Đất nước đang bước vào công cuộc đổi mới toàn diện, là một trong những cơ quan của chuyên chính vô sản, trách nhiệm của ngành kiểm sát, người cán bộ kiểm sát là hết sức quan trọng, trong đó có đội ngũ kiểm sát viên viện kiểm sát nhân dân, "người cán bộ kiểm sát viên phải thấy hết trách nhiệm cao cả và nặng nề của mình, luôn luôn tôn trọng sự thật, phân rõ đúng sai, hết sức giữ thái độ khách quan, thận trọng, công minh, chính trực".( Lê Duẩn).
Ngay từ khi nước nhà giành độc lập, chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà đã chú ý tới những cán bộ làm nhiệm vụ công tố, những vấn đề pháp lý về chức danh này bước đầu được điều chỉnh trong những văn bản pháp luật do nhà nước ban hành. Sự ra đời của Viện kiểm sát nhân dân năm 1960 đánh dấu sự hình thành chức danh kiểm sát viên có nhiệm vụ kiểm sát sự tuân theo pháp luật và thực hành quyền công tố. Vị trí, vai trò của kiểm sát viên viện kiểm sát nhân dân trong hệ thống cơ quan Viện kiểm sát và bộ máy nhà nước nói chung đã và đang được khẳng định. Với cơ quan viện kiểm sát, kiểm sát viên là người trực tiếp thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, trong bộ máy nhà nước, kiểm sát viên là một chức danh tư pháp, có nhiệm vụ thực hiện chức năng của viện kiểm sát, bảo vệ pháp chế, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, đảm bảo sự thực thi pháp luật nghiêm minh, công bằng.
Pháp luật điều chỉnh đối với chức danh kiểm sát viên đang dần hoàn thiện, tạo cơ sở pháp lý vững chắc để xây dựng đội ngũ kiểm sát viên đáp ứng yêu cầu của cải cách tư pháp theo tinh thần của Nghị quyết Trung ương 08/NQ-TW của Bộ chính trị, đáp ứng yêu cầu của đất nước trên con đường hội nhập. Có một thực tế là khi các bài viết, các đề tài, các công trình nghiên cứu về Viện kiểm sát có một số luợng không nhỏ, thì sự quan tâm tới kiểm sát viên về lĩnh vực này lại quá ít, đặc biệt là về chế định kiểm sát viên. Với mong muốn làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn của chế định kiểm sát viên, góp phần mình xây dựng một số giải pháp hoàn thiện chế định, tiếp tục khẳng định vị trí, vai trò của kiểm sát viên trong công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền, người viết mạnh dạn chọn đề tài : “chế định kiểm sát viên- một số vấn đề lý luận và thực tiễn” “làm đề tài khóa luận tốt nghiệp.
Đề tài chủ yếu đi vào nghiên cứu chế định kiểm sát viên viện kiểm sát nhân dân, tìm hiểu trong quá trình hình thành và phát triển chế định này đã đề cập tới những vấn đề gì? Thực tế đã đáp ứng ra sao? Những tồn tại và vướng mắc? Đặc biệt chất lượng kiểm sát viên hiện nay có thực sự đảm bảo hiệu quả hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân? Từ đó có những kiến nghị giải pháp cho việc hoàn thiện chế định kiểm sát viên viện kiểm sát nhân dân, góp phần xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ kiểm sát viên hiện nay, củng cố và phát huy vai trò của Viện kiểm sát nhân dân khi thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp.
Đề tài nghiên cứu dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về vị trí vai trò của viện kiểm sát nhân dân trong bộ máy nhà nước, vị trí vai trò của kiểm sát viên trong cơ quan viện kiểm sát và trong hệ thống cơ quan tư pháp. Trong quá trình nghiên cứu, trên cơ sở tìm hiểu hệ thống các văn bản pháp luật điều chỉnh tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát, đặc biệt là của Kiểm sát viên viện kiểm sát nhân dân tác giả luận văn đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu cơ bản như: phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, phương pháp phân tích, so sánh, kết hợp với khảo sát thực tiễn để luận giải các vấn đề đặt ra trong khoá luận.
Khoá luận được chia làm ba phần:
- Phần thứ nhất: Lời nói đầu
- Phần nội dung gồm hai chương:
Chương 1: Những vấn đề mang tính lý luận của chế định kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân
Chương 2: Thực trạng và hướng hoàn thiện chế định kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân
- Phần kết luận
72 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 4104 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Chế định kiểm sát viên- Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu
Đất nước đang bước vào công cuộc đổi mới toàn diện, là một trong những cơ quan của chuyên chính vô sản, trách nhiệm của ngành kiểm sát, người cán bộ kiểm sát là hết sức quan trọng, trong đó có đội ngũ kiểm sát viên viện kiểm sát nhân dân, "người cán bộ kiểm sát viên phải thấy hết trách nhiệm cao cả và nặng nề của mình, luôn luôn tôn trọng sự thật, phân rõ đúng sai, hết sức giữ thái độ khách quan, thận trọng, công minh, chính trực".( Lê Duẩn).
Ngay từ khi nước nhà giành độc lập, chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà đã chú ý tới những cán bộ làm nhiệm vụ công tố, những vấn đề pháp lý về chức danh này bước đầu được điều chỉnh trong những văn bản pháp luật do nhà nước ban hành. Sự ra đời của Viện kiểm sát nhân dân năm 1960 đánh dấu sự hình thành chức danh kiểm sát viên có nhiệm vụ kiểm sát sự tuân theo pháp luật và thực hành quyền công tố. Vị trí, vai trò của kiểm sát viên viện kiểm sát nhân dân trong hệ thống cơ quan Viện kiểm sát và bộ máy nhà nước nói chung đã và đang được khẳng định. Với cơ quan viện kiểm sát, kiểm sát viên là người trực tiếp thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, trong bộ máy nhà nước, kiểm sát viên là một chức danh tư pháp, có nhiệm vụ thực hiện chức năng của viện kiểm sát, bảo vệ pháp chế, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, đảm bảo sự thực thi pháp luật nghiêm minh, công bằng.
Pháp luật điều chỉnh đối với chức danh kiểm sát viên đang dần hoàn thiện, tạo cơ sở pháp lý vững chắc để xây dựng đội ngũ kiểm sát viên đáp ứng yêu cầu của cải cách tư pháp theo tinh thần của Nghị quyết Trung ương 08/NQ-TW của Bộ chính trị, đáp ứng yêu cầu của đất nước trên con đường hội nhập. Có một thực tế là khi các bài viết, các đề tài, các công trình nghiên cứu về Viện kiểm sát có một số luợng không nhỏ, thì sự quan tâm tới kiểm sát viên về lĩnh vực này lại quá ít, đặc biệt là về chế định kiểm sát viên. Với mong muốn làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn của chế định kiểm sát viên, góp phần mình xây dựng một số giải pháp hoàn thiện chế định, tiếp tục khẳng định vị trí, vai trò của kiểm sát viên trong công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền, người viết mạnh dạn chọn đề tài : “chế định kiểm sát viên- một số vấn đề lý luận và thực tiễn” “làm đề tài khóa luận tốt nghiệp.
Đề tài chủ yếu đi vào nghiên cứu chế định kiểm sát viên viện kiểm sát nhân dân, tìm hiểu trong quá trình hình thành và phát triển chế định này đã đề cập tới những vấn đề gì? Thực tế đã đáp ứng ra sao? Những tồn tại và vướng mắc? Đặc biệt chất lượng kiểm sát viên hiện nay có thực sự đảm bảo hiệu quả hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân? Từ đó có những kiến nghị giải pháp cho việc hoàn thiện chế định kiểm sát viên viện kiểm sát nhân dân, góp phần xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ kiểm sát viên hiện nay, củng cố và phát huy vai trò của Viện kiểm sát nhân dân khi thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp.
Đề tài nghiên cứu dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về vị trí vai trò của viện kiểm sát nhân dân trong bộ máy nhà nước, vị trí vai trò của kiểm sát viên trong cơ quan viện kiểm sát và trong hệ thống cơ quan tư pháp. Trong quá trình nghiên cứu, trên cơ sở tìm hiểu hệ thống các văn bản pháp luật điều chỉnh tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát, đặc biệt là của Kiểm sát viên viện kiểm sát nhân dân tác giả luận văn đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu cơ bản như: phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, phương pháp phân tích, so sánh, kết hợp với khảo sát thực tiễn để luận giải các vấn đề đặt ra trong khoá luận.
Khoá luận được chia làm ba phần:
Phần thứ nhất: Lời nói đầu
Phần nội dung gồm hai chương:
Chương 1: Những vấn đề mang tính lý luận của chế định kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân
Chương 2: Thực trạng và hướng hoàn thiện chế định kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân
Phần kết luận
Chương 1
Những vấn đề mang tính lý luận về
chế định kiểm sát viên viện kiểm sát nhân dân
1.1. Vị trí vai trò của kiểm sát viên viện kiểm sát nhân dân
Khái niệm kiểm sát viên và chế định kiểm sát viên
Kiểm sát viên
Theo từ điển Bách khoa toàn thư (tr.563 - NXB Từ điển Bách khoa, Hà Nội) kiểm sát viên là cán bộ của cơ quan kiểm sát được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật, có thẩm quyền và nghĩa vụ luật định, thực hiện chức năng kiểm tra giám sát việc chấp hành triệt để nghiêm chỉnh pháp luật của nhà nước, tổ chức xã hội và công dân.
Theo từ điển Luật học, kiểm sát viên là người được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật để làm nhiệm vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp.
Kiểm sát viên viện kiểm sát nhân dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam gồm: Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao; kiểm sát viên viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; kiểm sát viên viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh. (Các kiểm sát viên viện kiểm sát quân sự các cấp không thuộc phạm vi nghiên cứu của đề tài).
Như vậy, công dân Việt Nam có đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật (vấn đề này sẽ được nghiên cứu cụ thể trong luận văn) thì có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân.
Chế định kiểm sát viên
Là tổng thể các quy định của pháp luật điều chỉnh các vấn đề pháp lý đối với chức danh kiểm sát viên.
1.1.2. Vị trí, vai trò của Kiểm sát viên viện kiểm sát nhân dân
Trong bộ máy nhà nước, Viện kiểm sát nhân dân có một vị trí đặc biệt. Hệ thống cơ quan viện kiểm sát nhân dân gồm Viện kiểm sát nhân dân tối cao và các viện kiểm sát nhân dân địa phương. Viện kiểm sát nhân dân tối cao thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, góp phần bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Viện kiểm sát nhân dân địa phương, các viện kiểm sát quân sự kiểm sát việc tuân theo pháp luật và thực hành quyền công tố trong phạm vi luật định. (Điều 137- Hiến pháp 1992 và Điều 1 luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2002)
Theo quy định của pháp luật, Viện kiểm sát nhân dân thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan quản lý, các chủ thể tham gia tố tụng trong lĩnh vực: hình sự, dân sự, lao động, kinh tế thương mại và hành chính; các nhân viên nhà nước và công dân. Khi tiến hành các công tác kiểm sát viện kiểm sát không có quyền năng về hành chính mà chỉ có quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị đối với các đối tượng chịu sự kiểm sát của Viện kiểm sát nhằm đề ra các biện pháp xử lý vi phạm pháp luật, khôi phục lại hiệu lực của pháp luật mà viện kiểm sát đã lấy làm căn cứ để tiến hành kiểm sát. Bên cạnh chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp, Viện kiểm sát còn có chức năng thực hành quyền công tố của nhà nước, truy tố kẻ phạm tội ra trước tòa án và nhân danh nhà nước buộc tội kẻ phạm tội tại phiên tòa. Bằng hoạt động của mình Viện kiểm sát bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ tài sản của nhà nước, của tập thể, bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự nhân phẩm của công dân. Đồng thời, thông qua hoạt động kiểm sát các hoạt động tư pháp và thực hành quyền công tố nhà nước viện kiểm sát nhân dân góp phần giáo dục công dân ý thức pháp luật, tôn trọng những nguyên tắc của xã hội, tham gia vào cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm, bảo đảm mọi hành vi xâm phạm lợi ích nhà nước và của công dân đều bị xử lý theo pháp luật.
Như vậy, pháp luật hiện hành đã bỏ chức năng kiểm sát hoạt động của các cơ quan từ bộ trở xuống để đảm bảo sự phân cấp thẩm quyền giám sát của các cơ quan trong bộ máy nhà nước và bảo đảm cho hoạt động giám sát lĩnh vực hoạt động tư pháp là một trong hai chức năng của viện kiểm sát nhân dân được hiệu quả hơn.
Trong hoạt động kiểm sát các hoạt động tư pháp và thực hành quyền công tố nhà nước của Viện kiểm sát nhân dân, kiểm sát viên là nhân tố cơ bản. Hoạt động nghề nghiệp của kiểm sát viên mang tính đặc thù cao. Nghề nghiệp đó có ảnh hưởng lớn tới tính công minh của pháp luật, tới uy tín nền công lý của một quốc gia.
Khác với những lao động khác, lao động của kiểm sát viên dựa trên cơ sở quy định của pháp luật, từ khi được phân công giải quyết một vụ án tới khi hồ sơ vụ án khép lại người kiểm sát phải tư duy, xem xét đánh giá trên cơ sở kết luận của cơ quan tiến hành điều tra, để truy tố kẻ phạm tội ra trước tòa, bảo đảm thấu tình đạt lý. Là hoạt động chịu nhiều áp lực, áp lực từ phía các phần tử tội phạm, từ xã hội, công luận... Do đó hoạt động của kiểm sát viên phải đảm bảo việc nghiên cứu độc lập hồ sơ để truy tố kẻ có tội trước phiên tòa hình sự, hợp lẽ công bằng, bảo đảm pháp chế, không trái với các quy tắc đạo đức xã hội.
Kiểm sát viên là người đại diện cho nhà nước trực tiếp bảo vệ nền công lý, vì vậy sự công bằng vô tư khách quan, nhân đạo là những phẩm chất không thể thiếu đối với người kiểm sát viên. Điều đó có nghĩa là, trong quá trình thực hiện chức năng của mình, kiểm sát viên phải đảm bảo sự công bằng không thiên lệch, không có sự phân biệt về thành phần xuất thân, địa vị xã hội, hoàn cảnh kinh tế giữa các đương sự hay bị cáo. Chẳng hạn, trong hoạt động thực hiện quyền công tố, tính công bằng thể hiện ở sự đánh giá tương xứng giữa hành vi phạm tội và trách nhiệm của người phạm tội. Truy tố đúng tội danh là tiền đề quan trọng của việc quyết định hình phạt chính xác, công bằng, không làm oan người vô tội. Hoạt động thực hành quyền công tố của kiểm sát viên khi được giao nhiệm vụ, được hiểu là quyền của nhà nước, quyền nhân danh nhà nước truy tố kẻ phạm tội ra trước tòa án và đại diện cho công lý buộc tội kẻ phạm tội trước phiên tòa. Đây là một chức năng tố tụng nhằm chống lại một người cụ thể và thực chất đó là hoạt động truy cứu trách nhiệm hình sự đối với kẻ có tội. Quyền này tác động trực tiếp tới quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức. Do đó nó phải được thực hiện theo một trình tự tố tụng chặt chẽ theo luật định. Cụ thể tại phiên tòa hình sự, kiểm sát viên được phân công có quyền nhân danh nhà nước đọc cáo trạng truy luận tội, có quyền tranh luận, xét hỏi để chứng minh lỗi của bị cáo, giúp Tòa án ra bản án đúng người đúng tội, đúng pháp luật... Với những yêu cầu khắt khe đặt ra đối với nghề kiểm sát viên, để trở thành kiểm sát viên phải đáp ứng được những điều kiện về trình độ chuyên môn nghiệp vụ, phẩm chất đạo đức, đồng thời phải qua một thủ tục tuyển chọn bổ nhiệm chặt chẽ theo luật định.
1.2. Sự hình thành và phát triển của chế định kiểm sát viên
Bộ máy nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được tổ chức theo nguyên tắc tập quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm sự phân công phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Quyền tư pháp theo quan điểm của các nhà nghiên cứu chủ yếu là quyền xét xử thuộc tòa án nhân dân và quyền kiểm sát, thực hành quyền công tố của viện kiểm sát nhân dân. Hoạt động của các cơ quan tư pháp đặt dưới sự kiểm tra, giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước. Ngay từ khi giành được độc lập tới nay, trong lịch sử phát triển của mình, nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa trước đây và bây giờ là cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam luôn chú trọng đến việc hoàn thiện hệ thống tổ chức và hoạt động của viện kiểm sát nhân dân. Điều này được quy định có tính nguyên tắc thể hiện trong các hiến pháp 1946, 1959, 1980 và Hiến pháp 1992. Trên cơ sở Hiến pháp, các văn bản pháp luật quy định về viện kiểm sát, kiểm sát viên thuộc viện kiểm sát nhân dân được thể chế hóa để đáp ứng nhiệm vụ cụ thể của nhà nước ta trong từng giai đoạn.
Kiểm sát viên là một chức danh trong hệ thống cơ quan viện kiểm sát nhân dân, có vị trí vai trò đặc biệt quan trọng trong cơ cấu tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân nói chung và giữ vai trò ủy viên công tố tại phiên tòa nói riêng. Do vậy, việc tiêu chuẩn hoá chức danh kiểm sát viên phải được xem xét và cân nhắc trên cơ sở luận cứ khoa học, bảo đảm tư cách, năng lực thực hiện các nhiệm vụ của công chức trong cơ quan bảo vệ pháp luật, phù hợp với bản chất của nhà nước trong những bối cảnh lịch sử cụ thể.
Căn cứ vào tình hình nhiệm vụ cách mạng trong từng giai đoạn, chúng ta nghiên cứu chế định kiểm sát viên qua các giai đoạn phát triển sau:
1.2.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1959
Ngay sau khi Cách mạng tháng tám thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, cùng với việc xóa bỏ bộ máy nhà nước phong kiến, Đảng và nhà nước ta đã bắt tay vào xây dựng một nhà nước kiểu mới, nhà nước dân chủ nhân dân, bảo đảm mọi quyền bính trong nước đều thuộc về toàn thể nhân dân. Trong hệ thống cơ quan tư pháp đã hình thành cơ quan công tố với nhiệm vụ cùng với cơ quan công an, tòa án trấn áp bọn tội phạm phản cách mạng, chống lại những hành vi đi ngược lại lợi ích của chính quyền nhân dân, bảo vệ tài sản nhà nước, của tập thể người lao động, đảm bảo việc thực hiện các chính sách trật tự trị an của xã hội... Để thực hiện nhiệm vụ đó, cơ quan công tố ngoài chức năng buộc tội còn thực hiện chức năng giám sát các họat động tố tụng tư pháp (trình tự tố tụng tại tòa án). Những quy định về cơ quan công tố xuất hiện rất sớm trong các văn bản pháp luật của nhà nước. Việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống cơ quan công tố nói chung, chức danh thực hiện quyền công tố nói riêng gắn liền với quá trình thiết lập, phát triển bộ máy nhà nước ta.
Lịch sử hình thành và phát triển của cơ quan công tố giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1959 trải qua ba giai đoạn chủ yếu sau:
Giai đoạn 1945 - 1950:
Theo các sắc lệnh số 13/SL ngày 24 tháng 01 năm 1946, Sắc lệnh số 51/SL ngày 17 tháng 04 năm 1946, Sắc lệnh số 131/SL ngày 20 tháng 07 năm 1946, thì các viên chức công tố nằm trong hệ thống cơ quan tư pháp: ở Tòa án đệ nhị cấp ( cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương) có Thẩm phán xử án và Thẩm phán buộc tội. Như vậy, ở Tòa án đệ nhị cấp mặc dù chưa có cơ quan công tố nhưng lại có các cán bộ làm nhiệm vụ công tố, đó là: Biện lý, Tham lý. ở Tòa thượng thẩm (tổ chức ở ba miền Bắc, Trung, Nam) có các công tố viên do Chưởng lý đứng đầu và hoạt động của các cán bộ chuyên trách như Biện lý, phó Biện lý... chịu sự chỉ đạo, lãnh đạo của Bộ trưởng Bộ tư pháp. Các cán bộ của công tố viện được quyền làm các nhiệm vụ tư pháp cảnh sát, thực hiện việc buộc tội của nhà nước và thực hiện việc giám sát công tác điều tra của tư pháp cảnh sát cũng như hoạt động xét xử các vụ án hình sự (tiểu hình và đại hình) của Tòa án. Như vậy, có thể thấy, ngay từ những ngày đầu thành lập cơ quan tư pháp, nhà nước ta đã trao cho các viên chức công tố thực hiện nhiệm vụ một cách độc lập để vừa thực hiện chức năng buộc tội vừa thực hiện chức năng giám sát trong lĩnh vực hoạt động tố tụng, điều tra và xét xử.
Giai đoạn 1950 - 1958:
Theo sắc lệnh số 85/SL ngày 25 tháng 05 năm 1950, Thông tư số 11/TT-TTg của Thủ tướng chính phủ ngày 07 tháng 06 năm 1950 và Thông tư liên tịch số 18 ngày 08 tháng 06 năm 1950 thì cơ quan công tố thời kỳ này vẫn nằm trong hệ thống cơ quan tư pháp và chịu sự quản lý của Bộ tư pháp. Tuy nhiên, trong cuộc cải cách tư pháp lần thứ nhất tiến hành năm 1950, nhà nước đã tăng thẩm quyền chỉ đạo của ủy ban hành chính đối với cơ quan công tố, bao gồm cả việc ra mệnh lệnh về đường lối công tố cũng như điều khiển các vụ việc cụ thể. Đặc biệt, nhà nước đã mở rộng thẩm quyền cho Công tố viện được kháng cáo các vụ án dân sự. Quy định này đã tạo thuận lợi cho Công tố viện không chỉ với tư cách đại diện cho toàn xã hội trong việc bảo vệ lợi ích của nhà nước, của tập thể, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân mà còn là điều kiện quan trọng để công tố viện thực hiện có hiệu quả hơn chức năng giám sát việc tuân thủ pháp luật của các đối tượng trong xã hội.
Giai đoạn 1958- 1960:
Theo nghị quyết của Quốc hội khóa I, kỳ họp thứ VIII ngày 29 tháng 04 năm 1958, Nghị định số 256 ngày 01 tháng 07 năm 1959 và Nghị định số 321 ngày 27 tháng 08 năm 1959, Viện công tố trung ương được thành lập, tách khỏi Toà án nhân dân và Bộ tư pháp, hình thành một hệ thống cơ quan nhà nước độc lập từ trung ương tới địa phương, chỉ trực thuộc Phủ Thủ tướng. Theo Thông tư số 556 ngày 24 tháng 12 năm 1958 của Thủ tướng chính phủ, quy định rõ mối quan hệ giữa Công an, Tòa án và Viện công tố trong việc trấn áp bọn phản cách mạng. Là cơ quan thực hiện quyền lực tư pháp, Viện công tố trong thời kỳ này có quyền điều tra, truy tố những vụ án hình sự, giám sát việc chấp hành pháp luật của cơ quan điều tra, hoạt động xét xử của tòa án và việc giam giữ, cải tạo của cơ quan, người được trao quyền.
Theo đó, thẩm quyền của Viện công tố được mở rộng hơn. Cùng với việc thực hành quyền công tố nhà nước, Viện công tố còn thực hiện chức năng giám sát việc chấp hành pháp luật trong công tác điều tra, xét xử các vụ án hình sự, thi hành án, giam giữ cải tạo và tham gia giải quyết các vụ án dân sự quan trọng có liên quan tới lợi ích của nhà nước và xã hội. Có thể nói, Viện Công tố thời kỳ này đã được nhà nước giao những nhiệm vụ, quyền hạn mới so với trước đây. Đặc biệt là việc thực hiên chức năng giám sát các hoạt động tố tụng tư pháp. Đây là tiền đề quan trọng để xây dựng hệ thống cơ quan Viện kiểm sát nhân dân sau này.
1.2.2. Giai đoạn từ 1959 đến năm 1980
Thể chế hóa Hiến pháp 1959, Luật Tổ chức viện kiểm sát nhân dân được Quốc hội thông qua ngày 15 tháng 07 năm 1960 và Chủ tịch nước công bố ngày 26 tháng 07 năm 1960 đã quy định cụ thể việc thành lập hệ thống cơ quan Viện kiểm sát nhân dân.
Theo quy định của luật Tổ chức viện kiểm sát nhân dân năm 1960, hệ thống viện kiểm sát nhân dân bao gồm Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, thành phố trực thuộc tỉnh và tương đương, và các viện kiểm sát quân sự. Hệ thống viện kiểm sát nhân dân được tổ chức theo nguyên tắc tập trung thống nhất lãnh đạo trong ngành, không lệ thuộc vào bất cứ cơ quan nhà nước nào ở địa phương và thực hiện chế độ thủ trưởng. Cùng với việc thành lập, luật tổ chức đã quy định rõ chức năng của viện kiểm sát nhân dân là kiểm sát việc tuân theo pháp luật và thực hành quyền công tố nhà nước, bảo đảm cho pháp luật được thi hành nghiêm chỉnh và thống nhất, pháp chế được giữ vững. Sự ra đời của viện kiểm sát nhân dân với vị trí, chức năng, nhiệm vụ và được tổ chức dựa trên nguyên tắc đặc thù là một tất yếu khách quan, xuất phát từ bản chất, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Trong mỗi cấp viện kiểm sát nhân dân thời kỳ này có các chức danh: Viện trưởng, các phó viện trưởng, các kiểm sát viên và điều tra viên. Trong đó, Viện trưởng viện kiểm sát nhân dân tối cao do Quốc hội bầu ra và bãi miễn, các phó viện trưởng, kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao do ủy ban Thường vụ Quốc hội bổ nhiệm và bãi nhiệm theo đề nghị của Chủ tịch ủy ban Thường vụ Quốc hội. Viện trưởng, các phó viện trưởng, kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân các cấp địa phương do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức. (Điều 23, 24 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1960). Như vậy, chức danh kiểm sát viên đã được quy định cụ thể về tên gọi và trật tự hình thành. Nếu như trước đó, những cán bộ làm nhiệm vụ công tố, tức là những Biện lý, Tham lý, Chưởng lý do Chủ tịch nước bổ nhiệm theo danh sách của Bộ trưởng Tư pháp ấn định (Điều 56, 57 Sắc lệnh số 13/SL) thì giai đoạn này kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao do ủy ban thường vụ Quốc hội cử, kiểm sát viên viện kiểm sát địa phương do viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức. Hoạt động của viện kiểm sát nhân dân mỗi cấp đặt dưới sự chỉ đạo, lãnh đạo của Viện trưởng viện kiểm sát nhân dân cấp đó. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp dưới chịu sự lãnh đạo, chỉ đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp trên trực tiếp. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao chịu trách nhiệm về lĩnh vực hoạt động của toàn ngành trước Quốc hội. Trong thời gian Quốc hội không họp thì chịu trách nhiệm báo cáo công tác trước Uỷ ban thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước. Với quy định này, nguyên tắc tập trung thống nhất lãnh đạo trong ngành đã được c