Lúa là cây lương thực quan trọng nhất của nước ta. Trồng lúa là một nghề truyền
thống của dân tộc Việt Nam có từ xa xưa, có lẽ từ khi bắt đầu việc trồng trọt thì cây
lúa đã được đặt biệt quan tâm. Kinh nghiệm sản xuất lúa đã được hình thành, tích lũy
và phát triển cùng với sự phát triển của dân tộc ta. Những tiến bộ của khoa học - kỹ
thuật trong nước và thế giới ở lĩnh vực nghiên cứu và sản xuất lúa đã thúc đẩy mạnh
mẽ ngành trồng lúa nước ta trên thương trường quốc tế. Chính vì vậy mà hiện nay,
Việt Nam đã vươn lên vị trí thứ 2 thế giới trên thị trường xuất khẩu lúa gạo.
Quảng Ngạn là một địa phương nằm trong hệ đầm phá Tam Giang – Cầu Hai,
hiện nay dân cư sống dựa vào nông nghiệp là chủ yếu.Vì vậy muốn phát triển kinh tế
nâng cao đời sống người dân trên địa bàn thì phát triển nông nghiệp là con đường chủ
yếu. Hoạt động kinh tế mũi nhọn trên địa bàn bao gồm: trồng trọt, chăn nuôi, nuôi
trồng và khai thác thủy sản. Bất kỳ một trong ba lĩnh vực trên chậm phát triển đều kìm
hãm sự phát triển của địa bàn. Riêng ngành trồng trọt không chỉ góp phần trong sự
phát triển kinh tế mà còn đảm bảo an ninh lương thực và ổn định xã hội. Ngành trồng
trọt trên địa bàn chủ yếu là trồng lúa, nhưng trong những năm gần đây hiệu quả của
sản xuất mang lại chưa cao, làm cho vai trò của trồng trọt chăn nuôi giảm xuống. Với
1423 hộ dân có khoảng trên 7000 nhân khẩu, trong đó trên 30% hộ dân tham gia vào
quá trình sản xuất lúa và cung cấp lương thực cho toàn xã. Điều đó có nghĩa là khi sản
xuất không mang lại hiệu quả thì trên 30% hộ dân đối mặt với khó khăn kinh tế một
cách trực tiếp, còn dân cư trên toàn xã có nguy cơ thiếu lương thực. Giải quyết khó
khăn cho người dân địa phương, tìm cách nâng cao năng suất và hiệu quả sản xuất lúa
tại địa bàn đang là mối quan tâm của chính quyền địa phương, cũng như người dân
trên địa bàn. Nguyên nhân của những hạn chế gì?
Xuất phát từ lý do đó, trong thời gian thực tập tại địa bàn xã Quảng Ngạn và tôi
đã lựa chọn đề tài:“ Đánh giá hiệu quả kinh tế sản xuất lúa ở xã Quảng Ngạn,
huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế ”
53 trang |
Chia sẻ: tranhieu.10 | Lượt xem: 912 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Đánh giá hiệu quả kinh tế sản xuất lúa ở xã Quảng Ngạn, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chuyên đề tốt nghiệp
SVTH: Đặng Văn Lợi
Lớp: K41A KTNN 1
PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
Lúa là cây lương thực quan trọng nhất của nước ta. Trồng lúa là một nghề truyền
thống của dân tộc Việt Nam có từ xa xưa, có lẽ từ khi bắt đầu việc trồng trọt thì cây
lúa đã được đặt biệt quan tâm. Kinh nghiệm sản xuất lúa đã được hình thành, tích lũy
và phát triển cùng với sự phát triển của dân tộc ta. Những tiến bộ của khoa học - kỹ
thuật trong nước và thế giới ở lĩnh vực nghiên cứu và sản xuất lúa đã thúc đẩy mạnh
mẽ ngành trồng lúa nước ta trên thương trường quốc tế. Chính vì vậy mà hiện nay,
Việt Nam đã vươn lên vị trí thứ 2 thế giới trên thị trường xuất khẩu lúa gạo.
Quảng Ngạn là một địa phương nằm trong hệ đầm phá Tam Giang – Cầu Hai,
hiện nay dân cư sống dựa vào nông nghiệp là chủ yếu.Vì vậy muốn phát triển kinh tế
nâng cao đời sống người dân trên địa bàn thì phát triển nông nghiệp là con đường chủ
yếu. Hoạt động kinh tế mũi nhọn trên địa bàn bao gồm: trồng trọt, chăn nuôi, nuôi
trồng và khai thác thủy sản. Bất kỳ một trong ba lĩnh vực trên chậm phát triển đều kìm
hãm sự phát triển của địa bàn. Riêng ngành trồng trọt không chỉ góp phần trong sự
phát triển kinh tế mà còn đảm bảo an ninh lương thực và ổn định xã hội. Ngành trồng
trọt trên địa bàn chủ yếu là trồng lúa, nhưng trong những năm gần đây hiệu quả của
sản xuất mang lại chưa cao, làm cho vai trò của trồng trọt chăn nuôi giảm xuống. Với
1423 hộ dân có khoảng trên 7000 nhân khẩu, trong đó trên 30% hộ dân tham gia vào
quá trình sản xuất lúa và cung cấp lương thực cho toàn xã. Điều đó có nghĩa là khi sản
xuất không mang lại hiệu quả thì trên 30% hộ dân đối mặt với khó khăn kinh tế một
cách trực tiếp, còn dân cư trên toàn xã có nguy cơ thiếu lương thực. Giải quyết khó
khăn cho người dân địa phương, tìm cách nâng cao năng suất và hiệu quả sản xuất lúa
tại địa bàn đang là mối quan tâm của chính quyền địa phương, cũng như người dân
trên địa bàn. Nguyên nhân của những hạn chế gì?
Xuất phát từ lý do đó, trong thời gian thực tập tại địa bàn xã Quảng Ngạn và tôi
đã lựa chọn đề tài:“ Đánh giá hiệu quả kinh tế sản xuất lúa ở xã Quảng Ngạn,
huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế ”.
Đại
học
Kin
h tế
Hu
ế
Chuyên đề tốt nghiệp
SVTH: Đặng Văn Lợi
Lớp: K41A KTNN 2
Để làm chuyên đề tốt nghiệp cuối khóa cho mình. Nghiên cứu đề tài của mình
tôi hướng mục đích:
- Làm rõ các khái niệm, bản chất: cây lúa, vai trò và vị trí của cây lúa, hiệu quả
kinh tế, các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh tế.
- Phân tích đánh giá thực trạng sản xuất lúa từ đó xác định kết quả và hiệu quả
sản xuất lúa ở xã Quảng Ngạn.
- Thông qua sự phân tích, đánh giá thực trạng sản xuất lúa, từ đó đưa ra những
giải pháp trên cơ sở phương hướng phát triển sản xuất lúa trong thời gian tới.
Trong giới hạn của đề tài phương pháp, đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thống kê kinh tế.
- Phương pháp điều tra phỏng vấn nông hộ.
- Phương pháp phân tích số liệu.
- Phương pháp so sánh.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Kết quả và hiệu quả sản xuất lúa của các nông hộ
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Thời gian: Phân tích thực trạng sản xuất lúa năm 2010 của các nông hộ điều
tra và của địa bàn qua giai đoạn 2008 – 2010
+ Không gian: Địa bàn xã Quảng Ngạn, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên
Huế.
Đại
học
K n
h tế
Hu
ế
Chuyên đề tốt nghiệp
SVTH: Đặng Văn Lợi
Lớp: K41A KTNN 3
PHẦN II: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1.1 Một số đặc điểm của cây lúa
1.1.1.1. Nguồn gốc của cây lúa
Cây lúa là loại thảo mộc lương thực quan trọng của Việt Nam và thế giới, với hơn
3 tỉ người tiêu dùng, hay hơn phân nửa dân tộc thế giới, và 115 nước trồng lúa (2008).
Cây lúa không những đóng góp vào an ninh lương thực quốc gia của nhiều nước, mà
còn cung cấp nguồn lợi tức cho hàng triệu người nông thôn và bảo vệ môi trường. Tuy
nhiên, nguồn gốc của cây lúa vẫn còn nhiều tranh cải, vì nó xuất hiện lâu đời trong
thời tiền sử. Theo một số nghiên cứu trong và ngoài nước, các cư dân ở Việt Nam có
thể biết đến cây lúa cách nay ít nhất hàng nghìn năm trong nền văn hóa Hòa Bình, và
Miền Bắc Việt Nam có thể là một trong những trung tâm nguồn gốc cây lúa trồng độc
lập của Châu Á, theo thuyết “Đa trung tâm” của Viện Nghiên Cứu Lúa Quốc tế - IRRI
(Chang, 1985).
Cho đến nay, các nhà khảo cổ học Việt Nam chỉ tìm được vết tích hạt lúa cổ xưa
nhất với niên đại phóng xạ khoảng 3.400 năm (Nguyễn Phan Quang & Vũ Xuân Đàn,
2000). Theo Bellwood (2005), nền nông nghiệp lúa của Việt Nam có thể xuất hiện
cách nay chỉ 4.500- 3.500 năm mà thôi. Trong tháng 5-2010, các nhà khảo cổ học đã
tìm thấy nhiều hạt lúa cổ tại Thành Dền (Mê Linh, Hà Nội) thuộc văn hóa Đồng Đậu
cách nay khoảng 3.000 năm, nhưng cần phải xác định lại hàm lượng carbon phóng xạ
C14. Hy vọng rằng với những kỹ thuật mới như phân tích phythollis ngoài bào tử phấn
hoa, các cuộc khai quật sâu rộng hơn và sự quan tâm nhiều hơn của ngành khảo cổ học
trong nước đối với lịch sử nông nghiệp sẽ giúp các nhà nghiên cứu tìm thấy các vết
tích hạt lúa gạo xa xưa hơn kết quả hiện có.
Cây lúa trồng hiện nay là do quá trình thuần dưỡng từ cây lúa dại qua hàng trăm
năm. Theo nhà khảo cổ học Phillip Edwards của trường Đại Học Trobe, Úc, thời gian
tiến hóa từ loài cây dại đến có hệ thống sản xuất cây trồng trải qua khoảng 1.000 năm
(Nguyễn Sinh-BBC News, 2007).
Đại
học
Kin
h tế
Hu
ế
Chuyên đề tốt nghiệp
SVTH: Đặng Văn Lợi
Lớp: K41A KTNN 4
1.1.1.2. Đặc điểm sinh học
Sinh trưởng và phát triển của cây lúa phụ thuộc rất nhiều yếu tố, từ điều kiện tự
nhiên, tình hình canh tác, phân bón đất đai, mùa vụ gieo trồng, giống và thời gian sinh
trưởng của từng giống lúa.Quá trình sinh trưởng của cây lúa có thể chia ra làm hai thời
kỳ: Sinh trưởng dinh dưỡng và sinh trưởng sinh thực.
- Thời kỳ sinh trưởng dinh dưỡng: Ở thời kỳ này cây lúa chủ yếu hình thành và
phát triển các cơ quan dinh dưỡng như ra lá, phát triển rễ, đẻ nhánh
- Thời kỳ sinh trưởng sinh thực: Là thời kỳ phân hoá, hình thành cơ quan sinh sản
bắt đầu từ khi làm đòng đến khi thu hoạch. Bao gồm các quá trình làm đòng, trổ bông,
hình thành hạt. Quá trình làm đốt tuy là sinh trưởng dinh dưỡng nhưng lại tiến hành
song song với quá trình phân hoá đòng nên nó cũng nằm trong quá trình sinh thực.
Thời kỳ này có ảnh hưởng trực tiếp đến việc hình thành số bông, tỷ lệ hạt chắc và
trọng lượng hạt lúa.
+ Quá trình nẩy mầm: Hạt hút nước, độ ẩm trong hạt tăng, hoạt động các men hô
hấp và phân giải rõ rệt, một loạt các phản ứng sinh hoá xảy ra, phôi được cung cấp
glucoza, axitamin, các tế bào phân chia, lớn lên trục phôi phình to, đẩy mầm khi nẩy
mầm, đầu tiên xuất hiện lá bao hình vảy, không có diệp lục. Đồng thời trong quá trình
nẩy mầm, từ phôi xuất hiện rễ phôi. Rễ này dài, sau này phát triển thành các lông tơ
giúp hạt hút nước trong thời kỳ đầu.
+ Quá trình phát triển của bộ rễ: Sau khi nẩy mầm rễ lúa phát triển từ phôi là rễ
mộng, rễ này chủ yếu có một cái. Rễ mộng xuất hiện rồi dài ra, có thể hình thành lông
rễ, rễ mộng hoạt động trong một thời gian ngắn rồi chết đi và được thay thế bằng các
lớp rễ phụ được hình thành từ mặt các đốt gốc của cây. Những mắc đầu chỉ ra được
trên dưới năm rễ, nhưng mắc sau có thể đạt tới 3-20 rễ. Tập hợp các lớp sẽ tạo thành rễ
chùm.
+ Quá trình phát triển lá: Lá được hình thành từ các mầm lá ở mắc thân, khi hạt
nẩy mầm, hình thành các lá đầu tiên là lá bao mầm, lá không hoàn toàn rồi đến lá thật
1,2,3 Các lá phát triển liên tục từ ba lá đầu này, cây lúa đã tự nuôi dưỡng hoàn toàn
sống độc lập, lá quang hợp, rễ hút dinh dưỡng. Thông thường trên cây lúa có khoảng
5-6 lá cùng hoạt động, lá già tàn rụi dần để các lá non mới lại tiếp tục.
Đại
học
Kin
h tế
Huế
Chuyên đề tốt nghiệp
SVTH: Đặng Văn Lợi
Lớp: K41A KTNN 5
+ Quá trình đẻ nhánh: Lúa sau khi bén rễ hồi xanh thì làm đốt, làm đòng. Nhánh
lúa hình thành từ các mầm nách ở gốc thân. Quá trình hình thành một nhánh qua bốn
giai đoạn: phân hoá nhánh, hình thành nhánh, nhánh dài trong bọc lá và nhánh xuất
hiện. Trong quá trình hình thành nhánh đầu tiên xuất hiện một lá bao hình ống dẹt, rồi
xuất hiện các lá của nhánh, nhánh phát triễn 3-4 lá có thể tách ra khỏi cây mẹ và sống
tự lập.
+ Quá trình làm đòng: Ở thời kỳ này thân lúa chính thức mới được hình thành, số
lóng kéo dài và chiều dài các lóng quyết định chiều cao của cây. Quá trình làm đòng là
quá trình phân hoá và hình thành các cơ quan sinh sản, có ảnh hưởng trực tiếp đến quá
trình hình thành năng suất lúa.
+ Quá trình trổ bông, nở hoa, thụ phấn: Sau khi hoàn thành quá trình làm đòng thì
cây lúa trổ ra ngoài do sự phát triển nhanh của lóng trên cùng. Khi cây lúa thoát ra
khỏi bẹ lá là quá trình trổ xong. Cùng với quá trình trổ bao phấn trên một bông các hoa
ở đầu bông và đầu gié nở trước, các hoa ở gốc bông, các hoa ở gốc bông nở cuối cùng.
Khi hoa nở phơi màu, váy cá hút nước trương to lên, đồng thời với áp lực của vòi nhị
làm cho vỏ trấu nở ra, hạt phấn rơi vào đầu nhuỵ, đó là quá trình thụ phấn. Sau quá
trình thụ phấn là quá trình thụ tinh và hình thành hạt. Trong điều kiện bình thường hạt
phấn rơi xuống đầu nhuỵ, sau 15 phút ống phấn bắt đầu dài ra, các chất trong hạt bắt
đầu dồn về ống phấn. Sau thụ tinh là quá trình phát triển phôi và phôi nhũ.
+ Quá trình chín hạt: Chúng ta có thể chia quá trình chín hạt ra làm ba thời kỳ:
chín sữa, chín sáp và chín hoàn toàn.
Chín sữa: Sau phơi màu 6-7 ngày các chất dự trữ trong hạt ở dạng lỏng, trắng
như sữa, hình dạng hạt hoàn thành có màu xanh, trọng lượng hạt tăng nhanh ở thời kỳ
này.
Chín sáp: Ở thời kỳ này chất dịch trong hạt dần dần đặc lại, hạt cứng và màu
xanh dần chuyển sang màu vàng.
Chín hoàn toàn: Thời kỳ này hạt chắc cứng, màu vàng nhạt và trọng lượng hạt
đạt tối đa.
Quá trình lúa chín kéo dài 30-40 ngày tuỳ theo giống, thời vụ. Đây là quá trình
quyết định năng suất lúa.
Đại
ọc
Kin
h tế
Hu
ế
Chuyên đề tốt nghiệp
SVTH: Đặng Văn Lợi
Lớp: K41A KTNN 6
1.1.1.3. Đặc điểm sinh thái
Ngoài sự tác động của con người thì khí hậu thời tiết là yếu tố quan trọng nhất
của điều kiện sinh thái, nó có ảnh hưởng lớn nhất và thường xuyên đến quá trình sinh
trưỡng và phát triển của cây lúa.
+ Về nhiệt độ: Quá trình sinh trưởng và phát triển của cây lúa phụ thuộc rất nhiều
về nhiệt độ trong vụ gieo trồng. Nếu thời tiết thuận lợi, nhiệt độ trung bình cao cây lúa
đạt được tổng nhiệt cần thiết sẽ ra hoa và chín sớm hơn tức là rút ngắn thời gian sinh
trưởng và ngược lại. Để cho cây lúa phát triển tốt thì cần nhiệt độ khác nhau qua các
thời kỳ sinh trưởng.
Thời kỳ nẩy mầm: Nhiệt độ thích hợp cho cây lúa nẩy mầm là 30-350C. Nhiệt
độ giới hạn thấp nhất là 10-120C và quá cao là trên 400C không có lợi cho quá trình
nẩy mầm của lúa.
Thời kỳ đẻ nhánh, làm đòng: Ở thời kỳ này cây lúa đã bén rễ, hồi xanh. Nhiệt
độ thích hợp là 25-320C. Nhiệt độ dưới 160C quá trình bén rễ, đẻ nhánh, làm đòng
không thuận lợi.
Thời kỳ trổ bông làm hạt: Thời kỳ này cây lúa rất nhạy cảm trước sự thay đổi
của nhiệt độ. Trong quá trình nở hoa, phơi màu, thụ tinh đòi hỏi nhiệt độ phải ổn định.
Nếu gặp nhiệt độ quá thấp hoặc quá cao đều không có lợi.
+ Nước: Là thành phần chủ yếu trong cơ thể lúa, là điều kiện để thực hiện quá
trình sinh lý trong cây và là điều kiện ngoại cảnh không thể thiếu của cây lúa.
Theo Goutchin, để tạo ra một đơn vị thân lá, cây lúa cần 400-450 đơn vị nước, để tạo
ra một đơn vị hạt, cây lúa cần 300-350 đơn vị nước. Nhu cầu nước của cây lúa qua các
thời kỳ sinh trưởng là khác nhau.
Thời kỳ nẩy mầm: Hạt giống được bảo quản dưới độ ẩm 13%, khi ngâm hạt,
hạt hút nước đạt 22% thì có thể hoạt động và nẩy mầm tốt khi độ ẩm của hạt đạt 25-
28%.
Đại
học
Kin
h tế
Hu
ế
Chuyên đề tốt nghiệp
SVTH: Đặng Văn Lợi
Lớp: K41A KTNN 7
Thời kỳ cây con: Trong điều kiện gieo thẳng cây lúa ở giai đoạn cây con không
cần nước nhiều, ta chủ động giữ đủ ẩm và cho nước vào ruộng từ từ khi cây được 2-4
lá.
Thời kỳ đẻ nhánh: Ở giai đoạn này chủ động tháo nước sát gốc lúa. Để tạo điều
kiện cho cây lúa đẻ nhánh, sau khi cây đẻ nhánh hữu hiệu làm đòng trổ bông ta cần
cho nước vào đầy đủ tránh bị khô nước làm ảnh hưởng đến quá trình sinh trưởng của
cây lúa. Để lúa sinh trưởng thuận lợi, đạt năng suất cao cần cung cấp nước đầy đủ.
1.1.2. Vị trí và tầm quan trọng của cây lúa
Lúa là một trong ba cây lương thực chủ yếu bao gồm lúa mì, ngô và lúa gạo. Có
khoảng 40% dân số sử dụng lúa gạo là lương thực chính, 25% sử dụng lúa gạo trên 1/2
khẩu phần lương thực hàng năm. Như vậy, lúa gạo có ảnh tới đời sống ít nhất 65% dân
số toàn cầu. Sản xuất lúa gạo tập trung chủ yếu ở các nước Châu Á, một số nước ở
Châu Mỹ, Châu Phi và Châu Úc chiếm một phần nhỏ. Trong đó, mức tiêu thụ về lúa
gạo của các nước Châu Á là rất cao từ 180-200 Kg/người, còn Châu Mỹ và Châu Âu
chỉ 10 Kg/người.
Sản xuất lúa gạo đóng một vai trò đặc biệt quan trọng trong phát triển kinh tế
nông nghiệp và nông thôn Việt Nam. Khoảng 80% trong tổng số 11 triệu hộ nông dân
có tham gia sản xuất lúa gạo và chủ yếu dựa vào phương thức canh tác thủ công truyền
thống.
Trong lúa gạo có đầy đủ các chất dinh dưỡng như các cây lương thực khác, ngoài
ra còn có các Vitamin nhóm B và một số thành phần khác.
- Về tinh bột: Là nguồn cung cấp chủ yếu Calo. Giá trị nhiệt lượng của lúa là 3594
Calo/g, trong đó hàm lượng amyloza trong hạt quyết định đến độ dẻo của gạo. Hàm
lượng amyloza ở lúa gạo Việt nam thay đổi từ 18 - 45% đặc biệt có giống lên tới 54%.
- Prôtêin: Chiếm 6 - 8% thấp hơn so với lúa mỳ và các loại cây khác. Giống lúa có
hàm lượng prôtêin cao nhất là 12,84% và thấp nhất là 5,25%. Phần lớn các giống Việt
nam nằm vào khoảng 7 -8%.
- Lipít: Ở lúa lipít thuộc loại trung bình, phân bố chủ yếu ở lớp vỏ gạo.
- Vitamin: Trong lúa gạo còn có một số vitamin nhóm B như B1, B2, B6Vitamin B1
là 0,45 mg/100hạt. Từ những đặc điểm của cây lúa và giá trị của nó, lúa gạo được coi
Đại
học
inh
tế H
uế
Chuyên đề tốt nghiệp
SVTH: Đặng Văn Lợi
Lớp: K41A KTNN 8
là nguồn thực phẩm, dược phẩm có giá trị và được tổ chức dinh dưỡng quốc tế gọi là
"Hạt gạo là hạt của sự sống".
Với giá trị dinh dưỡng của hạt kết hợp với việc chọn tạo giống có năng suất cao,
phẩm chất tốt thì lúa gạo ngoài việc sử dụng hàm lượng lương thực là chủ yếu thì các
sản phẩm phụ của lúa còn sử dụng rất nhiều trong các lĩnh vực khác nhau:
+ Gạo: Có thể dùng làm nguyên vật liệu chế biến các sản phẩm như: kẹo, bánh, sản
xuất bia, rượu
+ Tấm: Sản xuất tinh bột, rượu, phấn mịn và thuốc chữa bệnh.
+ Cám: Ngoài việc làm thức ăn cho gia súc, trong công nghệ dược còn sản xuất
Vitamin B1 chữa bệnh tê phù, dầu cám có thể dùng chữa bệnh, chế tạo xăng, làm xà
phòng
+ Trấu: Sản xuất nấm mem làm thức ăn cho gia súc, làm chất đốt, đóng lót hàng dùng,
để độn chuồng làm phân bón có SiO2 cao.
+ Rơm rạ: Với thành phần xenluloza có thể sản xuất giấy, đồ gia dụng, làm thức ăn
cho gia súc như trâu, bò, trộn với họ đậu làm thức ăn ủ chua, sản xuất nấm rơm, độn
chuồng, làm chất đốt.
1.1.3. Một số vấn đề về hiệu quả và các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh tế
Trong nền kinh tế thị trường, hiệu quả kinh tế là mối quan tâm hàng đầu của các
nhà sản xuất, nhà kinh doanh và cũng là mối quan tâm chung của toàn xã hội. Hiệu
quả kinh tế là một phạm trù kinh tế phản ánh chất lượng của hoạt động kinh tế, là
thước đo trình độ tổ chức và chức năng quản lý kinh doanh của các doanh nghiệp.
Chính vì vậy trong điều kiện hiện nay các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển thì
yêu cầu đặt ra là phải kinh doanh có hiệu quả, thì doanh nghiệp mới đứng vững trên thị
trường. Với một lượng đầu vào hay tài nguyên nhất định, để tạo ra một khối lượng sản
phẩm lớn nhất có thể được là mục tiêu chung của các nhà sản xuất và các nhà quản lý.
Tuy nhiên trong thực tế nghiên cứu ta thu được kết quả rất đa dạng và phong phú, kết
quả có thể trên phương diện kinh tế - tài chính mà cũng có thể trên phương diện KT-
XH. Từ đó mà hình thành nên khái niệm hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội và hiệu quả
kinh tế xã hội.
Đại
ọc
Kin
h tế
Hu
ế
Chuyên đề tốt nghiệp
SVTH: Đặng Văn Lợi
Lớp: K41A KTNN 9
Như vậy, hiệu quả kinh tế là sự tương quan so sánh giữa lượng kết quả đạt được
và chi phí bỏ ra, nó thể hiện bằng các chỉ tiêu như sau: Giá trị tổng sản phẩm, thu
nhập, lợi nhuận ... tính trên lượng chi phí bỏ ra.
Hiệu quả xã hội là tương quan so sánh giữa chi phí xã hội bỏ ra và kết quả mà xã
hội đạt được như: tăng thêm việc làm, cải tạo môi trường sinh thái, rút ngắn khoảng
cách giàu nghèo ...
Hiệu quả kinh tế - xã hội là sự tương quan so sánh giữa chi phí bỏ ra và kết quả
đạt được cả về kinh tế và xã hội. Mục tiêu cuối cùng của phát triển kinh tế là phát triển
xã hội. Do đó khi nói đến hiệu quả kinh tế chúng ta nói trên quan điểm kinh tế xã hội.
Tùy theo mục đích tính toán hiệu quả kinh tế mà xác định kết quả sao cho phù
hợp. Đối với nông hộ, kết quả cần được quan tâm là thu nhập. Chi phí bỏ ra trong quá
trình kinh doanh là những chi phí cho các yếu tố đầu vào như: đất đai, lao động,
nguyên nhiên liệu. Sau khi đã xác định được kết quả thu được và chi phí bỏ ra chúng
ta có thể tính được hiệu quả kinh tế bằng các phương pháp sau:
- Thứ nhất: Hiệu quả kinh tế được xác định bằng tỷ số giữa kết quả đạt được và chi phí
bỏ ra. Công thức được xác định như sau:
H = Q/C
Trong đó: H: hiệu quả kinh tế
Q: kết quả thu được
C: chi phí bỏ ra
Phương pháp này phản ánh rỏ nét trình độ sử dụng các nguồn lực, xem xét được
một đơn vị nguồn lực đã sử dụng đem lại bao nhiêu kết quả. Điều này giúp ta so sánh
hiệu quả ở các qui mô khác nhau.
- Thứ hai: Hiệu quả kinh tế được tính bằng cách so sánh phần tăng thêm của kết quả
thu được và phần tăng thêm của chi phí bỏ ra. Công thức được xác định như sau:
H = Q/C
Trong đó: H: hiệu quả kinh tế.
Q: phần tăng thêm của kết quả thu được.
C: phần chi phí tăng thêm.
Đại
ọc
Kin
h tế
Huế
Chuyên đề tốt nghiệp
SVTH: Đặng Văn Lợi
Lớp: K41A KTNN 10
Phương pháp này dùng để nghiên cứu mức đầu tư trong thâm canh. Nó xác định
kết quả thu thêm trên một đơn vị tăng thêm của chi phí. Tuy nhiên, khi sử dụng hai
phương pháp trên đều không cho biết qui mô của hiệu quả kinh tế là bao nhiêu. Vì thế
mà hiệu quả kinh tế còn xác định bằng chênh lệch giữa kết quả thu được với phần chi
phí bỏ ra. Để biết được kết quả, với cách tính này cho ta biết được tổng thu nhập và
tổng lợi nhuận là bao nhiêu. Mặc dù vậy cách tính này không cho ta biết cái giá phải
trả cho qui mô hiệu quả kinh tế là bao nhiêu và không thể dùng để so sánh hiệu quả đạt
được giữa các doanh nghiệp, các đơn vị sản xuất không cùng quy mô.
Qua trình bày ở trên ta thấy có nhiều cách để tính hiệu quả kinh tế, mỗi cách tính
đều phản ánh một khía cạnh khác nhau. Vì vậy trong quá trình nghiên cứu tùy vào
mục đích khác nhau mà chúng ta lựa chọn cách tính sao cho phù hợp và con số cuối
cùng phải có ý nghĩa về mặt kinh tế.
Trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay thì hiệu quả là tiêu chí đánh giá quá
trình sản xuất của một doanh nghiệp hay một hộ gia đình nào đó. Sản phẩm có chổ
đứng vững trên thị trường hay không điều này không chỉ thể hiện ở nội dung chất
lượng sản phẩm mà nó còn thể hiện sản phẩm đang ở mức giá nào. Từ thực tế này mà
khi đánh giá hiệu quả kinh tế trong sản xuất ta phải dựa trên cơ sở giá cả thị trường tại
thời điểm người bán quyết định bán. Tuy nhiên khi nghiên cứu động thái của hiệu quả
cần phải sử dụng giá cả cố định hoặc giá gốc để so sánh.
Trên cơ sở hệ thống tài khoản quốc gia SNA, chúng ta có các chỉ tiêu đánh giá
kết quả và hiệu quả kinh tế như sau:
+ Giá trị gia tăng (VA): là một trong những chỉ tiêu kinh tế tổng hợp quan trọng phản
ánh kết quả cuối cùng của các hoạt động sản xuất của các ngành thành phần kinh tế và
toàn bộ nền kinh tế quốc dân trong một thời kỳ nhất định. Đó là nguồn gốc của mọi
khoản thu nhập, sự giàu có và phồn vinh xã hội. Nó không chỉ biểu hiện hiệu quả của
sản xuất theo chiều rộng mà c