Sau Chiến tranh Lạnh, hệ thống quan hệ quốc tế bước vào một thời kỳ lịch sử quá độ mới. Thế giới văn minh đang ở thế kỷ XXI, nhưng chưa có ngày nào im tiếng súng. Sau khi trật tự hai cực đổ vỡ, thế giới diễn ra những quá trình hợp tác - đấu tranh - xâm nhập và chuyển hóa lẫn nhau vô cùng phức tạp để thiết lập một trật tự thế giới mới - trật tự theo hướng đa cực. Xuất phát từ lợi ích chiến lược cơ bản, các quốc gia đều tiến hành điều chỉnh, bổ sung chiến lược đối ngoại nhằm giành được vị trí có lợi, hoặc ít ra là không bất lợi nhất trong đời sống chính trị, kinh tế thế giới. Một xu hướng nổi bật hiện nay là các nước vừa hợp tác vừa đấu tranh, thậm chí xung đột với nhau trong các mối quan hệ song phương cũng như đa phương. Sự tương đồng và khác biệt về lợi ích, quan điểm ý thức hệ, lịch sử, văn hoá. giữa các quốc gia luôn là nhân tố chủ yếu tác động và chi phối vấn đề hợp tác và xung đột.
Bên cạnh những nỗ lực duy trì hòa bình, mở rộng hợp tác để phát triển, nhân loại vẫn đang phải chứng kiến nhiều cuộc xung đột quốc tế lớn, nhỏ trong khu vực và trên thế giới. Do vậy, khi nói về xu thế hòa bình, hợp tác và phát triển, không thể không phân tích và dự báo những tác động, ảnh hưởng của các cuộc xung đột quốc tế cũng như khả năng xảy ra các cuộc xung đột mới trong tương lai.
Trong khi đó, thế giới còn bị chấn động thêm bởi hàng loạt cuộc xung đột khu vực, xung đột nội bộ. Từ năm 1945 đến nay mặc dù không có cuộc chiến tranh thế giới nào xảy ra, nhưng lại có hơn 60 cuộc chiến tranh vừa và nhỏ bằng vũ khí thông thường và cả vũ khí tinh khôn" - vũ khí công nghệ cao đã làm hàng triệu người bị thiệt mạng. Dường như chiến tranh lạnh vẫn lấp ló đâu đó chưa chịu rời hẳn thế giới này.
Các cuộc chiến tranh vừa và nhỏ có nhiều hình dạng khác nhau mỗi nơi một vẻ, nhưng tựu lại, có thể chia thành 7 loại: Chiến tranh khu vực, các cuộc nổi dậy, các hoạt động khủng bố, xung đột sắc tộc, tôn giáo, chiến tranh từ những mâu thuẫn quyền lợi kinh tế giữa các quốc gia dân tộc có chủ quyền, chiến tranh do những tham vọng chính trị và các cuộc nội chiến. Các cuộc chiến tranh này đã thay nhau ngự trị khắp nơi. Hầu hết các cuộc chiến tranh nói trên đều bắt đầu từ vấn đề dân tộc hoặc có liên quan đến vấn đề dân tộc. Nhiều cuộc chiến tranh có nguy cơ bị kéo dài trong khi nhiều nguy cơ xung đột mới đang đe dọa hàng triệu dân lành.
24 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 4607 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Đặc điểm của các cuộc xung đột khu vực trong quan hệ quốc tế hiện đại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ NGOẠI GIAO
HỌC VIỆN NGOẠI GIAO
KHOA CHÍNH TRỊ QUỐC TẾ VÀ NGOẠI GIAO
--------&-------
KHÓA LUẬN
BỘ MÔN: CHÍNH TRỊ QUỐC TẾ HIỆN ĐẠI
ĐỀ TÀI
ĐẶC ĐIỂM CỦA CÁC CUỘC XUNG ĐỘT KHU VỰC TRONG QUAN HỆ QUỐC TẾ HIỆN ĐẠI
Sinh viên thực hiện: Hoàng Thị Minh
Lớp : CT35G
Hà Nội, ngày 30 tháng 11 năm 2011
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
NATO : Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương
BRICS : Nhóm các nước Brasil, Nga, Ấn Độ, Trung Quốc và Nam Phi
ASEAN : Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á
EU : Liên minh châu Âu hay Liên hiệp châu Âu
UNDP : Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc
LHQ : Liên hợp quốc
LTTE :Những con hổ giải phóng Tamil
FARC : Lực lượng vũ trang cách mạng Columbia
LỜI MỞ ĐẦU
Sau Chiến tranh Lạnh, hệ thống quan hệ quốc tế bước vào một thời kỳ lịch sử quá độ mới. Thế giới văn minh đang ở thế kỷ XXI, nhưng chưa có ngày nào im tiếng súng. Sau khi trật tự hai cực đổ vỡ, thế giới diễn ra những quá trình hợp tác - đấu tranh - xâm nhập và chuyển hóa lẫn nhau vô cùng phức tạp để thiết lập một trật tự thế giới mới - trật tự theo hướng đa cực. Xuất phát từ lợi ích chiến lược cơ bản, các quốc gia đều tiến hành điều chỉnh, bổ sung chiến lược đối ngoại nhằm giành được vị trí có lợi, hoặc ít ra là không bất lợi nhất trong đời sống chính trị, kinh tế thế giới. Một xu hướng nổi bật hiện nay là các nước vừa hợp tác vừa đấu tranh, thậm chí xung đột với nhau trong các mối quan hệ song phương cũng như đa phương. Sự tương đồng và khác biệt về lợi ích, quan điểm ý thức hệ, lịch sử, văn hoá... giữa các quốc gia luôn là nhân tố chủ yếu tác động và chi phối vấn đề hợp tác và xung đột.
Bên cạnh những nỗ lực duy trì hòa bình, mở rộng hợp tác để phát triển, nhân loại vẫn đang phải chứng kiến nhiều cuộc xung đột quốc tế lớn, nhỏ trong khu vực và trên thế giới. Do vậy, khi nói về xu thế hòa bình, hợp tác và phát triển, không thể không phân tích và dự báo những tác động, ảnh hưởng của các cuộc xung đột quốc tế cũng như khả năng xảy ra các cuộc xung đột mới trong tương lai.
Trong khi đó, thế giới còn bị chấn động thêm bởi hàng loạt cuộc xung đột khu vực, xung đột nội bộ. Từ năm 1945 đến nay mặc dù không có cuộc chiến tranh thế giới nào xảy ra, nhưng lại có hơn 60 cuộc chiến tranh vừa và nhỏ bằng vũ khí thông thường và cả vũ khí tinh khôn" - vũ khí công nghệ cao đã làm hàng triệu người bị thiệt mạng. Dường như chiến tranh lạnh vẫn lấp ló đâu đó chưa chịu rời hẳn thế giới này.
Các cuộc chiến tranh vừa và nhỏ có nhiều hình dạng khác nhau mỗi nơi một vẻ, nhưng tựu lại, có thể chia thành 7 loại: Chiến tranh khu vực, các cuộc nổi dậy, các hoạt động khủng bố, xung đột sắc tộc, tôn giáo, chiến tranh từ những mâu thuẫn quyền lợi kinh tế giữa các quốc gia dân tộc có chủ quyền, chiến tranh do những tham vọng chính trị và các cuộc nội chiến. Các cuộc chiến tranh này đã thay nhau ngự trị khắp nơi. Hầu hết các cuộc chiến tranh nói trên đều bắt đầu từ vấn đề dân tộc hoặc có liên quan đến vấn đề dân tộc. Nhiều cuộc chiến tranh có nguy cơ bị kéo dài trong khi nhiều nguy cơ xung đột mới đang đe dọa hàng triệu dân lành.
NỘI DUNG
CHƯƠNG I: KHÁI NIỆM VỀ XUNG ĐỘT VÀ CÁC NGUYÊN NHÂN DẪN TỚI XUNG ĐỘT.
1. Khái niệm về xung đột và sự khác nhau giữa xung đột và chiến tranh.
1.1. Khái niệm
Trong các khái niệm về xung đột, thường không có sự khác nhau nhiều về mặt nội dung. Trong quan hệ quốc tế có hai khái niệm tương đối phổ biến:
Khái niệm thứ nhất: xung đột là sự khác nhau về kết quả mong muốn trong một tình huống mặc cả nào đó. Quan hệ quốc tê: những khia cạnh lý thuyết và vấn đề. Tr 199. NXB chinh trị quốc gia.
Khái niệm thứ hai: xung đột là một tình trạng xã hội nảy sinh khi hai hay nhiều chủ thể cùng theo đuổi những mục đích riêng biệt hoặc trái ngược nhau. Quan hệ quốc tê: những khia cạnh lý thuyết và vấn đề. Tr 199. NXB chinh trị quốc gia.
Xung đột quốc tế là sự tương tác có tính cưỡng bức, được thể hiện rõ giữa các quốc gia, các cộng đồng đối kháng với nhau. Đó là quá trình các bên xung đột tìm cách làm tổn hại, gián đoạn hoạt động hoặc tiêu diệt lẫn nhau. Xung đột quốc tế mang tính rất đa dạng, được biểu hiện ở nhiều hình thức khác nhau. Có thể là chiến tranh thế giới, chiến tranh khu vực, chiến tranh giữa hai quốc gia hoặc trong lòng một quốc gia có sự can thiệp, hậu thuẫn của các lực lượng bên ngoài, hoặc cũng có thể là những cuộc bạo động, chính biến, những cuộc khủng hoảng chính trị, ngoại giao, quân sự, tranh chấp biên giới, lãnh thổ, những bất đồng quan điểm, các cuộc chạy đua tranh giành ảnh hưởng.
1.2. Sự khác nhau trong xung đột và chiến tranh.
Xug đột và chiến tranh khác nhau trong tính chất và nức độ mâu thuấn.
Chiến tranh là sự liên quan đến bạo lực, xung đột chỉ có thể đẫn đến việc sử dụng bạo lực quân sự hoặc là không.
Chiến tranh thường sử dụng dụng bạo lực quân sự trên quy mô lớn, gây hậu quả lớn cho xã hội. xung đột quân sự được sử dụng để chỉ những đụng độ nhỏ, không gây sự tàn phá hay tổn thất lớn về tính mạng.
Sự khác nhau về tính chất và lực lượng của chủ thể tham gia: Chủ thể tham gia xung đột có thể là các cá nhân, các nhóm, quốc gia… Với những màu sắc từ kinh tế, văn hóa, chính tri-xã hội. Chủ thể tham gia chiến tranh chủ yếu là giữa các đơn vị chính trị có thể là quốc gia, vùng lãnh thổ hay đảng phái, phe nhóm chính trị trong một nước.
Giữa xung đột và chiến tranh có điểm giống nhau: cả hai đều xuất phát từ mâu thuẫn trong mục đích, nhận thức hay hành vi giữa các bên liên quan.
2. Các nguyên nhân dẫn đến xung đột khu vực.
Nguyên nhân để xảy ra xung đột rất đa dạng, nó có thể vô tình, cũng có thể là cố tình, nhưng rốt cuộc cũng chỉ là biểu hiện bên ngoài của một khối bom đã tích tụ đủ lâu cho thời điểm bùng nổ.
Xung đột quốc tế còn do các nguyên nhân nảy sinh trong quá trình hoạt động giữa các chủ thể của quan hệ quốc tế, trước hết là giữa các quốc gia, các cộng đồng dân tộc, tôn giáo. Toàn cầu hóa đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ làm cho các quốc gia hợp tác, quan hệ với nhau ngày càng được tăng cường, mở rộng và chặt chẽ hơn. Tuy nhiên, đó cũng là tiền đề để các mâu thuẫn, xung đột có điều kiện nảy sinh và phát triển.
Có thể thấy, nguyên nhân dẫn đến xung đột quốc tế chủ yếu xuất phát từ hai yếu tố chính, đó là nguyên nhân bên ngoài và nguyên nhân bên trong
2.1 Nguyên nhân bên ngoài.
Giữa các quốc gia, các cộng đồng dân tộc, tôn giáo. Toàn cầu hóa đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ làm cho các quốc gia hợp tác, quan hệ với nhau ngày càng được tăng cường, mở rộng và chặt chẽ hơn. Tuy nhiên, đó cũng là tiền đề để các mâu thuẫn, xung đột có điều kiện nảy sinh và phát triển.
Nguyên nhân của xung đột quốc tế trước hết gắn liền với đặc điểm cấu trúc hệ thống chính trị thế giới, bối cảnh quốc tế và khu vực. Đa số các cuộc xung đột quốc tế hiện nay đều liên quan đến sự thay đổi trật tự thế giới, sự phân bố lực lượng và các trung tâm quyền lực trên thế giới. Năm 1991, với sự tan rã của Liên Xô, trật tự thế giới hai cực chấm dứt.
Thế giới bước vào giai đoạn mới - giai đoạn hình thành trật tự thế giới mới. Tham vọng của Mỹ muốn thiết lập một trật tự thế giới một cực do Mỹ lãnh đạo đã vấp phải sự phản ứng quyết liệt của các nước, nhất là các nước có mong muốn thiết lập trật tự thế giới đa cực, một thế giới bình đẳng và dân chủ. Quá trình hình thành trật tự thế giới mới luôn đi kèm với quá trình chia tách và tập hợp lực lượng. Nhiều liên kết bị tan rã hoặc thay đổi hình thức hoạt động, đồng thời nhiều liên kết mới được hình thành. Điều này thể hiện rõ qua các quá trình chính trị thế giới sau Chiến tranh lạnh: sự tan rã của Liên Xô, của Liên bang Nam Tư, sự thành lập các quốc gia mới, sự mở rộng Liên minh châu Âu, mở rộng phạm vi hoạt động của NATO, sự ra đời của liên minh an ninh, phòng thủ tập thể của các nước trong không gian Liên Xô cũ, của Tổ chức Hợp tác Thượng Hải, Nhóm BRIC, Nhóm các nước phát triển và mới nổi G20, sự củng cố của ASEAN với mục tiêu xây dựng Cộng đồng ASEAN... Tuy nhiên, các quá trình này cũng luôn đi kèm với những bất đồng, mâu thuẫn giữa các bên và trong nhiều trường hợp kết thúc bằng các cuộc xung đột.
Bên cạnh đó, quá trình hình thành trật tự thế giới mới cũng là dịp để các quốc gia nhìn nhận, xem xét, đánh giá lại vị trí, vai trò của mình trong hệ thống thế giới và trong khu vực. Việc cạnh tranh ảnh hưởng giữa Trung Quốc và Nhật Bản, giữa Trung Quốc và Mỹ, việc nhóm các nước lớn như Nhật Bản, Ấn Độ, Đức, Bra-xin vận động thay đổi cơ cấu của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc... thể hiện mong muốn thay đổi vị trí của mình trên thế giới và khu vực. Các nhà nghiên cứu quan hệ quốc tế đã chứng minh rằng, khi có sự mất cân bằng các chuẩn mực để xem xét vị trí của một quốc gia trong hệ thống chính trị thế giới, khi một quốc gia có thể có vị trí cao trong hệ thống chuẩn mực này, nhưng lại có vị trí yếu hơn hoặc thấp hơn trong hệ thống chuẩn mực khác cũng là lúc xung đột quốc tế có thể xảy ra. Nguyên nhân của xung đột quốc tế thường xuất phát từ sự mất cân bằng cấu trúc trong hệ thống chính trị thế giới, do sự xuất hiện của các "quốc gia muốn thay đổi”. Sức mạnh của các quốc gia này lớn mạnh đến mức gần bằng các cường quốc có vai trò chủ đạo trên thế giới, tuy nhiên ảnh hưởng chính trị của họ lại bị hạn chế. Do vậy, họ có xu hướng vận động để làm thay đổi tình huống đó.
Ngoài ra, các quốc gia vừa và nhỏ cũng dễ bị lôi cuốn vào các tình huống xung đột, khi trật tự thế giới thay đổi, hoặc có sự biến đổi lớn trong tương quan lực lượng quốc tế. Trong trường hợp đó, các quốc gia này bị mất sự định vị rõ ràng về vị trí của mình trong cấu trúc quan hệ quốc tế, trong việc xác định các định hướng quan hệ, tập hợp lực lượng quốc tế và có xu hướng vận động để kết thúc tình trạng đó. Đây là ngòi nổ cho các cuộc xung đột quốc tế. Tiêu biểu là những xung đột ở khu vực Đông Âu, vùng Cáp-ca-dơ, Trung Á và Trung Đông hiện nay.
Xung đột quốc tế còn do các nguyên nhân nảy sinh trong quá trình hoạt động giữa các chủ thể của quan hệ quốc tế, trước hết là giữa các quốc gia, các cộng đồng dân tộc, tôn giáo. Toàn cầu hóa đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ làm cho các quốc gia hợp tác, quan hệ với nhau ngày càng được tăng cường, mở rộng và chặt chẽ hơn. Tuy nhiên, đó cũng là tiền đề để các mâu thuẫn, xung đột có điều kiện nảy sinh và phát triển..
2.2: Nguyên nhân bên trong.
Xung đột quốc tế còn có các nguyên nhân và điều kiện phát triển từ ngay trong mỗi quốc gia. Bắt đầu từ những nguyên nhân bên trong, nhưng sớm hay muộn các cuộc xung đột này đều bị quốc tế hóa với sự tham gia, can thiệp trực tiếp hay gián tiếp của các nhân tố quốc tế.
Ở một số nước, những lực lượng chống đối chính quyền bên trong còn nhận được sự hậu thuẫn của các thế lực bên ngoài. Trong số các nguyên nhân bên trong dẫn đến xung đột, đặc biệt cần chú ý đến các yếu tố:
Sự tồn tại trong mỗi quốc gia những nhóm dân tộc, tôn giáo hoặc ngôn ngữ có sự phân chia ranh giới hành chính tương đối rõ ràng. Điều này thường xảy ra ở các nước theo thể chế liên bang, ở các nước có các vùng dân tộc tự trị hoặc ở các nước có việc phân chia biên giới hành chính dựa vào các nguyên tắc lãnh thổ dân tộc hoặc ngôn ngữ, tín ngưỡng. Đó là các trường hợp như nước cộng hòa Trê-xni-a (Liên bang Nga), Cô-xô-vô (Xéc-bi-a), vùng Kê-bếch (Ca-na-đa), vùng Tân Cương (Trung Quốc)...
Sự phát triển chênh lệch giữa các địa phương kết hợp với sự tập trung cao độ ở trung ương. Trong một quốc gia có những vùng khác nhau về tín ngưỡng, văn hóa, dân tộc, sự phát triển quá chênh lệch giữa các vùng... dễ dẫn đến hậu quả dân chúng ở vùng đó mất đi cảm giác “quốc gia thuần nhất”, mà chỉ còn cảm giác dân tộc, tôn giáo hoặc ngôn ngữ thuần nhất. Đây là điều kiện “lý tưởng” cho sự xuất hiện và phát triển các tư tưởng, các tổ chức chia rẽ, ly khai.
Trong đất nước có sự thay đổi chính trị, kinh tế lớn, dẫn đến sự ra đời của các thế lực chính trị, kinh tế mới.Trong nhiều trường hợp, sự xuất hiện của các thế lực này dẫn đến những bất ổn trong đời sống chính trị, kinh tế các nước do xu hướng muốn bảo vệ quyền lợi hoặc muốn tạo ra sự thay đổi có lợi cho mình. Sự bất ổn về chính trị, kinh tế càng làm cho các mâu thuẫn trở nên sâu sắc và phát triển thành các xung đột lớn.
Sự yếu kém của bộ máy chính quyền, sự kém phát triển của văn hóa hòa giải trong xã hội, của cơ cấu dân chủ có vai trò bảo đảm sự điều phối và giải quyết các tình huống mâu thuẫn, xung đột, nhất là sự yếu kém của hệ thống luật pháp, của cơ cấu trung gian, hòa giải không giải quyết được các mâu thuẫn, xung đột khi nó mới xuất hiện.
Những khó khăn trong đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội, những hạn chế các quyền cơ bản của con người về tự do, dân chủ, tín ngưỡng... không được giải quyết một cách cơ bản, kịp thời sẽ dẫn đến những cuộc bạo loạn, xung đột. Những cuộc xung đột xảy ra ở các quốc gia Trung Á, Trung Đông và Bắc Phi hiện nay đều bắt đầu từ những nguyên nhân bên trong đó và đang trở nên ngày càng gay gắt, khó giải quyết.
CHƯƠNG II. ĐẶC ĐIỂM CỦA CÁC CUỘC XUNG ĐỘT KHU VỰC TRONG QUAN HỆ QUỐC TẾ HIỆN ĐẠI.
1. Xung đột về lãnh thổ.
Tranh chấp lãnh thổ là nguyên nhân phổ biến và khó giải quyết nhất trong quan hệ giữa các quốc gia. Lãnh thổ, biên giới quốc gia liên quan đến không gian sinh tồn và phát triển của đất nước là yếu tố quan trọng nhất đối với mọi quốc gia. Vấn đề biên giới, lãnh thổ cũng thường gắn với quá trình lịch sử lâu dài, phức tạp trong quan hệ giữa các nước, các cộng đồng dân tộc.
Biểu hiện qua các tranh chấp về biên giới, lãnh thổ; các cuộc xâm chiếm lãnh thổ.
Tranh chấp lãnh thổ cũng là nguồn gốc của xung đột khu vực Châu Á - Thái Binh Dương, là một trong những nguyên nhân quan trọng nhất ảnh hưởng trực tiếp tới khu vực này. Paul Huth, nhà nghiên cứu cấp cao của viện nghiên cứu các vấn đề xã hội thuộc đại học Michigan, cũng là một trong những học giả Mỹ nghiên cứu lĩnh vực tranh chấp lãnh thổ quốc tế nói rằng: "khi nghiên cứu nền chính trị quốc tế, bạn sẽ nhanh chóng phát hiện ra rằng, tự cổ chí kim, tranh chấp lãnh thổ luôn là nguyên nhân quan trọng dẫn đến mọi cuộc xung đột.
Mặc dù người ta vẫn bàn đến độc lập dân tộc của một quốc gia nào đó đang bị suy giảm, chủ quyền đang đến hồi kết; thế nhưng, nếu bạn biết những ranh giới lãnh thổ nào đang xảy ra tranh chấp thì bạn sẽ biết được cái cốt lõi của điểm nóng ấy ở đâu".
Tranh chấp Biển Đông được gọi là "cuộc tranh chấp lãnh thổ trên phạm vi toàn cầu". Từ thập niên 70 của thế kỷ 20, các nước liên quan đều lên tiếng yêu cầu chủ quyền đối với Biển Đông, một số nước còn xây dựng chiến lược quốc phòng mới, đẩy mạnh thiết lập lực lượng hải quân và không quân, thiết chặt kiểm soát quân sự, tăng cường khai thác tài nguyên... Hiện trạng này dẫn đến sự căng thẳng leo thang trong khu vực Biển Đông. Những thập niên 70 và 80, Trung Quốc và Việt Nam đã từng xảy ra hai cuộc xung đột vũ trang đẫm máu trên vùng Biển Đông
. Tình hình căng thẳng trên Biển Đông khiến cho toàn khu vực, thậm chí các nước trên thế giới đều tỏ thái độ lo sợ và quan tâm đặc biệt tới an ninh khu vực Châu Á - Thái Bình Dương. Biển Đông trở thành "vùng biển nguy hiểm" và là "quả bom công kích lớn" toàn khu vực này.
Ngoài tranh chấp Biển Đông thì tranh chấp chủ quyền đảo Điêu Ngư Trung - Nhật, hay vấn đề về chủ quyền "Bốn đảo phía bắc" Nhật - Nga, tranh chấp quần đảo Dokdo Nhật - Hàn cũng đều là vấn đề quan tâm hàng đầu của dư luận thế giới. Mặc dù khu vực tranh chấp chỉ là những "nốt chấm nhỏ" hiển thị trên bản đồ, nhưng đối với khu vực Châu Á - Thái Bình Dương lại có ý nghĩa vô cùng lớn, nó liên quan đến mối quan hệ chính trị giữa các nước mà mỗi vấn đề đều có nguy cơ phát nổ bất cứ lúc nào. Xung đột đảo Điêu Ngư xảy ra triền miên giữa Trung Quốc và Nhật luôn là điểm nóng của toàn thế giới, hay trong cuộc đối kháng và tranh luận ngoại giao kịch liệt giữa Hàn và Nhật về quần đảo Dokdo năm 1996, Hàn Quốc thậm chí đã khiến cho tình hình trở nên căng thẳng hơn khi tổ chức thực hiện cuộc tập trận hải - không quân quy mô tương đối lớn.
Đặc điểm tranh chấp lãnh thổ khu vực Châu Á ngay từ khi bắt đầu hay trong quá trình diễn ra đều bị chi phối bởi nhân tố chính trị. Khi chính trị giữa các nước liên quan rơi vào tình trạng căng thẳng thì biểu hiện đầu tiên cũng là cốt lõi của mọi cuộc xung đột luôn là tranh chấp lãnh thổ.
Nếu không có biện pháp giải quyết hợp lý thì điều này chính là mầm mống gây nên tình trạng căng thẳng giữa các nước, thậm chí là xung đột vũ trang. Ngoài ra còn có nhiều đặc điểm tương đồng trong các cuộc tranh chấp lãnh thổ, đặc biệt là phương hướng nhìn nhận vấn đề hay biện pháp giải quyết một cuộc tranh chấp sẽ ảnh hưởng không nhỏ tới quá trình giải quyết cho cuộc tranh chấp liên tiếp sau nó, dẫn đến hiện trạng gọi là "phản ứng dây chuyền". Ngoài ra còn có các cuộc xung đột khác như : cuộc chiến tranh do Mỹ phát động ở I-rắc, cuộc xung đột giữa I-xra-en và Pa-le-xtin, Ấn Độ và Pa-ki-xtan (vùng Ca-sơ-mia), Nhật Bản và Hàn Quốc (đảo Đốc Đô), Nhật Bản và Nga (đảo Cu-rin), tranh chấp chủ quyền các đảo ở Biển Đông, Thái Lan và Cam-pu-chia (Đền Prết Vi-hia)...
2. Xung đột về chính trị
Lợi ích dân tộc là tiêu chí hàng đầu của các quốc gia trong việc giải quyết các vấn đề quốc tế. Tuy nhiên, trong thời kì chiến tranh lạnh, khi thế giới bị chia làm hai phe do hai siêu cường khống chế, lợi ích dân tộc nhiều khi bị đặt xuống dưới, thậm chí bị hi sinh để bảo vệ “lợi ích quốc tế” của mỗi phe. Sau khi chiến tranh lạnh chấm dứt, lợi ích dân tộc được đặt lên hàng đầu. Mỗi quốc gia dù lớn hay nhỏ đều xuất phát từ lợi ích dân tộc để thể hiện quan điểm, thái độ riêng đối với các vấn đề quốc tế. Thực tế cho thấy, điều đó được thể hiện trong thái độ của các nước đối với các vấn đề quốc tế lớn hiện nay như: vấn đề chống khủng bố quốc tế, cuộc chiến tranh ápganixtan, chiến tranh Irắc, vai trò của Liên Hợp Quốc, vấn đề môi trường, vấn đề hạt nhân, nhân quyền… và hàng loạt những vấn đề khác.
Sự tập hợp lực lượng trở nên cơ động, linh hoạt, tuỳ theo từng vấn đề, từng thời điểm trong quan hệ quốc tế, không phân biệt chế độ chính trị - xã hội khác nhau,
trên cơ sở đảm bảo tốt nhất cho lợi ích dân tộc.
Các cuộc xung đột liên quan đến sự khác biệt về hệ tư tưởng; qua sự hỗ trợ, can thiệp trực tiếp hay gián tiếp vào công việc nội bộ của nước khác; sự phá hoại, xuyên tạc tình hình của các nước khác; sự ủng hộ, giúp đỡ các nhóm đối lập; tiến hành lật đổ chính quyền, xây dựng các chính phủ bù nhìn... Sự chống phá của các thế lực thù địch đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta và các nước xã hội chủ nghĩa, các cuộc “cách mạng sắc màu”, các cuộc bạo loạn, đảo chính chính trị đã và đang diễn ra ở khu vực Trung Á, Trung Đông, Bắc Phi hiện nay là những dẫn chứng tiêu biểu cho các xung đột có nguyên nhân chính trị. Đã hơn 10 năm trôi qua sau khi chiến tranh lạnh kết thúc. Liên Xô tan rã, nhưng mâu thuẫn về ý thức hệ không vì thế mà mất đi. Trên bình diện quốc tế, các nước tư bản chủ nghĩa đứng đầu là Mĩ vẫn chưa từ bỏ ý đồ thực hiện “diễn biến hoà bình” với các nước xã hội chủ nghĩa còn lại như Việt Nam, Cuba, Bắc Triều Tiên… Biên giới của thời kỳ chiến tranh lạnh vẫn còn ở bán đảo Triều Tiên, eo biển Đài Loan. Để chống các nước xã hội chủ nghĩa, các nước tư bản không chỉ dùng diễn biến hoà bình mà còn dùng biện pháp bao vây, cấm vận, sự trừng phạt về kinh tế, đe doạ về quân sự, sử dụng chiêu bài bảo vệ dân chủ, nhân quyền…Tuy nhiên, sự tồn tại của mâu thuẫn về ý thức hệ không thể cản trở quá trình hợp tác kinh tế trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay giữa các nước có hệ thống chính trị xã hội đối lập nhau. Trong tình hình đó, mâu thuẫn giữa các nước xã hội chủ nghĩa với Mĩ và các nước tư bản chủ nghĩa khác vẫn là đối kháng về ý thức hệ song sự đối kháng đó không phải là nhân tố chủ đạo chi phối quan hệ quốc tế như trong thời kỳ chiến tranh lạnh trước đây. Mâu thuẫn về ý thức hệ giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội được thể hiện chủ yếu thông qua “diễn biến hoà bình” và “chống diễn biến hoà bình”.Cuộc đấu tranh này diễn ra trên nhiều phương diện và là một quá trình đấu tranh lâu dài.
3. Xung đột về kinh tế.
kinh tế trở thành nhân tố quyết định trong sức mạnh tổng hợp của các quốc gia và trở thành động lực chính của xu thế khu vực hoà và toàn cầu hoá. Trong bối cảnh sự phát triển như vũ bão của