Việt Nam - một dân tộc anh dũng đã bước qua cuộc đấu tranh giành độc lập tự do, thống nhất đất nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội dưới sự ngạc nhiên và khâm phục của bạn bè thế giới. Song, công cuộc xây dựng đất nước, phát triển kinh tế - xã hội, với nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp đã làm cho nước ta tụt hậu xa về mọi mặt từ kinh tế - văn hóa - đời sống xã hội so với các nước trong khu vực nói riêng và các nước trên toàn thế giới nói chung. Nền kinh tế đó đã tạo ra tình trạng lạm phát, sự khan hiếm hàng hoá, nạn tham nhũng, suy thoái về đạo đức của cán bộ đảng viên, cùng hàng loạt những tiêu cực khác.
Từ những thực trạng nói trên việc đưa ra một chính sách mới để cải thiện và phát triển nền kinh tế nhằm rút ngắn khoảng cách lạc hậu và nghèo khó so với các nước trên thế giới là vô cùng cấp bách. Vì vậy, Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 1992 và Nghị quyết số 51/2001/QH10 ngày 25/12/2001 của Quốc hội về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 1992 (Nghị quyết số 51/2001/QH10) đã có những sửa đổi, bổ sung cơ bản về chính sách kinh tế. Nền kinh tế nước ta được hoạch định theo hướng xóa bỏ cơ chế quản lý quan liêu, tập trung, bao cấp, xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN. Theo đó, một loạt văn bản luật ra đời dựa trên tinh thần Hiến pháp 1992 như Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp đã góp phần quan trọng, tích cực thể chế hóa chủ trương, đường lối được đưa ra tại các kỳ Đại hội Đảng, qua đó xây dựng một nền kinh tế phù hợp với sự phát triển của đất nước, phù hợp với xu thế hội nhập trên toàn cầu. Chính vì lẽ đó em đã chọn đề tài: “Chính sách kinh tế của Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo Hiến pháp 1992” cho khoá luận tốt nghiệp của mình nhằm đáp ứng nhu cầu cả về lý luận và thực tiễn hiện nay đối với chính sách kinh tế của nhà nước ta.
Đề tài nhằm mục đích hướng tới tìm hiểu những nội dung cơ bản trong chính sách kinh tế của nhà nước được quy định trong Hiến pháp 1992 nói chung và các văn bản pháp luật ban hành theo tinh thần Hiến pháp 1992 nói riêng, bao gồm chính sách chung và các chính sách đối với từng thành phần kinh tế cụ thể. Qua đó, xem xét, kiểm nghiệm trên thực tế để rút ra phương hướng khắc phục sai lầm, phát huy ưu điểm, tiến tới xây dựng những chính sách kinh tế ngày càng phù hợp hơn, đáp ứng yêu cầu thực tiễn.
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế, chế độ kinh tế và chính sách kinh tế. Các văn kiện của Đảng, Hiến pháp và các văn bản quy phạm pháp luật của nhà nước được sử dụng rộng rãi làm cơ sở pháp lí cho các vấn đề có liên quan đến nội dung của khóa luận. Các công trình nghiên cứu, các bài viết của các học giả cũng được tham khảo và kế thừa có chọn lọc.
Trong quá trình nghiên cứu, khoá luận đã sử dụng phương pháp luận của triết học Mác – Lênin là phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, đồng thời sử dụng các phương pháp hệ thống, phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê kết hợp với khảo sát thực tiễn để làm sáng tỏ vấn đề cần nghiên cứu.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, khoá luận được chia làm 3 chương:
Chương I: Khái quát chung về chế độ kinh tế và chính sách kinh tế.
Chương II: Chính sách kinh tế theo Hiến pháp 1992.
Chương III: Thực tiễn thực hiện và phương hướng giải pháp.
58 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2127 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Chính sách kinh tế của Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo Hiến pháp 1992, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời cảm ơn
Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo Phạm Đức Bảo, giảng viên Luật Hiến pháp, trường Đại học Luật Hà Nội, người đã trực tiếp hướng dẫn, chỉ bảo em trong việc nghiên cứu đề tài này. Em cũng xin bày tỏ lòng biết ơn đến các thầy cô giáo Trường Đại học Luật Hà Nội, gia đình và bạn bè đã dìu dắt, động viên em trong suốt những năm học qua cũng như trong quá trình em hoàn thành bài khóa luận.
MỤC LỤC
Chương I
1.1.
1.1.1.
1.1.2.
1.1.3.
1.2
1.3.
Chương II
2.1
2.1.1.
2.1.2.
2.1.3.
2.2.
2.2.1.
2.2.2.
2.2.3.
2.2.4.
2.2.5.
2.3.
2.3.1.
2.3.2.
2.3.3.
2.3.4.
2.3.5.
Chương III
3.1.
3.2.
MỞ ĐẦU
Khái quát chung về chế độ kinh tế và chính sách kinh tế
Khái niệm về kinh tế, chế độ kinh tế, chính sách kinh tế
Khái niệm kinh tế
Khái niệm chế độ kinh tế
Khái niệm chính sách kinh tế
Phân biệt chế độ kinh tế và chính sách kinh tế
Vai trò của chính sách kinh tế
Chính sách kinh tế của Nhà nước theo HP 1992
Cơ sở lý luận, pháp lý và thực tiễn
Cơ sở lý luận
Cơ sở pháp lý
Cơ sở thực tiễn
Chính sách phát triển kinh tế
Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng XHCN.
Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.
Các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, được bình đẳng với nhau trước pháp luật.
Các chính sách kinh tế đối ngoại :
Khuyến khích thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Chính sách đối với từng thành phần kinh tế.
Đối với kinh tế nhà nước
Đối với kinh tế tập thể
Đối với kinh tế cá thể, tiểu chủ và tư bản tư nhân
Đối với kinh tế tư bản nhà nước
Đối với kinh tế 100% vốn đầu tư nước ngoài
Thực tiễn thực hiện và giải pháp, phương hướng.
Thực tiễn thực hiện.
Phương hướng, giải pháp.
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
01
03
03
03
04
05
05
06
08
08
08
10
12
13
15
19
20
20
21
22
22
26
27
31
33
37
37
46
53
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
CNXH: Chủ nghĩa xã hội
CHXHCN: Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
GDP: Tổng thu nhập quốc dân
XHCN: Xã hội chủ nghĩa
MỞ ĐẦU
Việt Nam - một dân tộc anh dũng đã bước qua cuộc đấu tranh giành độc lập tự do, thống nhất đất nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội dưới sự ngạc nhiên và khâm phục của bạn bè thế giới. Song, công cuộc xây dựng đất nước, phát triển kinh tế - xã hội, với nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp đã làm cho nước ta tụt hậu xa về mọi mặt từ kinh tế - văn hóa - đời sống xã hội… so với các nước trong khu vực nói riêng và các nước trên toàn thế giới nói chung. Nền kinh tế đó đã tạo ra tình trạng lạm phát, sự khan hiếm hàng hoá, nạn tham nhũng, suy thoái về đạo đức của cán bộ đảng viên, cùng hàng loạt những tiêu cực khác.
Từ những thực trạng nói trên việc đưa ra một chính sách mới để cải thiện và phát triển nền kinh tế nhằm rút ngắn khoảng cách lạc hậu và nghèo khó so với các nước trên thế giới là vô cùng cấp bách. Vì vậy, Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 1992 và Nghị quyết số 51/2001/QH10 ngày 25/12/2001 của Quốc hội về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 1992 (Nghị quyết số 51/2001/QH10) đã có những sửa đổi, bổ sung cơ bản về chính sách kinh tế. Nền kinh tế nước ta được hoạch định theo hướng xóa bỏ cơ chế quản lý quan liêu, tập trung, bao cấp, xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN. Theo đó, một loạt văn bản luật ra đời dựa trên tinh thần Hiến pháp 1992 như Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp… đã góp phần quan trọng, tích cực thể chế hóa chủ trương, đường lối được đưa ra tại các kỳ Đại hội Đảng, qua đó xây dựng một nền kinh tế phù hợp với sự phát triển của đất nước, phù hợp với xu thế hội nhập trên toàn cầu. Chính vì lẽ đó em đã chọn đề tài: “Chính sách kinh tế của Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo Hiến pháp 1992” cho khoá luận tốt nghiệp của mình nhằm đáp ứng nhu cầu cả về lý luận và thực tiễn hiện nay đối với chính sách kinh tế của nhà nước ta.
Đề tài nhằm mục đích hướng tới tìm hiểu những nội dung cơ bản trong chính sách kinh tế của nhà nước được quy định trong Hiến pháp 1992 nói chung và các văn bản pháp luật ban hành theo tinh thần Hiến pháp 1992 nói riêng, bao gồm chính sách chung và các chính sách đối với từng thành phần kinh tế cụ thể. Qua đó, xem xét, kiểm nghiệm trên thực tế để rút ra phương hướng khắc phục sai lầm, phát huy ưu điểm, tiến tới xây dựng những chính sách kinh tế ngày càng phù hợp hơn, đáp ứng yêu cầu thực tiễn.
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế, chế độ kinh tế và chính sách kinh tế. Các văn kiện của Đảng, Hiến pháp và các văn bản quy phạm pháp luật của nhà nước được sử dụng rộng rãi làm cơ sở pháp lí cho các vấn đề có liên quan đến nội dung của khóa luận. Các công trình nghiên cứu, các bài viết của các học giả cũng được tham khảo và kế thừa có chọn lọc.
Trong quá trình nghiên cứu, khoá luận đã sử dụng phương pháp luận của triết học Mác – Lênin là phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, đồng thời sử dụng các phương pháp hệ thống, phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê kết hợp với khảo sát thực tiễn để làm sáng tỏ vấn đề cần nghiên cứu.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, khoá luận được chia làm 3 chương:
Chương I: Khái quát chung về chế độ kinh tế và chính sách kinh tế.
Chương II: Chính sách kinh tế theo Hiến pháp 1992.
Chương III: Thực tiễn thực hiện và phương hướng giải pháp.
Chương I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CHẾ ĐỘ KINH TẾ VÀ CHÍNH SÁCH KINH TẾ
1.1. Khái niệm về kinh tế, chế độ kinh tế, chính sách kinh tế
Để tìm hiểu về chế độ kinh tế và chính sách kinh tế, trước hết cần làm rõ các khái niệm có liên quan như kinh tế, chế độ, chính sách…
1.1.1. Khái niệm kinh tế:
Phạm trù kinh tế có nhiều cách tiếp cận khác nhau, nhiều cách định nghĩa và lý giải khác nhau.
Theo Từ điển tiếng Việt, ngôn ngữ học Việt Nam, kinh tế là “Tổng thể nói chung những hoạt động của con người nhằm thỏa mãn nhu cầu vật chất, phát triển kinh tế”. Ví dụ: sự phát triển kinh tế; nền kinh tế quốc dân. Kinh tế được hiểu là cách thức sản xuất để tạo ra sản phẩm nhằm thỏa mãn nhu cầu của con người. Nếu hiểu kinh tế là cách thức tổ chức sản xuất đặc trưng cho một giai đoạn nhất định trong lịch sử hay một quan hệ sản xuất xã hội thì “Kinh tế là tổng thể nói chung những quan hệ sản xuất của một hình thái kinh tế - xã hội nhất định”. Ví dụ: kinh tế phong kiến; kinh tế tư bản chủ nghĩa. Hiểu kinh tế dưới góc độ động lực thúc đẩy nền sản xuất xã hội: “Kinh tế có liên quan đến lợi ích vật chất của con người. Sử dụng đòn bẩy kinh tế để phát triển sản xuất”. Kinh tế tiếp cận dưới góc độ là hiệu quả sản xuất kinh tế “Có tác dụng mang lại hiệu quả tương đối lớn so với sức người, sức của và thời gian tương đối ít bỏ ra”.
Từ điển “Từ và Ngữ Việt Nam” của tác giả Nguyễn Lân lại tiếp cận kinh tế dưới góc độ từ loại (danh từ, từ Hán Việt). Kinh: sửa trị, tế: cứu giúp. Kinh tế là “Toàn bộ hoạt động nhằm sản xuất ra của cải vật chất và trao đổi, phân phối sử dụng những của cải đó trong xã hội loài người”. Nói đến kinh tế (tính từ) là nói đến hiệu quả (Tốn ít mà có hiệu quả). Còn câu ngạn ngữ “kinh bang tế thế” (Hán Việt: kinh: sửa trị; bang: nước; tế: cứu; thế: đời) có nghĩa là dựng nước giúp đời. Từ các cách tiếp cận trên đây, dưới góc độ sản xuất chúng ta có thể hiểu kinh tế là cách thức, tài nghệ của con người nhằm cải biến, chiếm lĩnh của cải tự nhiên để thoả mãn nhu cầu ngày càng tốt hơn. Phạm trù kinh tế có nguồn gốc xuất hiện từ khi con người ra đời và biết sản xuất, kinh tế đã từng tồn tại qua các giai đoạn phát triển khác nhau với các hình thức tên gọi khác nhau: kinh tế tự cấp tự túc, kinh tế hàng hóa, kinh tế thị trường. Còn xem xét dưới góc độ tính chất sản xuất gắn với quy mô sản xuất có kinh tế tư nhân, kinh tế nhà nước, kinh tế công xã nguyên thủy, kinh tế chiếm hữu nô lệ, kinh tế phong kiến, kinh tế tư bản chủ nghĩa và kinh tế xã hội chủ nghĩa… Còn nếu gắn với sở hữu tư liệu sản xuất tổ chức quản lý và phân phối sản phẩm có: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước…Nói chung, kinh tế là một thuật ngữ phức tạp và có nhiều cách hiểu khác nhau:
- Về mặt danh từ, kinh tế là tổng thể nói chung những quan hệ sản xuất của một hình thái kinh tế - xã hội nhất định hoặc là tổng thể nói chung những họa động của con người nhằm thỏa mãn nhu cầu vật chất.
- Về mặt tính từ, kinh tế là những hoạt động có liên quan đến lợi ích vật chất của con người hay có tác dụng mang lại hiệu quả lớn.
Tóm lại, kinh tế nói chung là những hoạt động của con người nhằm biến đổi những sản vật tự nhiên thành thức ăn, vật dụng nhằm thỏa mãn nhu cầu của mình.
1.1.2. Khái niệm chế độ kinh tế
Khái niệm chế độ:
Theo Từ điển luật học, chế độ được hiểu theo hai nghĩa:
Thứ nhất, là hệ thống các quy định pháp luật cần phải được tuân thủ trong một quan hệ xã hội xác định nhằm đạt được mục đích nhất định.
Thứ hai, là tổng thể các quy tắc cần phải tuân theo trong sinh hoạt đối với các đối tượng khác nhau, như chế độ tập luyện, chế độ ăn uống…
Trong trường hợp này, từ chế độ được hiểu theo nghĩa thứ nhất.
Khái niệm chế độ kinh tế:
Là chế độ pháp lý gồm tổng thể các quy phạm luật hiến pháp điều chỉnh các quan hệ xã hội về kinh tế liên quan đến việc xác định mục đích, chính sách của nền kinh tế, phương hướng phát triển nền kinh tế, quy định chế độ sở hữu, các thành phần kinh tế và nguyên tắc quản lý nền kinh tế quốc dân.[5].
1.1.3. Khái niệm chính sách kinh tế
Khái niệm chính sách:
Là chủ trương và các biện pháp của một đảng phái, một chính phủ trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội (theo Đại từ điển tiếng Việt).
Khái niệm chính sách kinh tế:
Là chính sách và biện pháp kinh tế mà Nhà nước áp dụng trong một giai đoạn hay thời kỳ lịch sử nhằm đạt được những mục đích, yêu cầu kinh tế - chính trị nhất định. Chính sách có thể mang tính chất đường lối, chiến lược lâu dài, có thể có tính chất sách lược ngắn hạn.[5].
Hiến pháp 1992 đã thể chế hóa đường lối xây dựng kinh tế của Đảng, quy định một loạt nội dung chính sách kinh tế mới của Nhà nước.
1.2. Phân biệt chế độ kinh tế và chính sách kinh tế
Chế độ kinh tế là một chế định quan trọng của ngành luật Hiến pháp Việt Nam, bao gồm:
- Mục đích, phương hướng phát triển kinh tế.
- Các chính sách kinh tế của Nhà nước.
- Các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế của nước ta trong thời kỳ quá độ lên CNXH.
- Các nguyên tắc cơ bản của Nhà nước trong quản lý nền kinh tế quốc dân.
Như vậy, chính sách kinh tế là một bộ phận của chế độ kinh tế, có vai trò định hướng cho sự phát triển kinh tế phù hợp với khả năng và điều kiện của đất nước. Mặt khác, xét về yếu tố thời gian, chính sách kinh tế thường chỉ được tính toán trong một giai đoạn nhất định, và giai đoạn đó thông thường không kéo dài. Trong khi đó, chế độ kinh tế được hoạch định trong một thời gian dài, mang tính chất ổn định. Có thể nói, chế độ kinh tế bao trùm lên chính sách kinh tế và gồm nhiều chính sách kinh tế khác nhau. Các chính sách kinh tế được xây dựng nối tiếp tạo nên chế độ kinh tế của một nhà nước, một chính quyền.
1.3. Vai trò của chính sách kinh tế
Thể hiện quan điểm, chủ trương phát triển kinh tế của Nhà nước.
Nhà nước thực hiện vai trò lãnh đạo toàn xã hội thông qua các chức năng: chính trị, kinh tế, an ninh, quốc phòng… Chỉ có nhà nước là chủ thể duy nhất có đủ năng lực về tài chính và quyền lực tối cao có thể thực hiện những nhiệm vụ trên. Để thực hiện chức năng kinh tế, nhà nước phải đề ra kế hoạch, chiến lược, sách lược cụ thể, rõ ràng. Không thể có một nền kinh tế vững mạnh nếu không có một đường lối phát triển được hoạch định chu đáo, toàn vẹn. Vì vậy, cần có những chế độ kinh tế làm cơ sở cho việc thực hiện chức năng kinh tế. Tuy nhiên, tình hình, hoàn cảnh kinh tế - xã hội của nước ta có nhiều thay đổi, do đó trong từng thời điểm, từng giai đoạn lịch sử cần phải có những chính sách kinh tế phù hợp. Ví dụ: Chính sách kinh tế trong thời kỳ từ 1954 - 1975 của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa là xây dựng kinh tế XHCN ở miền Bắc, huy động sức người, sức của chi viện cho miền Nam; đối với miền Nam là sản xuất song song với chiến đấu giành độc lập toàn vẹn cho dân tộc.
Chính sách kinh tế này là hoàn toàn phù hợp với hoàn cảnh nước ta lúc bấy giờ, đất nước bị chia cắt thành hai miền: miền Bắc đã được giải phóng, miền Nam vẫn nằm trong sự thống trị của Đế quốc Mỹ xâm lược và chính quyền bù nhìn Việt Nam cộng hòa. Không thể tách rời hai miền Nam Bắc, mục đích cao nhất mà toàn dân hướng tới là giành độc lập, thống nhất, non sông thu về một mối, tuy nhiên để thực hiện được mục tiêu cao cả ấy, miền Nam phải có lương thực, vũ khí để chiến đấu. Trong điều kiện khó khăn thiếu thốn, bị kìm kẹp đủ bề quân và dân miền Nam không thể đảm bảo đáp ứng đủ nhu cầu nhân lực, vật lực. Vì vậy, miền Bắc có nhiệm vụ là trở thành hậu phương vững chắc cho miền Nam chắc tay súng. Hai nhiệm vụ cùng nhằm hướng tới một mục tiêu. Do đó, không thể thực hiện đồng thời một chính sách kinh tế ở hai miền khác nhau với những điều kiện, hoàn cảnh khác nhau. Chính sách kinh tế trong thời kỳ trên là bước vận dụng linh hoạt chủ nghĩa Mác – Lênin của Đảng và Nhà nước ta.
Định hướng cho sự phát triển của đất nước.
Sự phát triển của một nhà nước được tính trên cả hai phương diện: kinh tế và xã hội, nhà nước chỉ được coi là hoàn thiện khi có một nền kinh tế phát triển và đời sống xã hội bền vững. Để được như vậy, các nhà lãnh đạo nhà nước phải là những người có tầm nhìn xa trông rộng, hoạch định được những chính sách kinh tế vừa cụ thể, vừa khái quát, đáp ứng nhu cầu của xã hội. Chính sách kinh tế cụ thể giúp giải quyết từng vấn đề, từng lĩnh vực, định hướng từng ngành nghề, từng khu vực sản xuất hoạt động có hiệu quả. Bên cạnh đó, chính sách kinh tế khái quát có tác dụng giữ ổn định nền kinh tế, nền kinh tế không bị xáo trộn liên tục, gây nên những bất ổn, thậm chí có thể tác động cả đến nền chính trị và sự lãnh đạo của đảng cầm quyền, sự tin tưởng của nhân dân vào nhà nước. Đây là một nhiệm vụ khó khăn, một thách thức đối với đội ngũ các nhà lập pháp, nhưng khi thực hiện được thì sẽ góp phần to lớn vào tiến trình xây dựng đất nước, làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội ổn định, phồn vinh.
Chương II. CHÍNH SÁCH KINH TẾ CỦA NHÀ NƯỚC THEO HIẾN PHÁP 1992
2.1. Cơ sở lý luận, pháp lý và thực tiễn của chính sách kinh tế
2.1.1. Cơ sở lý luận: văn kiện Đại hội Đảng.
Đại hội Đảng VI (12/1986) đã thổi luồng gió mới vào đời sống kinh tế ở nước ta. Đại hội đã phân tích đúng đắn nguyên nhân của thực trạng yếu kém của nền kinh tế nước ta, chỉ ra: “Ngày nay đã có những điều kiện để hiểu biết đầy đủ hơn về con đường tiến lên CNXH ở nước ta” [1] và chỉ rõ trong nhận thức và trong hành động, chúng ta chưa thực sự thừa nhận cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, chưa nắm vững và vận dụng đúng quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất. Đồng thời, Đại hội xác định: “Thời kỳ quá độ ở nước ta, do tiến thẳng lên CNXH từ một nền sản xuất nhỏ, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, đương nhiên phải lâu dài và rất khó khăn. Đó là một thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc, toàn diện, triệt để nhằm xây dựng từ đầu một chế độ xã hội mới cả về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng”. [1]. Trên cơ sở đó Đại hội đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện. Đó là một mốc lịch sử quan trọng trên con đường phát triển, mở ra một bước ngoặt trong sự nghiệp xây dựng CNXH ở nước ta.
Dựa trên sự tổng kết thực tiễn của nhiều năm qua, Đại hội Đảng VI cho rằng: “Muốn đưa nền kinh tế sớm thoát khỏi tình trạng rối ren, mất cân đối, phải dứt khoát sắp xếp lại nền kinh tế quốc dân theo cơ cấu hợp lý, trong đó các ngành, các vùng, các thành phần kinh tế… phải được bố trí cân đối, liên kết với nhau phù hợp với điều kiện thực tế, bảo đảm cho nền kinh tế phát triển ổn định”. [1]. Đảng cũng nhấn mạnh: “Đẩy mạnh cải tạo XHCN là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục trong suốt thời kỳ quá độ lên CNXH, với những hình thức và bước đi thích hợp, làm cho quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, luôn luôn có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất”. [1].
Như vậy, tại Đại hội VI, hệ thống các quan điểm và nguyên tắc chỉ đạo sự nghiệp đổi mới ở nước ta đã hình thành. Đường lối đổi mới toàn diện đất nước được đề ra là nhằm nhận thức đúng hơn và thực hiện có hiệu quả hơn công cuộc xây dựng CNXH. Đại hội đã đưa ra những nhận thức mới về cơ cấu kinh tế, về công nghiệp hóa XHCN trong chặng đường đầu tiên, thừa nhận sự tồn tại khách quan của sản xuất hàng hóa và thị trường, phê phán triệt để cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp và khẳng định chuyển hẳn sang hạch toán kinh doanh.
Đại hội Đảng VII (1991): cơ chế vận hành nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng XHCN là cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách và các công cụ khác. Đại hội VII khẳng định nền kinh tế Việt Nam có năm thành phần kinh tế: quốc doanh, tập thể, cá thể, tư bản tư nhân, tư bản nhà nước. Sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế là vấn đề có tính quy luật từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn, là vấn đề có ý nghĩa chiến lược. Các thành phần kinh tế tồn tại lâu dài và nằm trong một cơ cấu kinh tế thống nhất.
Đại hội Đảng VIII (6/1996): tiếp tục chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần định hướng XHCN đó là “xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường phải đi đôi với tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái”. [3]. Đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu XHCN mà là quan niệm đúng đắn hơn về CNXH và thực hiện mục tiêu ấy bằng những hình thức, bước đi và biện pháp phù hợp. Có thể khẳng định, chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần định hướng XHCN chính là nguồn gốc của mọi sự thay đổi theo xu hướng tiến bộ của pháp luật nước ta.
Đại hội Đảng IX (2001) là đại hội của “ý Đảng lòng dân” về sở hữu và các thành phần kinh tế. Đại hội đã có những bổ sung và phát triển trong chính sách kinh tế, đặc biệt là quy định thêm chính sách đối với thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Khái niệm “kinh tế thị trường định hướng XHCN” được đưa ra tại Đại hội IX là sự diễn đạt ngắn gọn nhưng vẫn phản ánh đúng tinh thần cơ bản của những khái quát do Đại hội Đảng đã nêu ra và đặc biệt nói rõ được mô hình kinh tế tổng quát ở nước ta trong thời kỳ quá độ. Đại hội chỉ rõ: Kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam là một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị trường vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của CNXH, thể hiện trên cả ba mặt: sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối. Nói cách khác, kinh tế thị trường định hướng XHCN chính là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Sự khẳng định mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN là mục tiêu của đất nước ta trong Đại hội IX có hai ý nghĩa sâu sắc: một là, khẳng định tính nối tiếp của quá trình đổi mới của nước ta từ Đại hội VI; hai là, xác định rõ tính chất thị trường, tính chất nhiều thành phần, trong đó Nhà nước không những thực thi vai trò chính trị mang bản chất XHCN, mà còn là một thành phần kinh tế cùng với thành phần kinh tế tập thể tạo nền tảng của chế độ kinh tế mới.
Như vậy, tư duy về kinh tế thị trường đã trải qua một quá trình hình thành và phát triển từ thấp đến cao, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện hơn, ngày càng cụ thể, sâu sắc. Nếu ở Đại hội VI, Đảng ta mới khẳng định sự cần thiết phải sử dụng quan hệ hàng hóa – tiền tệ dưới CNXH, thì đến Đại hội VII và Đại hội VIII, Đảng ta đã khẳng định cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng XHCN. Đại h