Hội nhập kinh tếquốc tếlà m ột quá trình đang diễn ra mạnh mẽtrên thếgiới,
cùng với sựtham gia ngày càng sâu rộng và toàn diện của các quốc gia. Thực
hiện đường lối đổi mới, chính sách đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệquốc
tế, trong vòng hơn 10 năm qua, Việt Nam đã tích cực và chủ động thúc đẩy
quá trình hội nhập kinh tếquốc tế. Không chỉ đơn thuần thực hiện mởcửa thị
trường, Việt Nam đã tiến hành cải cách cơcấu kinh tế, điều chỉnh chính sách
kinh tếmà nổi bật nhất là bổsung, hoàn thiện hơn nữa chính sách thương mại
nhằm phù hợp với các quy định của các tổchức kinh tếquốc tế, tham gia và
thực hiện một cách đầy đủcác cam kết hội nhập. Đặc biệt trong chính sách
thương mại của Việt Nam thì lĩnh vực thương m ại hàng hoá được đềcập nhiều
nhất, chiếm vịtrí quan trọng và luôn được xem xét, cân nhắc kỹlưỡng trước
khi bổsung, điều chỉnh.
Nhận thức rõ được vấn đềtrên, người viết chọn đềtài khoá luận tốt nghiệp :
"Điều chỉnh chính sách thương mại của Việt Nam trong quá trình hội
nhập kinh tếquốc tế". Đềtài nghiên cứu này được xây dựng nhằmmang bổ
sung m ột cái nhìn chi tiết vềquá trình hội nhập kinh tếquốc tếcủa Việt Nam,
những sự điều chỉnh trong chính sách thương mại trong hội nhập, làm cơsở
cho việc tiếp tục hoàn thiện chính sách hơn nữa, góp phần đưa Việt Nam hội
nhập một cách có hiệu quảvào kinh tếkhu vực và thếgiới.
111 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 3211 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Điều chỉnh chính sách thương mại của Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG HÀ NỘI
KHOA KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
ĐIỀU CHỈNH CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI
CỦA VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH HỘI
NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Minh Nguyệt
Lớp : A1 K37A
Khoá 37 Hà Nội
Giáo viên hướng dẫn: Th.S Bùi Thị Lý, Khoa KTNT
Hà Nội – 2002
LỜI NÓI ĐẦU
Hội nhập kinh tế quốc tế là một quá trình đang diễn ra mạnh mẽ trên thế giới,
cùng với sự tham gia ngày càng sâu rộng và toàn diện của các quốc gia. Thực
hiện đường lối đổi mới, chính sách đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ quốc
tế, trong vòng hơn 10 năm qua, Việt Nam đã tích cực và chủ động thúc đẩy
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Không chỉ đơn thuần thực hiện mở cửa thị
trường, Việt Nam đã tiến hành cải cách cơ cấu kinh tế, điều chỉnh chính sách
kinh tế mà nổi bật nhất là bổ sung, hoàn thiện hơn nữa chính sách thương mại
nhằm phù hợp với các quy định của các tổ chức kinh tế quốc tế, tham gia và
thực hiện một cách đầy đủ các cam kết hội nhập. Đặc biệt trong chính sách
thương mại của Việt Nam thì lĩnh vực thương mại hàng hoá được đề cập nhiều
nhất, chiếm vị trí quan trọng và luôn được xem xét, cân nhắc kỹ lưỡng trước
khi bổ sung, điều chỉnh.
Nhận thức rõ được vấn đề trên, người viết chọn đề tài khoá luận tốt nghiệp :
"Điều chỉnh chính sách thương mại của Việt Nam trong quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế". Đề tài nghiên cứu này được xây dựng nhằm mang bổ
sung một cái nhìn chi tiết về quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam,
những sự điều chỉnh trong chính sách thương mại trong hội nhập, làm cơ sở
cho việc tiếp tục hoàn thiện chính sách hơn nữa, góp phần đưa Việt Nam hội
nhập một cách có hiệu quả vào kinh tế khu vực và thế giới.
Để thực hiện đề tài nghiên cứu, người viết chủ yếu dựa vào phương pháp phân
tích tổng hợp kết hợp với các phương pháp bổ trợ như phân tích, thống kê...
kết hợp các công cụ hỗ trợ như hệ thống bảng biểu... nhằm minh hoạ rõ nét
các vấn đề nghiên cứu.
Ngoài phần Lời mở đầu, Kết luận và Tài liệu Tham khảo, khoá luận có kết cấu
gồm 3 chương:
Chương I: Thực trạng những cải cách trong chính sách thương mại Việt
Nam kể từ khi thực hiện đổi mới kinh tế. Trong chương này người viết đề
cập đến những cải cách trong các chính sách thuế, phi thuế và một số lĩnh vực
khác đồng thời điểm lại tiến trình hội nhập vào các tổ chức kinh tế quốc tế của
Việt Nam.
Chương II: Những điều chưa phù hợp trong chính sách thương mại hàng
hoá của Việt Nam so với các quy định của các tổ chức kinh tế quốc tế.
Trong chương này người viết lần lượt trình bày các quy định về thương mại
của các tổ chức kinh tế quốc tế, lộ trình hội nhập của Việt Nam cũng như
những tồn tại trong chính sách thương mại của Việt Nam
Chương III: Phương hướng điều chỉnh chính sách thương mại của Việt
Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Trong chương này người viết
nêu lên những thuận lợi và khó khăn của Việt Nam khi phải điều chỉnh chính
sách thương mại trong điều kiện hội nhập, trình bày những thành tựu của Việt
Nam sau 15 năm mở cửa và hội nhập đồng thời cũng điểm lại kinh nghiệm
trong chính sách thương mại của một số nước; cuối cùng là một số đề xuất chủ
quan về những vấn đề cần xử lý trong chính sách để hội nhập kinh tế quốc tế
đạt được như mục tiêu đề ra.
Với kiến thức hiểu biết còn hạn hẹp, khoá luận tốt nghiệp này không thể không
tránh khỏi những sơ sót nhất định. Vì vậy, em rất mong nhận được sự góp ý
quý báu của các thầy cô giáo và bạn bè cùng trường.
Cuối cùng, em xin được bày tỏ sự biết ơn chân thành tới các thầy giáo, cô giáo
khoa Kinh tế Ngoại thương đã nhiệt tình dạy dỗ và cung cấp cho em những
kiến thức cần thiết và bổ ích trong quá trình em học tập tại trường. Đặc biệt
em xin được gửi lời cảm ơn sâu sắc tới cô giáo, Th.S Bùi Thị Lý - người đã
tận tình trực tiếp hướng dẫn và giúp đỡ em hoàn thành Khoá luận tốt nghiệp
của mình.
CHƯƠNG I: THỰC TRẠNG NHỮNG CẢI CÁCH TRONG
CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI VIỆT NAM KỂ TỪ KHI THỰC HIỆN
ĐỔI MỚI KINH TẾ
Chính sách thương mại là một hệ thống các quan điểm, giải pháp liên
quan đến thuế quan, bảo hộ, các quy chế thương mại, thông qua đó Chính phủ
có thể thực hiện sự phân bổ nguồn lực theo những định hướng nhất định.
Chính sách thương mại liên quan chặt chẽ đến chính sách công nghiệp, chính
sách đầu tư, chính sách tài chính tiền tệ, và nói chung được quy định bởi
đường lối phát triển mỗi quốc gia.
Kinh nghiệm của các nền kinh tế năng động đã chỉ ra rằng, ở mỗi giai
đoạn phát triển kinh tế, chính sách thương mại đã được sử dụng như một công
cụ nhằm phân bổ tối ưu các nguồn lực giữa các quốc gia cũng như trong mỗi
quốc gia. Đối với Việt Nam, sự tiến triển của chính sách ngoại thương gắn liền
với quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh
tế thị trường và tìm kiếm con đường công nghiệp hóa đất nước. Do vậy tính
chất không nhất quán và đôi khi mâu thuẫn trong chính sách và giữa chính
sách với sự áp dụng nó trong thực tế là điều dễ hiểu. Tuy nhiên những tiến
triển trong chính sách cũng cho thấy một xu hướng cơ bản là Việt Nam đang
vững bước trên con đường chuyển sang nền kinh tế thị trường và hội nhập vào
nền kinh tế khu vực và thế giới.
Trên cơ sở nắm bắt được xu thế vận động của thế giới, nắm vững quy
luật kinh tế và vận dụng có sáng tạo vào điều kiện hoàn cảnh của đất nước ta,
Nhà nước đã tiến hành đổi mới toàn diện nền kinh tế, trong đó những đổi mới,
điều chỉnh và cải cách trong chính sách thương mại là bộ phận quan trọng
I/ Những cải cách trong chính sách thuế
1. Thuế xuất khẩu, nhập khẩu
Thuế xuất khẩu, nhập khẩu là một trong những công cụ quan trọng trong
chính sách thương mại của nhà nước nhằm điều tiết lượng hàng hoá được xuất
khẩu, nhập khẩu, nó có tác động làm tăng giá đối với hàng hoá được phép
xuất khẩu, nhập khẩu. Nó còn tác động lên tổng cung, tổng cầu của nhiều hàng
hoá khác. Vì vậy, chúng ta có thể nói chính sách thuế xuất khẩu, nhập khẩu là
một bộ phận quan trọng nhất trong toàn bộ chính sách ngoại thương của nhà
nước ta trong thời kỳ hiện nay.
Luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu được ban hành vào tháng 12 năm 1991,
có bổ sung sửa đổi vào năm 1993 và năm 1999. Luật thuế xuất nhập khẩu ra
đời giúp các doanh nghiệp chủ động trong khâu tính toán, lựa chọn mặt hàng,
bạn hàng phù hợp sao cho đạt được hiệu quả kinh doanh cao nhất. Đối với nhà
nước, thuế xuất nhập khẩu là công cụ quản lý hữu hiệu, hơn thế nữa, đây là
nguồn thu lớn của ngân sách nhà nước, qua bảng số liệu dưới đây cho thấy,
mức động viên bình quân của thuế nhập khẩu vào ngân sách nhà nước khoảng
18%.
Bảng tóm tắt tình hình thu thuế nhập khẩu từ năm 1996 đến năm 2000
Đơn vị tính: Tỷ VND
Năm
Tổng thu ngân
sách nhà nước
từ thuế
Tổng thu thuế
nhập khẩu
Tỷ lệ % tổng thu thuế nhập
khẩu so với tổng thu ngân sách
nhà nước
1996 60925 11991 19,68
1997 63303 10980 17,34
1998 68250 11191 16,39
1999 77741 12584 16,19
2000 90540 10580 11,69
Nguồn : - Tổng cục Hải quan
- Bộ Tài chính
Ngoài ra thuế nhập khẩu còn có tác dụng bảo hộ sản xuất trong nước
thông qua việc đánh thuế nhập khẩu cao vào hàng ngoại nhằm làm giảm sự
cạnh tranh của hàng ngoại nhập. Thông qua thuế, nhà nước tiến hành hướng
dẫn tiêu dùng, mở rộng kinh tế đối ngoại, thực hiện chính sách thị trường và
bạn hàng, thực hiện những cam kết của chính phủ ta với chính phủ nước ngoài.
Trên con đường hội nhập kinh tế quốc tế, chính sách thuế quan của
chúng ta đã có nhiều thay đổi, đã đáp ứng phần nào yêu cầu mở rộng quan hệ
hợp tác của Đảng và Nhà nước. Không chỉ có vậy, thuế xuất khẩu nhập khẩu
đã đáp ứng được yêu cầu tăng cường kiểm soát hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu
phù hợp với điều kiện hoàn cảnh của nền kinh tế.
Bên cạnh đó, chính sách thuế xuất khẩu, nhập khẩu được điều chỉnh thể
hiện sự quan tâm và chú ý của Đảng và nhà nước. Cụ thể như:
lập lại danh mục hàng hoá theo cách phân chia của thị trường thế
giới
quy định rõ những mặt hàng cấm xuất khẩu, nhập khẩu , những
mặt hàng phải quản lý bằng hạn ngạch
quy định các biện pháp hành chính khác .
Thuế suất được xây dựng tuỳ thuộc vào mức độ khuyến khích hay hạn
chế xuất khẩu, nhập khẩu, vào sự chênh lệch giá cả trong nước và quốc tế.
Chúng ta đã có những cố gắng trong việc đưa ra chính sách thuế phù hợp để
bảo hộ sản xuất trong nước. Ngoài ra quy chế thuế suất được thay đổi để có
thể điều chỉnh kịp thời trước những biến đổi của thị trường.
Về thuế xuất khẩu, nhà nước ta quy định mức thuế xuất khẩu đối với
một số mặt hàng có hiệu suất thu ngoại tệ cao và có chính sách trợ giá với một
số mặt hàng khác. Về thuế nhập khẩu, nhà nước ban hành chính sách thuế theo
hướng khuyến khích nhập khẩu nguyên liệu, phụ tùng thiết bị, hạn chế việc
nhập khẩu hàng tiêu dùng xa xỉ và những mặt hàng trong nước đã sản xuất
được.
Lĩnh vực hoạt động buôn bán với các nước có chung biên giới cũng
được quy định cụ thể. Quyết định số 78/TTg ngày 28-2-1994 của Thủ tướng
Chính phủ quy định chấn chỉnh việc quản lý tình hình buôn bán giữa Việt Nam
với các nước có chung biên giới thực hiện đúng theo Hiệp định thương mại đã
ký với các nước và tập quán thương mại quốc tế. Đặc biệt trong tình hình kinh
tế mới, để khuyến khích xuất khẩu, kiểm soát chặt chẽ nhập khẩu ngày 8-8-
1998 Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định số 143/1998/QĐ-TTg sửa đổi
chế độ thuế xuất khẩu, nhập khẩu tiểu ngạch. Quyết định naỳ bãi bỏ chế độ
thuế xuất khẩu, nhập khẩu, tiểu ngạch quy định tại Quyết định số 115/HĐBT
ngày 8-2-1992 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ), áp dụng chế độ
thuế hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu chính ngạch đối với hàng hoá xuất khẩu,
nhập khẩu tiểu ngạch để thống nhất chế độ thu thuế xuất khẩu, nhập khẩu,
quản lý tốt hơn nữa hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu .
Danh mục hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu cũng được lập lại cụ thể hơn,
hoàn thiện hơn, phù hợp với tình hình kinh tế mới, đáp ứng tiến trình hội nhập
kinh tế. Năm 1992 theo Quyết định số 172/TCTK-QQD ngày 1-11-1992 Tổng
cục Thống kê đã ban hành danh mục hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu của Việt
Nam trên cơ sở hệ thống điều hoà (HS) của Hội đồng hợp tác hải quan thế giới
(Custom Co-operation Council - CCO). Trong bảng danh mục này, hàng hoá
được phân theo phần, chương, nhóm, phân nhóm và mặt hàng đến cấp mã 6
chữ số. Kể từ khi ban hành bảng danh mục đã góp phần phục vụ có kết quả
cho nhiều mục đích trong đó có công tác xuất khẩu, nhập khẩu. Cùng với sự
phát triển nhanh chóng của hoạt động thương mại quốc tế nước ta trong quá
trình đổi mới và việc gia nhập các tổ chức thương mại đa phương, danh mục
hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu của nước ta đã được hoàn thiện thêm và phân
loại chi tiết hơn. Theo sự chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ (tại Văn bản số
5469/KHTH ngày 29-9-1995), Tổng cục Thống kê cùng với Tổng cục Hải
quan và Tổng cục Thuế đã hoàn thiện bảng danh mục ở cấp mã 8 chữ số.
Ngày 26-12-1995, Tổng cục Thống kê đã ban hành “ Danh mục hàng hoá xuất
khẩu, nhập khẩu Việt Nam “ phân loại chi tiết đến cấp mã 8 chữ số theo Quyết
định 324/TCTK-QĐ và được áp dụng kể từ 1-1-1996. Bảng danh mục này
được thay thế cho danh mục ban hành năm 1992 và được áp dụng thống nhất
cho tất cả mọi hoạt động trong nền kinh tế quốc dân có liên quan đến việc
phân loại hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu, quản lý hoạt động ngoại thương, xây
dựng biểu thuế xuất khẩu, nhập khẩu. Đây là một bước tiến lớn trong chính
sách thuế xuất khẩu, nhập khẩu tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình phát triển
thương mại quốc tế và hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới.
Biểu thuế bước đầu đã được điều chỉnh với 97 chương, bao gồm 5938
dòng hàng (thời điểm 1/1/1999). Tuy nhiên biểu thuế của chúng ta được đánh
giá là phức tạp và thường xuyên thay đổi. Số mức thuế suất giảm từ 36 ở thời
điểm 1995, xuống còn 31 vào năm 1996, sau đó lại tăng lên 35 vào 1997, rơi
xuống còn 26 mức thuế suất vào thời điểm 1998 (từ 0% đến 60%), và cuối
cùng chỉ còn 18 mức thuế tính cho đến 1999. Số dòng hàng cho đến nay đã
được bổ sung lên đến khoảng 6400 dòng hàng. (Dự án UNDP VIE 95/015
“Xúc tiến hội nhập của Việt Nam với ASEAN: Hội nhập của Việt Nam với
ASEAN: khảo sát các biện pháp tác động tới thương mại”)
Đặc biệt từ cuối năm 1997 đến nay để hạn chế và quản lý tốt hơn tình
hình nhập khẩu một số mặt hàng tiêu dùng, Nhà nước đã chủ trương dán tem
một số mặt hàng. Chủ trương dán tem hàng nhập khẩu cho phép quản lý tốt
hơn hoạt độnh nhập khẩu, hạn chế trốn lậu thuế, góp phần phát huy tác dụng
điều hành xuất khẩu, nhập khẩu của chính sách thuế của Nhà nước, đồng thời
tạo điều kiện phát triển sản xuất trong nước, đẩy nhanh nhịp độ phát triển kinh
tế.
2. Thuế tiêu thụ đặc biệt
Luật thuế tiêu thụ đặc biệt có hiệu lực vào 1/1/1999. Luật thuế này ra
đời thay thế thuế thương mại đặc biệt năm 1990. Luật thuế mới ra đời phân
biệt một cách rõ ràng : ”thuốc lá điếu xì gà được sản xuất chủ yếu từ nguyên
liệu thô nhập ngoại”. Những loại thuốc lá này phải chịu mức thuế tiêu thụ đặc
biệt là 65% trong đó thuốc lá điếu xì gà được sản xuất chủ yếu từ nguyên liệu
thô trong nước phải chịu mức thuế tiêu thụ đặc biệt là 45%.
Thuế tiêu thụ đặc biệt mới ra đời xoá bỏ những quy định của thuế cũ
đánh vào ô tô nhập khẩu. Những quy định đó tồn tại từ tháng 10/1995, trong
đó mức thuế bảo hộ áp dụng là 200% nếu tiến hành lắp ráp nội địa (CIE
1998a, trang 40). Tuy nhiên phạm vi miễn thuế trong luật mới hầu như không
thay đổi. Theo luật, việc miễn thuế sẽ được quy định ở các cấp độ khác nhau
phụ thuộc vào tình trạng của doanh nghiệp: doanh nghiệp gặp khó khăn do :
“thảm họa, thiên tai” ; doanh nghiệp sản xuất bia quy mô nhỏ chịu thua lỗ,
thiệt hại; doanh nghiệp lắp ráp ô tô nội địa (từ 60-100% cho đến 10 năm); hoạt
động kinh doanh sân golf (30% trong 5 năm ).
Bộ Thương Mại sau đó đã mở rộng phạm vi miễn thuế (31/7/1998, theo
TT 109/1998/TT-BTC). Theo sửa đổi này thì “Nhà sản xuất quy mô nhỏ, nếu
đã nộp thuế tiêu thụ đặc biệt, trong trường hợp gặp phải thua lỗ, thiệt hại, mất
mát thì sẽ được cân nhắc để giảm thuế (giảm khoảng 50%)”.
Với thực tế như trên, mặc dù Nhà nước có nhiều biện pháp, sửa đổi
nhằm tạo điều kiện kinh doanh cho doanh nghiệp cũng như điều chỉnh chính
sách để tạo thuận lợi khi tham gia vào hội nhập kinh tế quốc tế thì hệ thống kế
toán và kiểm toán của Việt Nam vẫn còn nhiều điểm chưa phù hợp với thông
lệ quốc tế. Một trong những điểm cần được cân nhắc, xem xét nhất là việc loại
bỏ dần dần phạm vi áp dụng thuế thông qua các trường hợp miễn thuế.
3. Thuế giá trị gia tăng
Thuế giá trị gia tăng có hiệu lực 1/1/1999. Theo biểu thuế thì có mức
thuế hiện hành:
0% : hàng hóa xuất khẩu
5% : sản phẩm và dịch vụ nông nghiệp, giáo dục và y tế
20% : một số dịch vụ
10% : các hàng hoá và dịch vụ còn lại
Thuế giá trị gia tăng được đánh trên nguyên tắc cơ bản :
hàng nhập khẩu sẽ bị đánh thuế giá trị gia tăng
hàng xuất khẩu sẽ bị đánh thuế giá trị gia tăng bằng %.
Một khía cạnh khác của thuế giá trị gia tăng là thuế này được thu ngay
tại cảng sau khi hàng hóa đã được thông quan. Quy định này không giống như
quy định trước đây là cho phép nộp thuế nhập khẩu chậm từ 30 đến 270 ngày.
Trong biểu thuế giá trị gia tăng, có 26 mức miễn thuế quy định, một vài trong
số đó có ảnh hưởng trực tiếp đến thương mại (TT 89/1998/TT-BTC)
hàng hoá và dịch vụ chịu thuế tiêu thụ đặc biệt thì không chịu
thuế giá trị gia tăng trong quá trình sản xuất hoặc nhập khẩu.
tài sản cố định nhập khẩu (ví dụ như máy móc và thiết bị vận tải )
trong nước không sản xuất được.
hàng viện trợ quốc tế nhập khẩu.
chuyển giao công nghệ.
chất khoáng chưa qua chế biến xuất khẩu.
Tuy nhiên, việc thiếu các định nghĩa chính xác, (ví dụ như tài sản cố
định trong nước không sản xuất được) sẽ dẫn đến tình trạng là có rất nhiều sự
nhận định, đánh giá khác nhau từ các cấp có thẩm quyền. Hơn thế nữa xảy ra
nhiều trường hợp trốn tránh nộp thuế cho nhà nước, đưa ra số thu thuế thấp
hơn so với số lượng thực tế nhập khẩu.
Giải pháp thích đáng cho vấn đề này là cần phải tăng cường hệ thống
kế toán và kiểm toán, hệ thống thu thuế hiện hành. Những nỗi lo ngại về việc
ngày càng mở rộng phạm vi xét miễn xoá nợ thuế giá trị gia tăng đã được trấn
an. Tuy nhiên đã có trường hợp xoá nợ thuế cho “các doanh nghiệp đang gặp
rắc rối” và trong đó có áp dụng với cả thuế giá trị gia tăng.
II/ Những cải cách trong lĩnh vực phi thuế quan
Để điều tiết hoạt động thương mại, ngoài chính sách thuế quan như trình
bày ở trên, Nhà nước còn áp dụng một số biện pháp phi thuế quan khác.
Những biện pháp này bao gồm hạn ngạch, giấy phép, quản lý tỷ giá hối đoái.
1. Hạn ngạch
Hạn ngạch xuất khẩu, nhập khẩu là quy định của nhà nước về số lượng
hoặc giá trị một mặt hàng nào đó được phép xuất khẩu, nhập khẩu trong một
thời gian nhất định (thường là một năm). Cũng có khi hạn ngạch quy định cả
thị trường thì có nghĩa là doanh nghiệp được cấp hạn ngạch chỉ được phép
xuât khẩu, nhập khẩu mặt hàng đó từ thị trường quy định với một số lượng
nhất định.
Hạn ngạch là một trong những công cụ phi thuế được sử dụng nhằm
mục đích ngăn chặn hàng nhập khẩu vào, bảo vệ thị trường trong nước, cải
thiện cán cân buôn bán hoặc cán cân thanh toán, làm công cụ mặc cả trong các
cuộc thương lượng buôn bán.
Việc quy định hạn ngạch xuất khẩu nhằm mục đích:
- Bảo vệ quyền lợi quốc gia
- Bảo vệ nguồn lợi tài nguyên, động vật, cây trồng
- Bảo vệ di sản văn hoá, đồ cổ
- Thực hiện sự cam kết của chính phủ ta và chính phủ nước ngoài.
Việc quy định hạn ngạch nhập khẩu nhằm mục đích:
- Bảo vệ nền sản xuất trong nước
- Tiết kiệm ngoại tệ, cải thiện cán cân thanh toán
- Hướng dẫn tiêu dùng trong nhân dân
Việc sử dụng hạn ngạch trong công tác quản lý, điều hành hoạt động
xuất khẩu, nhập khẩu giúp cho nhà nước nắm được số lượng hàng hoá được
phép xuất khẩu, nhập khẩu nhưng gây ra sự bất bình đẳng trong kinh doanh.
Doanh nghiệp nào được cấp hạn ngạch thì được phép xuất khẩu, nhập khẩu và
thu được lợi nhuận lớn, còn doanh nghiệp nào không được cấp thì không được
phép xuất khẩu, nhập khẩu mặt hàng đó, từ đó dễ gây tình trạng độc quyền
kinh doanh, độc quyền về giá cả, đồng thời nhà nước thất thu một khoản thuế
do hạn chế nhập khẩu.
Ở Việt nam, từ những năm trước đây, để bảo vệ nền kinh tế còn lạc hậu,
kém phát triển, hàng năm nhà nước đưa ra danh mục hàng hoá cấm xuất khẩu,
nhập khẩu, hàng hoá quản lý bằng hạn ngạch, nhưng danh mục hàng hoá quản
lý ngày càng giảm dần. Tinh thần chung của các thông tư là giảm tối thiểu các
mặt hàng xuất khẩu, nhập khẩu phải quản lý bằng hạn ngạch. Trong quá trình
đổi mới chính sách thương mại, đặc biệt là quá trình giám sát việc thực hiện
xuất khẩu, nhập khẩu của các doanh nghiệp, Bộ Thương Mại đã tiến hành điều
chỉnh số lượng hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu từ doanh nghiệp không có khả
năng thực hiện sang/cho doanh nghiệp có nhu cầu và có điều kiện. Việc đổi
mới trên đã góp phần xoá bỏ đáng kể sự cứng nhắc trước đây trong công tác
điều hành, quản lý, hoạt động thương mại.
Các sản phẩm xuất khẩu và nhập khẩu hiện nay được điều chỉnh bằng
hạn ngạch bao gồm:
Sản phẩm mà hạn ngạch được cấp bởi các tổ chức kinh tế quốc tế
và các quốc gia khác (hạn ngạch xuất khẩu hàng dệt may vào EU, Canada
và Nauy)
Hàng hoá “dùng cho việc làm cân bằng nền kinh tế” sẽ được quy
định cụ thể trong Quyết định hàng năm của Thủ tướng chính phủ.
Hạn ngạch xuất khẩu gạo được điều chỉnh linh hoạt hàng năm dựa trên
sản lượng thu hoạch từng vụ mùa. Theo Quyết định số 141/TTg của Thủ tướng
chính phủ về vấn đề quản lý xuất khẩu gạo và nhập khẩu phân bón ngày 8
tháng 3 năm 1997, hạn ngạch xuất khẩu gạo được phân bổ cho từng hội đồng
nhân dân các tỉnh, thành phố, dựa trên sản lượng thương mại đầu ra ở mỗi tỉnh,
thành phố. Các tỉnh này lại lần lượt phân bổ hạn