Logic tôn trọng sự thật, hướng đến chân lí. Phóng đại bóp méo, làm sai
lệch sự thật, làm sự vật sự việc mất đi bản chất vốn có ban đầu. Phóng đại là
một biểu hiện của sự phi logic. Truyện cười bác Ba Phi sử dụng ngôn ngữ để
phóng đại hiện thực dẫn đến có sự bất tương thích giữa ngữ nghĩa ngôn từ và
logic.
Tất cả các truyện cười bác Ba Phi đều có yếu tố phóng đại. Vì vậy,
muốn thuyết phục người nghe tin vào các câu chuyện của mình thì người kể
phải kể chuyện một cách hợp lí. Nghĩa là người kể phải có những lập luận
chặt chẽ, logic và phải dựa trên những cơ sở có thật. Như vậy, câu chuyện
mới có thể thuyết phục người nghe. Trong chương tiếp theo, chúng tôi sẽ đi
tìm cái lí, cái cơ sở của sự phóng đại và phân tích lập luận trong truyện cười
bác Ba Phi. Đồng thời, chúng tôi cũng phân tích các loại lí lẽ mà bác Ba Phi
đã sử dụng để thuyết phục người đọc, người nghe.
23 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2228 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Đặc điểm ngữ nghĩa - Logic trong truyện cười, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Khóa luận
Đặc điểm ngữ nghĩa -
logic trong truyện cười
bác Ba Phi
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU..
1. Lí do chọn đề tài
2. Lịch sử vấn đề.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
4. Phương pháp nghiên cứu.
5. Kết cấu khóa luận.
PHẦN NỘI DUNG..
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN..
1.1. Khái quát về mối quan hệ giữa logic và ngữ nghĩa.
1.2. Lập luận trong logic hình thức và logic phi hình thức.
1.3. Khái quát về tác giả và truyện cười bác Ba Phi
CHƯƠNG 2: PHÓNG ĐẠI – MỘT BIỆN PHÁP TU TỪ NGỮ NGHĨA –
LOGIC TRONG TRUYỆN CƯỜI BÁC BA PHI.
2.1. Phóng đại khả chấp.
2.1.1. Phóng đại sự vật
2.1.2. Phóng đại sự việc.
2.2. Phóng đại bất khả chấp.
CHƯƠNG 3: CÁI LÍ CỦA SỰ PHÓNG ĐẠI VÀ LẬP LUẬN THEO
LOGIC PHI HÌNH THỨC TRONG TRUYỆN CƯỜI BÁC BA PHI
3.1. Cơ sở để xác định cái lí trong truyện cười bác Ba Phi
3.2. Lập luận và các kiểu lí lẽ trong truyện cười bác Ba Phi
PHẦN KẾT LUẬN..
TÀI LIỆU THAM KHẢO..
PHỤ LỤC: TRUYỆN BÁC BA PHI
Logic tôn trọng sự thật, hướng đến chân lí. Phóng đại bóp méo, làm sai
lệch sự thật, làm sự vật sự việc mất đi bản chất vốn có ban đầu. Phóng đại là
một biểu hiện của sự phi logic. Truyện cười bác Ba Phi sử dụng ngôn ngữ để
phóng đại hiện thực dẫn đến có sự bất tương thích giữa ngữ nghĩa ngôn từ và
logic.
Tất cả các truyện cười bác Ba Phi đều có yếu tố phóng đại. Vì vậy,
muốn thuyết phục người nghe tin vào các câu chuyện của mình thì người kể
phải kể chuyện một cách hợp lí. Nghĩa là người kể phải có những lập luận
chặt chẽ, logic và phải dựa trên những cơ sở có thật. Như vậy, câu chuyện
mới có thể thuyết phục người nghe. Trong chương tiếp theo, chúng tôi sẽ đi
tìm cái lí, cái cơ sở của sự phóng đại và phân tích lập luận trong truyện cười
bác Ba Phi. Đồng thời, chúng tôi cũng phân tích các loại lí lẽ mà bác Ba Phi
đã sử dụng để thuyết phục người đọc, người nghe.
CHƯƠNG 3: CÁI LÍ CỦA SỰ PHÓNG ĐẠI VÀ LẬP LUẬN THEO
LOGIC PHI HÌNH THỨC TRONG TRUYỆN CƯỜI BÁC BA PHI
3.1. Cơ sở để xác định cái lí trong truyện cười bác Ba Phi
Không kể những truyện phóng đại đến mức phi lí, không thể chấp nhận được,
các câu chuyện còn lại có thể thuyết phục được người nghe tin vào sự việc
bác Ba Phi kể. Các câu chuyện đều có yếu tố phóng đại. Vì vậy, đi tìm cái lí
của sự phóng đại là rất cần thiết.
Trước tiên, những câu chuyện của bác Ba Phi đều dựa vào thực tại làm nền.
Truyện kể Ba Phi thường xuất phát từ những sự việc, hiện tượng vốn đã tồn
tại trong thực tế. Cơ sở thực tế của phóng đại Lúa nở ngầm chính là hiện
tượng lúa nổi ở đồng bằng Nam Bộ. Lúa nổi đã giúp hàng trăm ngàn hộ dân
cầm cự với cái đói sau các cơn hồng thủy. Cơ sở của phóng đại Nếp dẻo
chính là loại nếp Cò Hương nổi tiếng của đất rừng U Minh. Chính cái hiện
thực rất màu mỡ, trù phú của đất rừng phương Nam đã làm nền cho những
phóng đại của một loạt các truyện kể Ba Phi khác. Sự giàu có về sản vật tự
nhiên làm cho sự phóng đại được bay bổng. Miền đất U Minh hồi mới khai
phá là nơi thiên nhiên hoang dã. Chính vì thiên nhiên hoang dã, chưa có dấu
chân người đã tồn tại một lượng lớn các sản vật đa dạng về loài và phong phú
về số lượng. Người nghe có thể cảm nhận và tin vào các hình ảnh phóng đại:
cá dưới kinh quẫy ùn ụt, chim bay từng đàn mát trời, trứng le le trắng mặt
nước…Quả thật, nếu không sống giữa một thiên nhiên giàu có, trù phú thì
không thể kể được những câu chuyện khó tưởng tượng như vậy.
Cách sử dụng các trạng ngữ chỉ thời gian: Hồi nẳm, năm đó, hồi đất rừng mới
khai phá…cũng góp phần giúp câu chuyện thêm kì bí, xa xôi. Những trạng
ngữ này, làm người nghe không thể xác định được thời gian cũng như kiểm
chứng các sự việc bác Ba Phi kể. Thiên nhiên hoang dã có rất nhiều bí ẩn và
khoảng thời gian không thể xác định được, người nghe sẽ bị đặt vào trạng
thái mông lung không hoàn toàn tin nhưng cũng không thể chối bỏ.
Trong các câu chuyện của bác Ba Phi, bác Ba chỉ kể chuyện cho trẻ em và
những người lạ từ nơi khác đến, không am hiểu rừng U Minh như những
người lớn tuổi. Vì không hiểu biết về vùng đất này nên cho dù bác Ba Phi
phóng đại đến mức nào đi nữa, người nghe cũng phải “tin sái cổ”.
Cuối cùng, điều làm mọi người tin vào các câu chuyện là vì bác Ba Phi có rất
nhiều kiến thức và am hiểu vùng đất quê mình. Tiếng kêu của các loại chim,
thói quen di chuyển của kì đà, cách ăn của nai…bác Ba đều biết rõ, làm cho
các câu chuyện bác thêm sinh động và hấp dẫn.
Đặc biệt, với thủ pháp chuẩn bị ngữ cảnh, các chi tiết được sắp xếp một cách
hợp lí làm người đọc, người nghe thán phục trí thông minh của người kể. Để
nói chuyện mình đã cho heo đi cày, một chuyện lạ ở xứ này, heo ở đây không
khác gì trâu, bò, bác Ba Phi đã có sự rào đón, dẫn dắt bằng các chi tiết: Xứ U
Minh muỗi nhiều, phải giăng mùng cho thú vật ngủ, chuồng heo và chuồng
trâu đặt kế nhau, mùa màng bận bận rộn nên phải đi cày từ lúc tối mịt nên đã
bắt nhầm hai con heo to…Để nói chuyện “Chà gạc nai” đã có các chi tiết dẫn
dắt: con trăn gấm nuôi to quá cỡ, kiếm đồ ăn cho nó không xuể, thỉnh thoảng
phải thả nó vào rừng kiếm ăn, thức ăn nó từng ăn cũng đủ thứ: chồn đèn,
chuột cống…nên chuyện nó ăn nai chà là không lạ gì! Hay để kể được
chuyện thu hoạch mấy tấn lưỡi nai, người kể đã có những chi tiết dẫn dắt từ
đầu: nai ở xứ này nhiều, cả bầy phá lúa rất dữ, có người đã nói rằng phải để
xứ này cho nai ở…
Ngoài ra, những kết thúc mang tính khẳng định trong văn bản giúp cho các
truyện kể có vẻ như hoàn toàn chân thật. Thường thì phần kết của truyện kể
Ba Phi kết thúc văn bản với một kiểu rất độc đáo: “Hổng tin hỏi bả mà coi!”
(Gài bẫy bắt chim), “Hổng tin, bà con cứ hỏi “bà xã” tui thử coi!” (Bắt chim
trời ăn lúa), “Đứa nào hổng tin vô sau bếp coi bác gái bây đang giở mắm ra
thì biết liền” (Ong mật rừng Tràm), “Không tin đi hỏi bả coi có phải thiệt
vậy hông?” (Bắt heo rừng) hay “Hổng tin cứ làm thử thì biết!” (Căn bệnh da
cổ của tôi)...
3.2. Lập luận và các kiểu lí lẽ trong truyện cười bác Ba Phi
3.2.1. Lập luận trong truyện cười bác Ba Phi
Trong cuộc sống, chúng ta thường xuyên phải thuyết phục người khác để
người đó tin hoặc làm theo những gì chúng ta mong muốn. Đứa trẻ có thể
thuyết phục để mẹ mua cho mình một cuốn truyện tranh; người bán hàng
thuyết phục người mua mua sản phẩm của mình; chứng minh một điều gì đó
cho bạn bè, người thân bằng lời nói… Có thể nói rằng, lập luận là một hoạt
động thường xuyên trong quá trình sử dụng ngôn ngữ của con người.
Theo Nguyễn Đức Dân thì “Lập luận là một hoạt động ngôn từ. Bằng công
cụ ngôn ngữ, người nói đưa ra những lí lẽ nhằm dẫn dắt người nghe đến một
hệ thống xác tín nào đó: rút ra một (/một số) kết luận hay chấp nhận một
(/một số) kết luận nào đó”.
Trong một lập luận, thường có 3 thành tố là: tiền đề, lí lẽ và kết đề. Tiền đề
(luận cứ) là một hoặc nhiều dữ kiện xuất phát làm căn cứ cho lập luận, từ đó
suy ra kết đề. Lí lẽ (dẫn chứng) là những yếu tố mà nhờ đó từ tiền đề chúng
ta có thể suy ra kết đề. Kết đề là một khẳng định đích mà người nói muốn
thuyết phục người nghe. Một lập luận có thể chỉ có hai thành tố: tiền đề và lí
lẽ, còn kết đề thì người đọc, người nghe phải tự suy ra.
Ví dụ: Quảng cáo điện thoại
Nokia 6630 – Thế hệ thông minh, năng lực vượt trội
Thế là đã có một chiếc điện thoại hội tụ những công nghệ tối ưu
Nghe nhạc kĩ thuật số
Xem video clip
Văn phòng di động
Máy ảnh 1.3 megapixel
Quảng cáo trên chỉ có tiền đề và các lí lẽ. Còn kết luận, người nghe phải tự
suy luận ra “Đây là một chiếc điện thoại tốt, nên mua dùng”.
Vì những câu chuyện của bác Ba Phi là những câu chuyện được phóng đại
hơn mức bình thường nên bác Ba Phi phải dùng lí lẽ để thuyết phục người
nghe. Lập luận trong truyện cười bác Ba Phi là lập luận phi hình thức. Loại
lập luận này không đi đến chân lí mà nhằm mục đích về tính hiệu quả; thuyết
phục người nghe tin vào một điều gì đó. Lập luận trong truyện này được chia
thành hai loại: Lập luận đầy đủ các thành tố và lập luận không đầy đủ các
thành tố.
3.2.1.1. Lập luận đầy đủ các thành tố
Là loại lập luận ngoài thành tố bắt buộc phải có là lí lẽ, còn có đầy đủ hai
thành tố: tiền đề và kết đề. Trong truyện cười Bác Ba Phi chỉ có một số lượng
truyện nhỏ thuộc loại lập luận này (4/56 truyện).
Câu chuyện “Cái tĩn Nam Vang lẻ bạn” có tiền đề là một câu hỏi “Tại sao tui
đập hả? và kết đề là “Bị bả cằn nhằn một hồi, tui nổi khùng, xách cây đập
cái tĩn một phát cho xong”. Từ tiền đề, để người nghe tin có sự việc mình đã
đập bể một cái tĩn, bác Ba Phi đã dùng những lí lẽ để thuyết phục người nghe.
Phương thức gây hiệu quả trong lập luận này là sự giải thích. Bằng cách sử
dụng cấu trúc đảo trình tự kết quả lên trước nguyên nhân, các chi tiết của sự
việc trong quá khứ trở thành những lí lẽ thuyết phục được người nghe :Vì bắt
cá rô bỏ vô tĩn, cá rô to quá phải bỏ từng con ấn đầu thật mạnh mới vô, bắt
ngược cá ra không được, bị bác gái cằn nhằn. Lập luận của bác Ba Phi dựa
trên lí lẽ thông thường “Khi người ta bực mình, nổi khùng lên thì không kiểm
soát được hành vi của mình”. Cái lí lẽ này đã được mặc định sẵn bởi xã hội,
không cần phải chứng minh. Hầu hết, con người không thể kiềm chế được
cơn nóng nảy, giận dữ của mình. Trong lúc bắt cá ra không được, đang bực
mình mà còn bị bác gái cằn nhằn thì chuyện bác Ba đập cái tĩn là để giải tỏa
sự bực bội đang tồn tại trong bản thân mà thôi.
Hay trong câu chuyện “Cái đìa ngầm”, từ tiền đề “Cái đìa nhà tui ngày trước
công đâu mà đào lớn đến vậy, tới tám thước bề rộng chớ ít sao” để đi đến kết
luận “ Thì ra cả mấy tháng nay, cả ngàn con cá rủ nhau tập trung đào cái
đìa ngầm này bằng cách cạp đất đem ra ngoài đìa bỏ, phòng ngừa hữu sự thì
có chỗ ẩn nấp” bác Ba Phi đã đưa ra những lí lẽ là các sự việc thật: cá quẫy
không ngủ được nên muốn kéo cá đi bán,…phát hiện được cái đìa ngầm do
cá tra đào. Lí lẽ của lập luận này là “Cá sợ con người bắt nên đào ngầm
phòng có hữu sự thì trốn”. Dựa vào lí lẽ thông thường là con người và ngay
cả loài vật khi thấy mình có khả năng bị nguy hiểm đến tính mạng thì cố gắng
tìm nơi ẩn nấp để bảo đảm cho sự an toàn của mình. Thời chiến tranh, con
người đào hầm để trốn sự truy lùng của quân địch. Thời bình, con người tìm
chỗ an toàn để tránh thiên tai. Ai cũng muốn được sống thật lâu. Do vậy, các
lí lẽ đưa ra hợp lí để đến kết luận là cá cũng muốn tồn tại nên nó phải đào
hang ngầm thuyết phục được người nghe.
Trong các câu chuyện của bác Ba Phi, không nhất thiết người kể phải sử
dụng đầy đủ cả ba thành tố của lập luận để thuyết phục. Đôi khi lập luận
khuyết tiền đề hay kết đề là để người nghe tự lấp đầy khoảng trống ấy và tin
vào câu chuyện hơn.
3.2.1.2. Lập luận không đầy đủ các thành tố
Là loại lập luận ngoài thành tố bắt buộc phải có là lí lẽ thì chỉ có tiền đề hoặc
chỉ có kết đề. Truyện bác Ba Phi, chủ yếu sử dụng thủ pháp phóng đại, nên
phải lập luận hợp lí để thuyết phục được người nghe tin vào sự giàu có của
sản vật Nam Bộ. Bác Ba Phi chỉ cần đưa ra tiền đề và lí lẽ, còn kết luận người
nghe phải tự suy luận ra. Chủ yếu, các kết luận của truyện bác Ba Phi là
hướng người ta tin vào sự giàu có của sản vật U Minh, Nam Bộ.
Trong truyện “Rắn hổ mây tát cá”, tiền đề đưa ra là “khi mới tới đất này khai
phá, nghe người ta kể rắn trong rừng U Minh con nào con nấy lớn lắm”. Sau
đó dùng lí lẽ: ban đầu chưa tin nhưng khi tận mắt chứng kiến thấy rắn tát
được cá mới tin là có thật. Bằng cách dẫn dắt câu chuyện dí dỏm, hài hước
“Cái đuôi nó ngoéo một đầu, cái đầu nó ngoéo một một bên, thân hình dẹp
lại đu đưa. Thì ra nó đang tát nước cho cạn để bắt cá ăn…cái đìa đã cạn…”
các chi tiết này trở thành những công cụ trợ giúp đắc lực để xây dựng một lí
lẽ thuyết phục người nghe. Từ đó người nghe có thể có một kết đề, một sự
suy luận: rắn có thể tát cá, rắn ở U Minh này thiệt lớn quá cỡ. Vậy, không cần
bác Ba Phi phải thêm một kết đề “khi thấy rắn tát cá tui mới tin những
chuyện người ta kể là có thật” mà người nghe cũng đã tin qua những chi tiết
bác Ba kể. Quá trình kiểm chứng tin đồn của bác Ba trong câu chuyện đã
thuyết phục được người nghe.
Tương tự, trong truyện “Bắt kì đà…chết”, tiền đề đưa ra là “Giống kì đà
rừng U Minh coi chạy lềnh khênh như gà con vậy chớ không dễ gì bắt được”.
Sau đó đưa ra các lí lẽ: “Một là chúng lặn giỏi,…Hai là chúng chạy
giỏi…Như vậy, người nghe có thể đưa ra kết đề là “rất khó để bắt được kì
đà”. Với cách mở đầu bằng một lập luận logic và hợp lí, người nghe cảm
nhận được người kể rất am hiểu về loại động vật này. Khi bác Ba Phi đưa ra
lí lẽ là những đặc điểm của loài kì đà và việc người nghe tự lấp đầy kết đề
bằng một điều xác tín (bắt kì đà rất khó khăn) nên các chi tiết của sự việc bác
Ba Phi đưa ra sau đó, dễ dàng thuyết phục người nghe. Cách gài bẫy dựa theo
thói quen của bầy kì đà mà bác Ba dẫn dắt qua từng chi tiết trong truyện và
kết quả là phải dùng trâu mà cộ kì đà về làm người nghe thật sự bị thuyết
phục. Người nghe tin rằng, kì đà ở Nam Bộ có số lượng rất phong phú. Nhờ
sự mào đầu bằng các chi tiết, sự việc có thật, câu chuyện của bác Ba Phi đã
lấy được lòng tin của người nghe. Cho dù sau các sự việc đó là các chi tiết
bác phóng đại để cường điệu hóa số lượng sản vật quê hương mình.
Cũng vậy, truyện “Chém trực thăng” của bác Ba Phi với lí lẽ nêu ra là: Mẹ
con nhà Hai Xoài bị địch phát hiện được căn hầm đang trú nên chúng chọi
lựu đạn vô, mấy mẹ con khóc la rầm trời, bác Ba Phi chịu không nổi bèn vọt
lên tiếp cứu, tiếng trẻ con khóc, tiếng phụ nữ la nghe thảm thiết làm ruột gan
bác Ba như bị ai cắt đứt. Để rồi với tinh thần không biết sợ là gì, bác Ba vung
phảng chém đại ngay đầu một chiếc trực thăng. Tuy tiền đề không được nêu
ra cụ thể, nhưng những chi tiết mào đầu câu chuyện đều làm người nghe biết
được nguyên nhân tụi Mỹ - Diệm đánh phá làng xóm. Vì tên lái trực thăng
lạc tay lái đâm vào cây dừa nhà bác Ba làm cây dừa gãy “tróc củ hủ” , bị bác
Ba chửi nên hắn quay lại trả thù. Lập luận trong truyện này dựa trên lí lẽ “Khi
đã tới bước đường cùng thì người ta có thể làm được những chuyện phi
thường”. Cũng như tức nước thì vỡ bờ trong câu chuyện tắt đèn của Ngô Tất
Tố, vì thương chồng nên chị Dậu đã làm được những việc phi thường: đánh
lại những người có chức quyền – Một việc mà bình thường chị không dám
làm. Bác Ba Phi cũng vậy, có thể ngày thường bác Ba không dám hoặc
không thể chém được trực thăng, mặc dù rất giận vì trực thăng phá hại vườn
tược nhà bác nhưng trong trường hợp phải cứu người thì việc chém trực
thăng để cứu mẹ con Hai Xoài là có thể xảy ra.
Có thể thấy, lập luận khuyết tiền đề hoặc kết đề chiếm phần lớn số lượng
truyện Ba Phi. Tuy nhiên, người đọc, người nghe có thể thấy được có những
tiền đề, kết đề ngầm ẩn. Từ những cách lí giải bằng cách đưa ra các lí lẽ, dẫn
chứng của bác Ba Phi, người đọc có thể điền vào những phần khuyết nhờ
quan hệ logic (từ điều đã biết có thể suy ra điều chưa biết). Nhờ đó, các câu
chuyện đã thuyết phục được người nghe.
3.2.2. Các kiểu lí lẽ trong truyện cười bác Ba Phi
Ngoài lí lẽ chung (lí lẽ thường) có thể áp dụng cho mọi trường hợp, lập luận
trong truyện cười bác Ba Phi còn có những lí lẽ: lí lẽ gây bất ngờ, lí lẽ ngụy
biện, lí lẽ lệ làng, lí lẽ ngược đời và lí lẽ ngây ngô.
3.2.2.1. Lí lẽ gây bất ngờ
“Điều kiện cần thiết và quan trọng bậc nhất trong mỗi nụ cười, mỗi
truyện cười là gây bất ngờ trong nhận thức của độc giả hoặc thính giả. Có
như vậy mới tạo ra khoái cảm nhận biết, khoái cảm phát hiện dẫn tới khoái
cảm thắng lợi của độc giả hoặc thính giả”1
Vận dụng sự logic của tư duy, người tạo lập truyện cười thường sử dụng
những lí lẽ thông thường trước đó nhằm tạo ra một sự “phẳng lặng” trong
nhận thức người đọc, người nghe rồi đột ngột đổi hướng ở cuối truyện bằng
kiểu lí lẽ sao cho càng gây được bất ngờ, thú vị càng tốt. Kiểu lí lẽ này xuất
hiện dày đặc trong truyện cười bác Ba Phi.
Để nói đến việc rùa trở thành một động cơ đẩy xuồng đi nhanh như
xuồng máy, bác Ba Phi đã dẫn dắt người đọc qua những sự việc bình thường:
“Mùa khô năm đó, túng tiền xài, tui mới nghĩ ra một cách bắt rùa để chở ra
chợ Sông Đốc bán. Ra nhà dượng Tư nó, tui mượn một chiếc ghe cà đom chở
chừng năm trăm giạ lúa, chống vô Lung Tràm, đậu cặp mé dưới gió, cặm sào
hai đầu cho thiệt chắc. Tui còn kéo tấm đòn dày bắc thẳng lên bờ. Làm xong,
tui đi vòng phía trên gió, nổi lửa đốt một hàng dài…Thấy chúng tràn xuống
quá xá, tui ngồi gần đầu cây đòn dày, coi con nào lớn thì cho đi, con nào nhỏ
cứ hất mạnh tay một cái là lọt xuống sông. Một hồi, rùa xuống đầy ghe, tui
nhổ sào rút đòn dày, chống luôn ra chợ…”. Để rồi kết thúc câu chuyện, bác
Ba Phi đưa ra một lí lẽ làm người đọc, người nghe bất ngờ “Số rùa nhỏ bị rớt
dưới nước cứ bấu theo ghe kết thành bè, một chưn chúng vịn vào be ghe, còn
ba chưn cứ đạp nước theo trớn ghe mà tới” (Chiếc tàu rùa).
Hay để nói tới việc mình đã từng ngồi suốt đêm trên lưng một con kình đước
trong truyện “Mô đất biết đi”, bác Ba Phi cũng đã bắt đầu với những sự việc
đời thường của mình “Bữa đó tui cũng vác phảng ra ruộng phát như thường
lệ. Trời chưa rõ mặt mà đã đến ruộng. Đồng nước mênh mông, lã chã, không
có chỗ để viên đá mài phảng. Lội xà quần một hồi mới gặp được một mô đất
cứng, cao hơn mặt nước độ hai gang tay. Mừng quýnh, tui rề lại, để viên đá
mài lên, ngồi mài phảng. Mài “nước lớn” xong, tui lại mài “nước ngót”, rồi
liếc mép. Xong xuôi đâu đó, tui còn rề rà hút thuốc để chờ trời sáng…”. Rồi
kết thúc bằng một lí lẽ “…tui mới hay hồi hôm tới giờ mình ngồi mài phảng,
hút thuốc trên lưng một con kình đước. Nó bò, đem mình vô tận nhà mà cũng
không hay biết gì”.
3.2.2.2. Lí lẽ ngụy biện
Lí lẽ ngụy biện là “những lí lẽ bề ngoài có vẻ rất logic, rất đúng bài bản lập
luận, nhưng trong thực tế lại chứa đựng nhiều sai lầm”. [5;273]
Loại lí lẽ này xuất hiện trong rất nhiều mô hình truyện cười. Đôi khi người ta
cố tình dùng chúng trong những cuộc tranh luận nhưng hiệu quả không cao.
Chỉ cần sử dụng tư duy logic và các chứng cứ xác thực thì sẽ “lật tẩy” được lí
lẽ ngụy biện. Tuy nhiên, trong truyện cười bác Ba Phi, loại lí lẽ này tỏ ra rất
hiệu quả vì mục đích của truyện cười là để gây cười.
Để chứng tỏ bẫy lươn dùng để bắt giang sen, gà đãy của mình hiệu
nghiệm hơn cách bắt thông thường là dùng bẫy cò ke, bẫy đạp, bác Ba Phi đã
đưa ra các lí lẽ, dẫn chứng “Tui làm bẫy không phải loại bẫy cò ke, bẫy đạp
như người ta đâu. Tui đặt trúm lựa loại lươn da đen, bắt những con thiệt
mạnh, se nhợ gai cho chắc, một đầu nhợ cột vô chỗ rún lươn, một đầu cột
giữa một khúc cây chừng vài thước, đem thả lan ra ruộng. Mấy thứ chim đó
ham ăn dữ lắm! Gặp lươn là cứ nhào tới mổ nuốt. Con này mổ một cái làm
con lươn bị đau, vọt mạnh vô họng, chun tọt ra sau đít, con khác thấy vậy
nhảy tới mổ một cái, con lươn cũng đau, vọt tuốt vô bụng rồi chun ra
đít…Như vậy là một con lươn tui gài nó vọt xỏ xâu tới năm bảy con giang
sen, gà đãy” (Gài bẫy bắt chim). Mới nghe qua, chúng ta có thể thấy câu
chuyện kể của bác Ba Phi rất có lí, cũng như cách bắt chim rất hiệu quả.
Nhưng khi tìm hiểu kĩ, ta sẽ phát hiện ra đó là một sự phi lí, không thể có một
cách bắt chim lạ đời như vậy.
Hay cũng để chứng minh mình đã từng bị ong đóng ổ trên người, bác
Ba Phi đã thuyết phục người nghe bằng những lí lẽ “Số là vầy, nằm nghỉ mà
nắng cứ rọi vô mặt tao hoài, bực mình, tao bẻ bốn cây sậy cắm bốn góc rồi
lấy cái khăn rằn căng ra như cái lều để che nắng. Gió thổi, cái khăn nhảy lên
nhún xuống hoài, chợp mắt hổng được, thành thử tao mới bẻ thêm mấy cây
sậy cột như che rạp gác đòn tay vậy đó. Vậy mà hổng biết có con ong chúa
nào xớn xác, dẫn nguyên bầy nhào đại vô đóng ngay trên cây sậy tao làm
đòn tay mới ác chớ. Đã vậy thôi sao, đóng tới cần cổ tao đáng lẽ nó dừng lại
mới đúng chớ. Đằng này nó đóng vòng qua hai bên đụng đất luôn. Tới chừng
tao nghe nghẹt thở như bị ai bóp cổ vội mở mắt ra nhìn thì, trời