm theo với điều kiện là nếu người mua trả tiền hoặc chấp nhận trả tiền hối phiếu thì Ngân hàng mới trao bộ chứng từ gửi hàng cho người mua để nhận hàng.
Trình tự tiến hành nghiệp vụ nhờ thu kèm chứng từ :
(1) Người bán giao hàng cho Người mua.
(2) lập một bộ chứng từ nhờ Ngân hàng thu hộ tiền. Bộ chứng từ gồm có hối phiếu và các chứng từ gửi hàng kèm theo.
(3) Ngân hàng phục vụ bên bán gửi chỉ thị nhờ thu kèm hối phiếu và chứng từ cho Ngân hàng đại lý của mình ở nước người mua nhờ thu tiền.
(4) Ngân hàng đại lý chỉ trao chứng từ gửi hàng cho người mua khi người mua trả tiền (D/P) hoặc chấp nhân trả tiền hối phiếu (D/P) (nếu hối phiếu trả chậm)
(5) Người mua trả tiền nhờ thu (trả tiền ngay hoặc trả tiền khi đến hạn)
(6) Nhận được tiền từ Người mua, Ngân hàng đại lý phục vụ bên mua trả tiền cho Ngân hàng nhờ thu (Ngân hàng bên bán) theo chỉ thị của Ngân hàng này.
(7) Nhận được tiền từ Ngân hàng phục vụ bên mua Ngân hàng nhờ thu phục vụ bên bán trả tiền cho bên bán (Người hưởng lợi).
Trong nhờ thu kèm chứng từ, người bán uỷ thác cho ngân hàng ngoài việc thu hộ tiền còn có việc nhờ Ngân hàng khống chế chứng từ gửi hàng đối với người mua. Đây là sự khác nhau cơ bản giữa nhờ thu kèm chứng từ và nhờ thu phiếu trơn. Với cách khống chế chứng từ này, quyền lợi người bán được bảo đảm hơn, tức là chỉ khi trả tiền hoặc chấp nhận trả tiền mới được nhận chứng từ đi nhận hàng.
3. Phuơng thức thanh toán bằng séc
Hình thức thanh toán sec là hình thức trong đó người mua (nhập khẩu) phát hành một tờ séc cho người bán khi người bán (xuất khẩu) hoàn thành nghĩa vụ giao hàng hoặc cung ứng dịch vụ
Tờ séc là một chỉ thị thanh toán bằng mẫu in sẵn của người phát hành cho ngân hàng của họđể thanh toán một số tiền như lệnh cho người hưởn dược chỉ định rõ tên trên sec hoặc người câm séc
Các bên tham gia thanh toán séc
- Người phát hành séc là người nhập khẩu hoặc người mắc nợ
Người thụ hưởng là nguời có tên trên tờ séc hoặc người cầm séc
Ngân hàng thanh toán séc là ngân hàng giữ tài khảon của người phát hành séc
Ngân hàng trung gian là ngân hàng phục vụ người thụ hưởng và là ngân hàng có quan hệ đại lý với ngân hàng thanh toán.
4. Phương thức tín dụng chứng từ
Là phương thức thanh toán thông dụng nhất hiện nay, khối lượng thanh toán ngày càng lớn, do đó phòng thương mại Quốc tế tại Paris đã ban hành quy tắc thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ để các bên Xuất và Nhập khẩu, các Ngân hàng liên quan áp dụng, nhằm tránh những sự hiểu lầm đáng tiếc có thể xảy ra, do khác nhau về địa lý, tập quán, tiếng nói...
Trong phương thức tín dụng chứng từ, ngân hàng không chỉ là người trung gian thu hộ - chi hộ mà còn là người