Cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nƣớc là một giải pháp quan trọng của
Đảng và Nhà nƣớc trong chủ trƣơng đổi mới và sắp xếp lại khối Doanh
nghiệp Nhà nƣớc đƣợc tiến hành trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế đất
nƣớc từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trƣờng
định hƣớng Xã hội chủ nghĩa.
Xuất phát từ thực trạng kinh doanh kém hiệu quả của hệ thống doanh
nghiệp Nhà nƣớc và mục đích chuyển đổi nền kinh tế phù hợp với nền kinh
tế thị trƣờng thì việc đa dạ ng hoá các thành phần kinh tế cũng nhƣ hình thức
sở hữu nền kinh tế là một điều tất yếu. Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nƣớc
nhằm đa dạng hoá hình thức sở hữu, đổi mới phƣơng thức quản lý đồng thời
nhằm thúc đẩy hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh trong các doanh
nghiệp Nhà nƣớc. Hơn nữa, cổ phần hoá là một yếu tố quan trọng thúc đẩy
thị trƣờng chứng khoán ở Việt Nam – thị trƣờng vốn yếu tố nội lực để phát
triển nền kinh tế và hiện nay chƣa thể nói là đã phát triển hoàn thiện nhƣng
lại rất quan trọng khi V iệt Nam đang mở cửa để hoà nhập vào nền kinh tế
khu vực cũng nhƣ thế giới.
Khối doanh nghiệp Nhà nƣớc nắm giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh
tế Việt Nam với những ƣu thế rất lớn. Cổ phần hóa DNNN vừa nhằm xã hội
hóa phƣơng thức tổ chức sản xuất kinh doanh, vừa nâng cao chất lƣợng hoạt
động của hệ thống doanh nghiệp Nhà nƣớc. Quá trình cổ phần hóa doanh
nghiệp Nhà nƣớc đã đƣợc tiến hành ở Việt Nam trong gần 20 năm, nhƣng
việc đổi mới hệ thống doanh nghiệp này là một quá trình lâu dài và có rất
nhiều những khó khăn thử thách.
Nhận định đƣợc mục tiêu, lợi ích cũng nhƣ tình hình cổ phần hoá
doanh nghiệp Nhà nƣớc ở Việt Nam, em đã chọn đề tài nghiên cứu khóa luận
của mình là: “Cổ phần hoá các Doanh nghiệp Nhà nước tại Việt Nam:
2
Thực trạng và giải pháp hoàn thiện”. Qua đề tài, em nghiên cứu lý luận về
công ty cổ phần, cổ phần hóa và phân tích thực trạng cổ phần hóa Doanh
nghiệp Nhà nƣớc ở Việt Nam từ đó đƣa ra giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn
thiện hơn quá trình cổ phần hóa Doanh nghiệp Nhà nƣớc
98 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 2144 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Cổ phần hoá các Doanh nghiệp Nhà nước tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp hoàn thiện, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG
CHUYÊN NGÀNH TÀI CHÍNH QUỐC TẾ
-------***-------
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Đề tài:
Cổ phần hoá các Doanh nghiệp Nhà nước tại
Việt Nam: Thực trạng và giải pháp hoàn thiện
Sinh viên thực hiện : Nguyễn Thị Huyền
Lớp : Anh 5
Khoá : 45
Giáo viên hướng dẫn : TS. Nguyễn Việt Dũng
Hà Nội, tháng 05/2010
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nƣớc là một giải pháp quan trọng của
Đảng và Nhà nƣớc trong chủ trƣơng đổi mới và sắp xếp lại khối Doanh
nghiệp Nhà nƣớc đƣợc tiến hành trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế đất
nƣớc từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trƣờng
định hƣớng Xã hội chủ nghĩa.
Xuất phát từ thực trạng kinh doanh kém hiệu quả của hệ thống doanh
nghiệp Nhà nƣớc và mục đích chuyển đổi nền kinh tế phù hợp với nền kinh
tế thị trƣờng thì việc đa dạng hoá các thành phần kinh tế cũng nhƣ hình thức
sở hữu nền kinh tế là một điều tất yếu. Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nƣớc
nhằm đa dạng hoá hình thức sở hữu, đổi mới phƣơng thức quản lý đồng thời
nhằm thúc đẩy hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh trong các doanh
nghiệp Nhà nƣớc. Hơn nữa, cổ phần hoá là một yếu tố quan trọng thúc đẩy
thị trƣờng chứng khoán ở Việt Nam – thị trƣờng vốn yếu tố nội lực để phát
triển nền kinh tế và hiện nay chƣa thể nói là đã phát triển hoàn thiện nhƣng
lại rất quan trọng khi Việt Nam đang mở cửa để hoà nhập vào nền kinh tế
khu vực cũng nhƣ thế giới.
Khối doanh nghiệp Nhà nƣớc nắm giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh
tế Việt Nam với những ƣu thế rất lớn. Cổ phần hóa DNNN vừa nhằm xã hội
hóa phƣơng thức tổ chức sản xuất kinh doanh, vừa nâng cao chất lƣợng hoạt
động của hệ thống doanh nghiệp Nhà nƣớc. Quá trình cổ phần hóa doanh
nghiệp Nhà nƣớc đã đƣợc tiến hành ở Việt Nam trong gần 20 năm, nhƣng
việc đổi mới hệ thống doanh nghiệp này là một quá trình lâu dài và có rất
nhiều những khó khăn thử thách.
Nhận định đƣợc mục tiêu, lợi ích cũng nhƣ tình hình cổ phần hoá
doanh nghiệp Nhà nƣớc ở Việt Nam, em đã chọn đề tài nghiên cứu khóa luận
của mình là: “Cổ phần hoá các Doanh nghiệp Nhà nước tại Việt Nam:
1
Thực trạng và giải pháp hoàn thiện”. Qua đề tài, em nghiên cứu lý luận về
công ty cổ phần, cổ phần hóa và phân tích thực trạng cổ phần hóa Doanh
nghiệp Nhà nƣớc ở Việt Nam từ đó đƣa ra giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn
thiện hơn quá trình cổ phần hóa Doanh nghiệp Nhà nƣớc.
2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu là nhằm phân tích quá trình cổ phần hóa Doanh
nghiệp Nhà nƣớc ở Việt Nam để thấy đƣợc những kết quả đạt đƣợc, những
mặt còn hạn chế và từ đó đƣa ra một số giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện
hơn quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nƣớc ở Việt Nam.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu : đề tài nghiên cứu lý luận và thực tiễn về cổ
phần hóa Doanh nghiệp Nhà nƣớc ở Việt Nam trong thời gian vừa qua.
Phạm vi nghiên cứu : nghiên cứu và phân tích những nét khái quát
cơ bản về nội dung, tính chất cơ bản của công ty cổ phần, cổ phần hóa và
thực trạng cổ phần hóa dewoanh nghiệp Nhà nƣớc
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Khai thác thông tin từ các sách, báo, tạp chí nhằm tìm kiếm số liệu của
tổng cục thống kê, các ban ngành chỉ đạo, tham khảo những nghiên cứu của
những công trình trong nƣớc và quốc tế, từ đó phân tích, tổng hợp lại những
kết quả về vấn đề này.
5. Kết cấu của khóa luận
Khóa luận gồm có:
Chương I: Những lý luận cơ bản về cổ phần hóa và sự cần thiết phải
tiến hành cổ phần hóa tại Việt Nam.
Chương II: Thực trạng cổ phần hóa Doanh nghiệp Nhà nước tại Việt Nam
Chương III: Giải pháp hoàn thiện cổ phần hóa Doanh nghiệp Nhà
nước tại Việt Nam
2
Đây là một đề tài tƣơng đối rộng và phức tạp chính vì vậy khóa luận
không tránh khỏi nhiều thiếu sót. Em rất mong nhận đƣợc sự đóng góp ý phê
bình của các thầy cô, độc giả để có thể có những hiểu biết hơn về vấn đề này.
Em xin chân thành cám ơn sự hƣớng dẫn, giúp đỡ tận tình của thầy
giáo TS. Nguyễn Việt Dũng đã giúp em hoàn thành khóa luận này.
Hà Nội, ngày 15/4/2010
Sinh viên
Nguyễn Thị Huyền
3
CHƢƠNG I
NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CỔ PHẦN HOÁ VÀ SỰ CẦN THIẾT
PHẢI TIẾN HÀNH CỔ PHẦN HOÁ TẠI VIỆT NAM
I. LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CỔ PHẦN HÓA
1. Công ty cổ phần
1.1 Khái niệm
Công ty cổ phần là một công ty có số vốn đƣợc chia làm nhiều phần
bằng nhau gọi là cổ phần và đƣợc thành lập gồm nhiều hội viên gọi là cổ
đông và chỉ chịu lỗ lãi trong số vốn mà họ đã góp. Giấy chứng nhận cổ phần
gọi là cổ phiếu.
Hiện nay ở Việt Nam, theo Luật Doanh nghiệp 2005,CTCP là doanh
nghiệp, trong đó: vốn điều lệ đƣợc chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ
phần; cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân, số lƣợng cổ đông tối thiểu là ba và
không hạn chế số lƣợng tối đa; cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ
và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn góp vào
doanh nghiệp; cổ đông có quyền tự do chuyển nhƣợng cổ phần của mình cho
ngƣời khác.
1.2 Đặc điểm
1.2.1 Là tổ chức có tư cách pháp nhân độc lập
Pháp luật về công ty của các nƣớc đều xác lập một cách cụ thể về các
quyền và nghĩa vụ pháp lý của công ty cổ phần với tƣ cách là một pháp nhân
độc lập, có năng lực và tƣ cách chủ thể riêng, tồn tại độc lập và tách biệt với
các cổ đông trong công ty. Trong quá trình hoạt động, công ty chịu trách
nhiệm về các khoản nợ của công ty bằng chính tài sản của mình; với tƣ cách
chủ thể là pháp nhân thông qua ngƣời đại diện của mình theo qui định của
pháp luật. Khi công ty mua sắm các tài sản mới, thì tài sản đó thuộc sở hữu
của công ty chứ không thuộc sở hữu của các cổ đông công ty vì lúc này
4
CTCP là một pháp nhân, tách biệt hoàn toàn với các cổ đông. Trong trƣờng
hợp này, cổ đông không đƣợc xem tài sản mà công ty mới mua sắm là tài sản
của cá nhân mình; mặc dù trên thực tế cổ đông là chủ sở hữu một số quyền
lợi có giá trị của công ty cổ phần nhƣ: quyền tham gia quản lý, điều hành
công ty theo qui định, quyền đƣợc chia cổ tức, quyền đƣợc chia tài sản theo
tỷ lệ cổ phần sở hữu khi công ty giải thể … Tuy nhiên, với tƣ cách là một
pháp nhân, CTCP có quyền sở hữu tài sản riêng còn các cổ đông chỉ đƣợc sở
hữu cổ phần trong công ty mà không có bất kỳ quyền sở hữu nào đối với tài
sản của công ty.
1.2.2 Các cổ đông chịu trách nhiệm hữu hạn
Khi một tổ chức hay cá nhân mua cổ phiếu của CTCP tức là họ đã
chuyển dịch vốn của mình theo những phƣơng thức nhất định vào công ty cổ
phần và trở thành tài sản thuộc sở hữu của CTCP, nhƣng cổ đông vẫn đƣợc
hƣởng các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ việc góp vốn. Vốn thuộc sở hữu
công ty chính là giới hạn sự rủi ro tài chính của các cổ đông trên toàn bộ số
vốn đã đầu tƣ vào công ty, nên trách nhiệm của những cổ đông đối với các
nghĩa vụ của công ty đƣợc hạn chế trong phạm vi mà họ đã đầu tƣ vào cổ
phiếu của mình. Xét về phƣơng diện sự tách bạch về tài sản thì các cổ đông
không có quyền đối với tài sản của công ty cổ phần nên họ không chịu trách
nhiệm về các nghĩa vụ của công ty cổ phần; công ty cổ phần chịu trách
nhiệm bằng chính tài sản của mình. Cả CTCP lẫn chủ nợ của công ty đều
không có quyền kiện đòi tài sản của cổ đông trừ trƣờng hợp cổ đông nợ công
ty do chƣa đóng đủ tiền góp vốn hoặc chƣa thanh toán đủ cho công ty cổ
phần số tiền mua cổ phiếu phát hành. Đây là điểm khác nhau cơ bản về trách
nhiệm của các chủ thể kinh doanh, đối với công ty hợp danh hay doanh
nghiệp tƣ nhân (theo pháp luật Việt Nam) và đối với công ty đối nhân hay
doanh nghiệp một chủ của hầu hết các nƣớc thì các thành viên hợp danh (hay
thành viên nhận vốn) và chủ doanh nghiệp sẽ chịu trách nhiệm cá nhân vô
5
hạn về các nghĩa vụ của công ty hay của doanh nghiệp bằng tài sản của
mình, bất kể tài sản đó có liên quan đến hoạt động kinh doanh hay không.
Tính chất chịu trách nhiệm hữu hạn trên đã thu hút mạnh mẽ các nhà
đầu tƣ đầu tƣ vào CTCP nhiều hơn so với đầu tƣ vào các loại hình doanh
nghiệp khác mà ở đó họ phải chịu trách nhiệm vô hạn. Bất kỳ nhà đầu tƣ nào
cũng hiểu rằng khi mình đầu tƣ vào công ty cổ phần với tính chất chịu trách
nhiệm hữu hạn của cổ đông thì không bao giờ mình bị mất nhiều hơn so với
số vốn đã bỏ ra đầu tƣ vào công ty cổ phần nên họ ít sợ rủi ro hơn ngƣời đầu
tƣ vốn vào công ty hợp danh hay doanh nghiệp tƣ nhân, những ngƣời này
phải thấp thỏm lo âu khi tình hình kinh doanh của doanh nghiệp xấu đi, vì họ
có thể mất toàn bộ tài sản bất kỳ khi nào. Chính lợi thế này mà các CTCP có
khả năng huy động rất lớn các nguồn vốn đầu tƣ của xã hội vào hoạt động
sản xuất – kinh doanh của mình.
1.2.3 Chuyển nhượng phần vốn góp một cách tự do
Hầu hết pháp luật về công ty của các nƣớc trên thế giới đều qui định
và cho phép chuyển nhƣợng một cách dễ dàng và tự do các loại cổ phiếu do
công ty cổ phần phát hành từ cổ đông sang chủ sở hữu mới. Vì khác với các
loại công ty khác, vốn điều lệ của CTCP đƣợc chia thành nhiều phần bằng
nhau gọi là cổ phần. Giá trị của mỗi cổ phần gọi là mệnh giá cổ phiếu. Việc
góp vốn vào CTCP đƣợc thực hiện bằng cách mua cổ phiếu nên cổ phiếu
đƣợc xem là hình thức thể hiện phần vốn góp của các cổ đông. Các cổ phiếu
do công ty cổ phần phát hành là hàng hoá nên các cổ đông khi sở hữu cổ
phiếu có thể tự do chuyển nhƣợng; hơn thế nữa trách nhiệm của các cổ đông
chỉ giới hạn trong phạm vi giá trị các cổ phiếu mà họ sở hữu nên khi họ
muốn rút lui khỏi công việc kinh doanh hay muốn bán cổ phiếu của mình
cho ngƣời khác thì họ thực hiện rất dễ dàng. Trong khi đó đối với công ty
trách nhiệm hữu hạn theo qui định của pháp luật Việt Nam thì khi chuyển
nhƣợng các phần vốn góp của mình, thành viên đó phải chuyển nhƣợng
6
trƣớc hết cho các thành viên còn lại trong công ty hoặc chỉ đƣợc chuyển
nhƣợng cho ngƣời không phải là thành viên công ty trong trƣờng hợp các
thành viên còn lại không mua hoặc không mua hết. Đó là lý do giải thích vì
sao có rất nhiều ngƣời muốn đầu tƣ vào CTCP chứ không muốn đầu tƣ vào
các loại hình doanh nghiệp khác. Đây cũng là một trong những yếu tố cần
thiết cho việc hình thành và phát triển thị trƣờng chứng khoán.
1.2.4 Cấu trúc vốn và tài chính linh hoạt
CTCP không thể đƣợc thành lập và hoạt động nếu không có vốn. Vốn
là yếu tố quyết định và chi phối toàn bộ hoạt động, quan hệ nội bộ cũng nhƣ
quan hệ với các đối tác bên ngoài. Trong quan hệ nội bộ, vốn của công ty
đƣợc xem là cội nguồn của quyền lực. Với đặc trƣng là loại hình công ty đối
vốn, quyền lực trong CTCP sẽ thuộc về những ai nắm giữ phần lớn số vốn
trong công ty. Trong quan hệ với bên ngoài, vốn của CTCP là một dấu hiệu
chỉ rõ thực lực tài chính của công ty. Tuy nhiên, khác với nhiều yếu tố khác,
vốn trong CTCP là yếu tố năng động nhất. Các qui luật kinh tế thị trƣờng chỉ
ra rằng cùng với sự lƣu thông hàng hoá là sự lƣu thông tiền tệ, tức là sự tru
chuyển các nguồn vốn. Sự phát triển của CTCP tỷ lệ thuận với sự luân
chuyển các nguồn vốn trong nền kinh tế. Sự vận động của vốn trong công ty
cổ phần vừa chịu sự chi phối khách quan của các qui luật kinh tế, vừa bị ảnh
hƣởng bởi ý chí chủ quan của con ngƣời. Điều này đặt ra một đòi hỏi là con
ngƣời phải tạo ra cách thức góp vốn, cách tổ chức và quản lý vốn để có thể
đáp ứng đƣợc sự vận động linh hoạt của vốn. Sự linh hoạt trong vận động
của vốn vừa phải thích ứng với yêu cầu đòi hỏi đa dạng của nhà đầu tƣ, vừa
không mất đi bản chất vốn có của CTCP. Điều đó có nghĩa là phải tạo cho
bản thân công ty cổ phần khả năng chuyển dịch các phần vốn góp một cách
dễ dàng song tƣ cách pháp nhân của công ty không vì sự chuyển nhƣợng đó
mà bị thay đổi.
7
Theo các qui định của Luật Doanh nghiệp thì công ty cổ phần ở Việt
Nam có thể qui định và phát hành nhiều loại cổ phiếu khác nhau nhƣ: cổ
phiếu phổ thông, cổ phiếu ƣu đãi (trong cổ phiếu ƣu đãi có: cổ phiếu ƣu đãi
biểu quyết, cổ phiếu ƣu đãi cổ tức, cổ phiếu ƣu đãi hoàn lại và các loại cổ
phiếu ƣu đãi khác…) và các loại trái phiếu. Đây sẽ là những loại chứng
khoán đƣợc phát hành rộng rãi ra công chúng nhằm tăng khả năng thu hút
vốn đầu tƣ cho kinh doanh của công ty. Ngoài ra, khi xây dựng giá trị các cổ
phiếu của công ty thì các công ty thƣờng xác lập mệnh giá của cổ phiếu thấp
đã tạo điều kiện thuận lợi cho những nhà đầu tƣ dù cho khả năng tài chính
không nhiều nhƣng vẫn có khả năng tham gia đầu tƣ vốn vào CTCP.
1.2.5 Tính ổn định trong hoạt động kinh doanh và không hạn chế về
thời gian tồn tại
Với các loại hình doanh nghiệp tƣ nhân hay công ty hợp danh, sự tồn
tại của các doanh nghiệp này luôn luôn gắn liền với tƣ cách của chủ sở hữu
doanh nghiệp hay các thành viên hợp danh; bởi vì hoạt động kinh doanh của
các doanh nghiệp này có thể sẽ bị kết thúc cùng với cái chết, sự rút lui hay sự
khánh tận của chủ doanh nghiệp tƣ nhân hay của một trong các thành viên
hợp danh của công ty. Nhƣng đối với CTCP thì hoạt động kinh doanh của
công ty hoàn toàn không phụ thuộc vào bất kỳ điều gì có thể xảy ra đối với
các cổ đông trong công ty; bởi vì CTCP có tƣ cách pháp nhân độc lập nên
nếu có bất kỳ sự rút lui, sự phá sản hoặc thậm chí cái chết có xảy ra đối với
các cổ đông thì công ty cổ phần vẫn tiếp tục tồn tại và phát triển mà hoàn
toàn không hề bị ảnh hƣởng gì. Đây chính là một ƣu điểm bảo đảm cho việc
kinh doanh của công ty diễn ra một cách liên tục và ổn định. Mặt khác, các
luật công ty hiện đại của một số nƣớc đều không hạn chế thời gian tồn tại
của công ty cổ phần trừ những trƣờng hợp nhƣ: công ty phá sản hoặc các cổ
đông cùng thoả thuận chấm dứt hoạt động hay vì một lý do nào khác mà điều
lệ công ty qui định. Chính sự ổn định trong kinh doanh và thời gian hoạt
8
động lâu dài đã tạo cho các CTCP có đƣợc sự thu hút mạnh mẽ và đƣợc ƣa
chuộng hơn so với các loại hình doanh nghiệp khác.
1.2.6 Cơ chế quản lý tập trung cao
Với tƣ cách là một pháp nhân độc lập, trong CTCP có sự tách biệt
giữa quyền sở hữu và cơ chế quản lý. Đó là việc các cổ đông sẽ bầu ra Ban
giám đốc và Ban giám đốc sẽ thay mặt các cổ đông quản lý công ty. Nhƣ
vậy, trong CTCP việc quản lý đƣợc tập trung hoá cao vào Ban giám đốc mà
không dàn trải đều việc quản lý cho các cổ đông nhƣ đối với công ty hợp
danh; bởi vì trong công ty hợp danh việc quản lý công ty đƣợc thực hiện bởi
các thành viên hợp danh với tƣ cách là những ngƣời chịu trách nhiệm vô hạn
hoặc liên đới chịu trách nhiệm vô hạn về các khoản nợ trong kinh doanh của
công ty nên họ đƣợc toàn quyền quản lý công ty và nhân danh công ty trong
các hoạt động. Sự tách biệt giữa quyền sở hữu và việc quản lý còn đƣợc thể
hiện ở việc luật công ty hiện đại của một số nƣớc còn qui định cho phép
giám đốc quản lý công ty có thể không phải là cổ đông của công ty. Giám
đốc có thể là ngƣời đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần, là ngƣời
điều hành các hoạt động kinh doanh hàng ngày của công ty. Rõ ràng việc qui
định nhƣ vậy một mặt thu hút đƣợc những ngƣời quản lý chuyên nghiệp
đƣợc công ty thuê làm công tác quản lý, mặt khác tách biệt vai trò chủ sở
hữu với chức năng quản lý đã tạo cho CTCP có đƣợc sự quản lý tập trung
cao thông qua cơ chế quản lý hiện đại, lành nghề nên rất phù hợp với điều
kiện quản lý các doanh nghiệp có qui mô lớn. Khác với doanh nghiệp tƣ
nhân là việc quản lý mang tính chất nội bộ gia đình, CTCP có một cơ chế
quản lý hợp lý, minh bạch rõ ràng.
Tóm lại: Trong điều kiện hiện nay của Việt Nam khi chúng ta chủ
trƣơng phát triển nền kinh tế thị trƣờng theo định hƣớng Xã hội chủ nghĩa thì
việc giải phóng mọi năng lực sản xuất của xã hội theo hƣớng khai thác các
tiềm năng sẵn có về vốn, lao động, trình độ quản lý và các nguồn lực vật chất
9
cần thiết khác cho nhu cầu đầu tƣ và phát triển của đất nƣớc là một nhân tố
quan trọng bảo đảm cho việc thực hiện thành công các nhiệm vụ phát triển
kinh tế - xã hội theo Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của
Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong tiến trình đẩy mạnh việc khai thác các
nguồn lực quốc gia, chúng ta không thể không tính đến yếu tố nội lực. Nhìn
lại các loại hình doanh nghiệp hiện nay mà pháp luật Việt Nam cho phép
thành lập và hoạt động, tuy mỗi loại đều có những điểm mạnh nhất định đòi
hỏi các nhà kinh doanh cần nắm bắt để khai thác và vận dụng một cách linh
hoạt phù hợp với điều kiện của nền kinh tế.
1.3 Tổ chức quản lý của công ty cổ phần
Do tính chất có nhiều chủ sở hữu của CTCP nên các cổ đông không
thể trực tiếp vai trò chủ sở hữu của mình mà phải thông qua tổ chức đại diện
làm nhiệm vụ quản lý lãnh đạo công ty đó là: Đại hội cổ đông, hội đồng
quản trị, giám đốc điều hành và kiểm soát viên.
Cơ cấu của CTCP hoạt động chặt chẽ với sơ đồ sau:
Đại hội đồng cổ đông: gồm tất cả các cổ đông có quyền biểu quyết,
là cơ quan quyết định cao nhất của công ty cổ phần.
Hội đồng quản trị: là cơ quan quản lý công ty, có toàn quyền nhân
danh công ty để quyết định mọi vấn đề liên quan tới mục đích, quyền lợi của
công ty, trừ những vấn đề thuộc thẩm quyền của Đại hội cổ đông.
Ban kiểm soát: công ty cổ phần có trên 11 cổ đông phải có ban kiểm
soát, ban kiểm soát bầu một thành viên làm trƣởng ban kiểm soát, trƣởng ban
kiểm soát phải là cổ đông. Ban kiểm soát về mô hình có vị thế tƣơng đối khá
cao, tƣơng đƣơng với hội đồng quản trị và trên cả ban giám đốc.
Ban giám đốc: quyết định các vấn đề liên quan đến công việc kinh
doanh hàng ngày của doanh nghiệp, tổ chức thực hiện các quyết định của
Hội đồng quản trị và lên kế hoạch kinh doanh.
10
Sơ đồ 1: Sơ đồ tổ chức công ty cổ phần.
Theo sơ đồ trên thì trong cơ cấu tổ chức và điều lệ hoạt động của
Công ty cổ phần có: Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát
và Ban giám đốc quản lý công ty. Mỗi bộ phận đều có những chức năng,
nhiệm vụ và quyền hạn khác nhau.
2. Cổ phần hoá
2.1 Khái niệm
Cổ phần hoá nói chung diễn có thể diễn ra tại các doanh nghiệp tƣ nhân,
công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty liên doanh và tại các Doanh nghiệp Nhà
nƣớc. Cổ phần hoá theo nghĩa rộng là quá trình chuyển một doanh nghiệp từ
các hình thức tổ chức kinh doanh khác sang hình thái CTCP.
Cổ phần hoá DNNN là chuyển DNNN thành CTCP, trong đó chuyển
toàn bộ hay một phần vốn và tài sản thuộc sở hữu Nhà nƣớc và các lĩnh vực
lâu nay Nhà nƣớc độc quyền cho các cổ đông. Cổ phần hoá doanh nghiệp
Nhà nƣớc không chỉ là quá trình chuyển sở hữu Nhà nƣớc sang các cổ đông
thông qua việc bán một phần hay toàn bộ cổ phần doanh nghiệp mà còn có
cả việc DNNN thu hút thêm vốn thông qua phát hành thêm cổ phiếu để trở
thành CTCP.
11
Xét về bản chất cổ phần hoá DNNN là việc Nhà nƣớc bán một phần
hay toàn bộ giá trị cổ phần của mình trong doanh nghiệp hoặc phát hành
thêm cổ phiếu bán cho các đối tƣợng là tổ chức, cá nhân trong và ngoài
doanh nghiệp bằng đấu giá công khai hay thông qua thị trƣờng chứng khoán.
Cổ phần hoá DNNN chính là phƣơng thức thực hiện xã hội hoá sở hữu,
chuyển hình thái kinh doanh một chủ sở hữu Nhà nƣớc trong doanh nghiệp
thành nhiều chủ sở hữu, tức là chuyển từ hình thức sở hữu đơn nhất sang đa
chủ sở hữu thông qua việc chuyển một phần tài sản của doanh nghiệp cho
ngƣời khác để tạo ra một doanh nghiệp phù hợp với nền kinh tế thị trƣờng,
những ngƣời này trở thành chủ sở hữu của doanh nghiệp theo tỷ lệ cổ phần
mà họ sở hữu.
CPH DNNN chính là quá trình chuyển đổi toàn bộ những DNNN mà
Nhà nƣớc không cần nắm giữ 100% vốn điều lệ thành công ty cổ phần. CPH
DNNN gắn liền với việc DNNN chuyển sang hoạt động dƣới tên công ty và
luật CTCP, không còn là DNNN nữa.
Ở Việt Nam, ngƣời ta thƣờng nhầm lẫn giữa cổ phần hoá và tƣ nhân
hoá. Một số nghiên cứu cho rằng việc thực hiện tƣ nhân hoá các Doanh
nghiệp cũng gần tƣơng đồng với quá trình cổ phần hoá ở Việt Nam. Nhƣng
tƣ nhân hoá DNNN là một khái niệm rộng và đƣợc định nghĩa theo nhiều
cách khác nhau.