Trong xu thế hội nhập, cùng với những thuận lợi, cơ hội phát triển mới là những khó khăn, thách thức. Đất nước chúng ta – một đất nước còn đang trên đà phát triển thì"cạnh tranh" sẽ là một trong những áp lực lớn nhất trong con đường hội nhập thế giới. Và các ngân hàng thương mại "Hệ thống huyết mạch của nền kinh tế" cũng không nằm ngoài quy luật chung đó, để tồn tại và phát triển buộc các ngân hàng phải trải qua cuộc "đấu tranh sinh tồn".
Như ta đã biết, cạnh tranh ngày càng khốc liệt cũng đồng nghĩa với nó là rủi ro ngày càng tăng. Hơn thế nữa, trong kinh doanh tín dụng nói chung và bảo đảm tiền vay nói riêng, rủi ro là yếu tố khách quan, chỉ có thể đề phòng hạn chế, chứ không thể loại trừ. Rủi ro đến với ngân hàng có thể từ nhiều phía và diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau, gây nên những tổn thất cho các ngân hàng thương mại. Mặt khác, trong điều kiện nền kinh tế còn khá nhiều bất ổn như hiện nay, khi mọi dự đoán và tính toán chỉ mang tính lý thuyết, dễ biến động và không chính xác, thì "bảo đảm tiền vay" là một đòi hỏi mang tính trước mắt, tất yếu, khách quan.
93 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 3043 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Giải pháp hoàn thiện bảo đảm tiền vay tại ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn chi nhánh Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Trong xu thế hội nhập, cùng với những thuận lợi, cơ hội phát triển mới là những khó khăn, thách thức. Đất nước chúng ta – một đất nước còn đang trên đà phát triển thì("cạnh tranh" sẽ là một trong những áp lực lớn nhất trong con đường hội nhập thế giới. Và các ngân hàng thương mại "Hệ thống huyết mạch của nền kinh tế" cũng không nằm ngoài quy luật chung đó, để tồn tại và phát triển buộc các ngân hàng phải trải qua cuộc "đấu tranh sinh tồn".
Như ta đã biết, cạnh tranh ngày càng khốc liệt cũng đồng nghĩa với nó là rủi ro ngày càng tăng. Hơn thế nữa, trong kinh doanh tín dụng nói chung và bảo đảm tiền vay nói riêng, rủi ro là yếu tố khách quan, chỉ có thể đề phòng hạn chế, chứ không thể loại trừ. Rủi ro đến với ngân hàng có thể từ nhiều phía và diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau, gây nên những tổn thất cho các ngân hàng thương mại. Mặt khác, trong điều kiện nền kinh tế còn khá nhiều bất ổn như hiện nay, khi mọi dự đoán và tính toán chỉ mang tính lý thuyết, dễ biến động và không chính xác, thì "bảo đảm tiền vay" là một đòi hỏi mang tính trước mắt, tất yếu, khách quan.
Xuất phát từ chính nhu cầu thực tiễn bức xúc đó, đồng thời được sự hướng dẫn tận tình của thầy giáo – TS. Hoàng Xuân Quế; sự giúp đỡ, chỉ bảo nhiệt tình của cán bộ nhân viên phòng Tín dụng&bảo lãnh nói riêng, toàn thể cán bộ, nhân viên SCB – chi nhánh Hà Nội nói chung, em đã mạnh dạn đi sâu nghiên cứu đề tài "Giải pháp hoàn thiện bảo đảm tiền vay tại ngân hàng TMCP Sài Gòn – chi nhánh Hà Nội" để làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Thông qua việc nghiên cứu, em muốn tìm hiểu sâu về các hình thức bảo đảm tiền vay, rủi ro tiền vay, tác dụng của việc bảo đảm tiền vay tới các chủ thể có liên quan. Trên cơ sở những lý luận chung đó, em cũng muốn đi sâu nghiên cứu về thực trạng bảo đảm tiền vay tại ngân hàng TMCP Sài Gòn – chi nhánh Hà Nội để từ đó thấy được mặt được, chưa được trong công tác bảo đảm tiền vay cũng như những nguyên nhân dẫn tới tình trạng đó. Cuối cùng là đề xuất về giải pháp, kiến nghị để thực hiện bảo đảm tiền vay tại chi nhánh.
3.Phương pháp nghiên cứu
Đề tài có sử dụng các phương pháp nghiên cứu thông thường như phương pháp thực tiễn, so sánh…kết hợp với cac phương pháp trừu tượng hóa khoa học, phương pháp duy vật biện chứng…
4. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài được bố cục làm 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về bảo đảm tiền vay tại ngân hàng thương mại.
Chương 2: Thực trạng bảo đảm tiền vay tại ngân hàng TMCP Sài Gòn – chi nhánh Hà Nội.
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện hoạt động bảo đảm tiền vay tại ngân hàng TMCP Sài Gòn – chi nhánh Hà Nội.
Dù đã cố gắng tìm hiểu, nghiên cứu, song do còn nhiều hạn chế về thời gian, kiến thức cũng như kinh nghiệm thực tế nên đề tài chắc chắn không tránh khỏi những sai sót. Chính vì vậy, em rất mong nhận được sự đóng góp, chỉ bảo của các thầy cô giáo cũng như các bạn sinh viên quan tâm.
Em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới toàn thể cán bộ, nhân viên phòng Tín dụng và bảo lãnh nói riêng, cán bộ nhân viên ngân hàng TMCP Sài Gòn – chi nhánh Hà Nội nói chung đã giúp đỡ và chỉ bảo tận tình cho em trong thời gian thực tập.
Em cũng xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới toàn thể các thầy cô giáo trong trường đặc biệt là thầy giáo – TS. Hoàng Xuân Quế đã truyền dạy kiến thức cũng như hướng dẫn, giúp đỡ em hoàn thành xong đề tài này.
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẢM BẢO TIỀN VAY TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN SÀI GÒN – CHI NHÁNH HÀ NỘI
1.1. Hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại
1.1.1.Khái niệm
Cho vay là hoạt động đem lại nguồn thu chủ yếu của ngân hàng thương mại và là khoản mục chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng tài sản của ngân hàng. Đây là một mặt của hoạt động tín dụng ngân hàng, thông qua hoạt động cho vay ngân hàng thực hiện điều hòa vốn trong nền kinh tế dưới hình thức phân phối nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi huy động được từ trong xã hội để phục vụ nhu cầu về vốn phục vụ sản xuất kinh doanh và đời sống.
Có nhiều cách khái niệm về cho vay khác nhau. Theo khoản 1 điều 3 QĐ 1627/2001/QĐ – NHNN về quy chế cho vay của tổ chức tín dụng với khách hàng thì: “Cho vay là một hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng giao cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc hoàn trả cả gốc và lãi”.
Như vậy bản chất của cho vay là một giao dịch bằng tiền hoặc tài sản trên cơ sở có hoàn trả mà thực chất là sự vay mượn dựa trên cơ sở tin tưởng, tín nhiệm lẫn nhau. Trong đó sự hoàn trả là đặc trưng thuộc về bản chất của cho vay, là nguyên tắc để phân biệt phạm trù cho vay với cấp phát của NSNN.
1.1.2.Các loại hình cho vay
Trong xu thế hội nhập, các ngân hàng đang đứng trước một cuộc cạnh tranh khốc liệt không những với các ngân hàng trong nước mà còn cả với các ngân hàng nước ngoài. Do đó để tồn tại và phát triển, buộc các ngân hàng không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ cũng như không ngừng đa dạng hóa sản phẩm. Điều đó được thể hiện rất rõ trong sự đa dạng và phong phú của hoạt động cho vay. Tùy thuộc vào đặc điểm và nhu cầu riêng của từng khách hàng mà ngân hàng sẽ áp dụng hình thức vay phù. Có nhiều tiêu thức để phân loại hoạt động cho vay, tuy nhiên trên thực tế người ta thường phân loại theo một số tiêu thức sau:
Căn cứ vào thời hạn cho vay gồm:
- Cho vay ngắn hạn: thời hạn cho vay dưới 12 tháng và được sử dụng để bù đắp thiếu hụt vốn lưu động của các doanh nghiệp và các nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của cá nhân
- Cho vay trung hạn: Theo quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, cho vay trung hạn có thời hạn từ 1 đến 3 năm, còn đối với các nước trên thế giới loại cho vay này có thời hạn từ 1 đến 7 năm. Cho vay trung hạn chủ yếu được sử dụng để đầu tư mua sắm TSCĐ, cải tiến hoặc đổi mới thiết bị, công nghệ….
- Cho vay dài hạn: thời hạn vay trên 3 năm (Việt Nam), trên 7 năm (đối với các nước trên thế giới). Cho vay dài hạn được cung cấp để đáp ứng các nhu cầu dài hạn như xây dựng nhà ở, các thiết bị, phương tiện vận tải có quy mô lớn, các xí nghiệp mới…
Căn cứ phương thức cho vay, hoạt động cho vay bao gồm:
- Thấu chi: là nghiệp vụ cho vay qua đó ngân hàng cho phép người vay được chi trội (vượt) trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất định, trong một khoảng thời gian xác định và giới hạn đó được gọi là hạn mức thấu chi.
- Cho vay theo món: là hình thức cho vay được áp dụng đối với khách hàng có quan hệ không thường xuyên, có nguồn thu không ổn định, không có điều kiện để cấp hạn mức thấu chi. Đây là hình thức áp dụng đối với cho vay vốn lưu động của khách hàng, cho vay bù đắp thiếu hụt tài chính tạm thời, cho vay bắc cầu, cho vay hỗ trợ triển khai các đề tài nghiên cứu khoa học, công nghệ; cho vay tiêu dùng trong dân cư…với thời gian cho vay dưới 12 tháng.
- Cho vay theo hạn mức: Đây là hình thức cho vay theo đó ngân hàng thỏa thuận cấp cho khách hàng hạn mức tín dụng. Hạn mức tín dụng có thể tính cho cả kỳ hoặc cuối kỳ. Đó là số dư tối đa tại thời điểm tính. Đây là hình thức áp dụng đối với các doanh nghiệp có sản xuất kinh doanh ổn định, có hiệu quả trong sản xuất kinh doanh và trong sử dụng vốn; có quan hệ tín dụng thường xuyên với ngân hàng.
- Cho vay luân chuyển: là hình thức cho vay dựa trên luân chuyển của hàng hóa.
- Cho vay trả góp: là hình thức tín dụng, theo đó ngân hàng cho phép khách hàng trả gốc làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã thỏa thuận. Đây là hình thức được áp dụng đối với các khoản vay trung và dài hạn, tài trợ cho tài sản cố định hoặc lâu bền.
Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn vay bao gồm:
- Cho vay bất động sản: là hình thức cho vay liên quan đến việc mua sắm và xây dựng bất động sản nhà ở, đất đai, bất động sản trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại và dịch vụ.
- Cho vay công nghiệp và thương mại: là hình thức cho vay ngắn hạn để bổ sung vốn lưu động cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại và dịch vụ.
- Cho vay nông nghiệp: là hình thức cho vay để trang trải các chi phí sản xuất như phân bón, thuốc trừ sâu, giống cây trồng…
- Cho vay cá nhân: là hình thức cho vay để đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng
Căn cứ vào mức độ tín nhiệm đối với khách hàng bao gồm:
- Cho vay không đảm bảo: là loại cho vay không có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc sự bảo lãnh của người thứ ba, mà việc cho vay chỉ dựa vào uy tín của bản thân khách hàng.
- Cho vay có đảm bảo: là loại cho vay được ngân hàng cung ứng, phải có tài sản thế chấp, cầm cố, hoặc phải có sự bảo lãnh của người thứ ba.
Căn cứ vào xuất xứ tín dụng bao gồm:
- Cho vay trực tiếp: là hình thức cho vay theo đó ngân hàng cấp vốn trực tiếp cho người có nhu cầu, đồng thời người đi vay trực tiếp hoàn trả nợ vay cho ngân hàng.
- Cho vay gián tiếp: là khoản cho vay được thực hiện thông qua việc mua lại các khế ước hoặc chứng từ nợ đã phát sinh và còn trong thời hạn thanh toán.
Căn cứ theo rủi ro thì cho vay bao gồm 5 loại sau:
- Vốn vay lành mạnh: là khoản cho vay có khả năng thu hồi cao
- Vốn vay có vấn đề: Các khoản cho vay có dấu hiệu không lành mạnh như khách hàng chậm tiêu thụ, tiến độ thực hiện kế hoạch bị chậm, khách hàng gặp thiên tai, khách hàng trì hoãn nộp báo cáo…
- Nợ quá hạn có khả năng thu hồi: Các khoản nợ đã quá hạn với thời hạn ngắn và khách hàng có kế hoạch khắc phục tốt, tài sản đảm bảo có giá trị lớn…
- Nợ quá hạn khó đòi: Nợ quá hạn lâu, khả năng trả nợ rất kém, tài sản thế chấp nhỏ hoặc bị giảm giá, khách hàng chây ì…
- Nợ quá hạn không có khả năng thu hồi: là khoản nợ không có khả năng hoàn trả cho ngân hàng, không có tài sản thế chấp hoặc tài sản thế chấp, cầm cố không đủ thu hồi vốn và lãi cho ngân hàng.
Với cách phân loại này sẽ giúp ngân hàng thường xuyên đánh giá lại tính an toàn của các khoản cho vay, từ đó sẽ có biện pháp thu hồi và trích lập dự phòng thích hợp.
Như vậy phân loại cho vay giúp các ngân hàng thương mại quản lý và sử dụng vốn tín dụng hiệu quả. Song bên cạnh đó vẫn có rủi ro xảy ra vì rui ro là tiềm ẩn, là tất yếu, chỉ có thể hạn chế chứ không thể loại trừ.
1.2. Hoạt động bảo đảm tiền vay của ngân hàng thương mại
1.2.1. Khái niệm bảo đảm tiền vay
Hoạt động cho vay luôn luôn tiềm ẩn rủi ro, để đảm bảo an toàn hiệu quả trong hoạt động cho vay, tránh rủi ro đổ vỡ đối với từng ngân hàng và hệ thống các tổ chức tín dụng, pháp luật cho vay các nước đều có những quy định nhằm đảm bảo an toàn trong cho vay. Tại Việt Nam, theo nghị định của Chính phủ số 178/1999/NĐ – CP ngày 29/12/1999 về bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng thì" Bảo đảm tiền vay là việc tổ chức tín dụng áp dụng các biện pháp nhằm phòng ngừa rủi ro, tạo cơ sở kinh tế và pháp lý để thu hồi được các khoản nợ đã cho khách hàng vay"
Đứng trên góc độ của người vay, bảo đảm tiền vay có những đặc trưng cơ bản sau:
- Giá trị của bảo đảm phải lớn hơn nghĩa vụ được bảo đảm: bảo đảm tiền vay không chỉ là nguồn thu nợ của ngân hàng mà còn có ý nghĩa thúc dục người đi vay phải trả nợ, nếu không họ sẽ mất tài sản. Nhưng nếu giá trị của tài sản nhỏ hơn nghĩa vụ được bảo đảm thì người vay dễ có động cơ không trả nợ.
- Tài sản phải có sẵn thị trường tiêu thụ: mức độ thanh khoản của tài sản có quan hệ đến lợi ích của người cho vay. Mức độ thanh khoản thấp hay nói cách khác là tài sản khó bán thường khó được ngân hàng chấp nhận. Mức độ thanh khoản trung bình có thể chấp nhận được nhưng phải tính đến chi phí do kéo dài thời gian xử lý.
- Tài sản phải có đầy đủ cơ sở pháp lý để người cho vay có quyền ưu tiên về xử lý tài sản. Đặc trưng này thể hiện được các mặt sau: tài sản thuộc sở hữu hợp pháp của người đi vay hoặc người bảo lãnh và được pháp luật cho phép giao dịch, đồng thời phải có đủ cơ sở pháp lý để ngân hàng – chủ thể cho vay được quyền ưu tiên xử lý tài sản nhằm thu nợ khi người đi vay không thanh toán đúng hạn.
1.2.2. Sự cần thiết của hoạt động bảo đảm tiền vay đối với ngân hàng
NHTM là doanh nghiệp đặc biệt – kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ “vay để cho vay”. Do đó, nếu một khoản cho vay nào đó bị thất thoát (không thu hồi được) thì trước tiên làm cho tổ chức tín dụng rơi vào tình trạng không có khả năng thanh toán cho người gửi tiền. Nếu mức độ lớn có thể dẫn đến sự sụp đổ của ngân hàng. Bởi vậy, bảo đảm tiền vay chính là biện pháp hữu hiệu để giảm thiểu những rủi ro trong hoạt động tín dụng. Bảo đảm tiền vay giúp ngân hàng có đủ cơ sở pháp lý để có nguồn thu nợ thứ hai ngoài nguồn thu nợ thứ nhất. Như ta đã biết, khi cho vay, ngân hàng đã xác định nguồn thu nợ thứ nhất của mình là doanh thu thực tế đối với cho vay ngắn hạn, từ khấu hao và lợi nhuận đối với cho vay trung và dài hạn; là thu nhập cá nhân như tiền lương, các khoản thu nhập tài chính (lãi tiền gửi, cổ tức, trái tức…) và các khoản thu nhập khác trong cho vay tiêu dùng. Các nguồn thu nợ thứ nhất này thể hiện dưới hình thức lưu chuyển tiền tệ. Tuy nhiên, trong hoạt động kinh doanh có hàng ngàn lý do dẫn đến nguồn thu nợ thứ nhất không thực hiện được, nếu không có một nguồn bổ sung tất yếu ngân hàng sẽ gặp rủi ro. Do đó, bảo đảm tiền vay là một yêu cầu tất yếu, khách quan để bảo vệ lợi ích của mình.
Mặt khác, đảm bảo tiền vay sẽ hướng cho khách hàng phải sử dụng vốn vay có hiệu quả để có khả năng trả nợ cho ngân hàng và nhận lại tài sản. Khách hàng chỉ có thể nhận lại tài sản bảo đảm và các giấy tờ có liên quan khi đã trả hết nợ gốc và lãi cho khách hàng. Như vậy với việc áp dụng bảo đảm tiền vay, khách hàng sẽ có trách nhiệm hơn trong quản lý và sử dụng vốn vay, điều đó cũng có nghĩa là hiệu quả của vốn vay cũng được bảo đảm, khả năng hoàn trả của khách hàng cao hơn, cùng với đó vốn vay sẽ thực sự đem lại lợi ích cho chủ thể vay vốn.
Hơn nữa, hoạt động của hệ thống NHTM trong nền kinh tế mang tầm quan trọng ví như hệ thống huyết mạch của cơ thể. Do đó, một nền kinh tế phát triển khi và chỉ khi có một thị trường tài chính nói chung và một hệ thống NHTM hoạt động vững mạnh. Song một thực tế hiển nhiên là rủi ro luôn luôn tồn tại song hành và thường trực trong hoạt động kinh doanh của NHTM. Ta biết rằng, nếu có sự thất thoát trong hoạt động tín dụng nào đó, dù chỉ ở một ngân hàng và chỉ ở một mức nào đó cũng sẽ đe doạ đến tính an toàn và ổn định của toàn hệ thống. Vì vậy bảo đảm tiền vay có vai trò vô cùng quan trọng, nếu được thực hiện tốt không những hạn chế được nợ quá hạn, nợ khó đòi, giảm rủi ro tổn thất… từ đó sẽ tạo ra môi trường kinh doanh tiền tệ ổn định, phát triển lành mạnh trên cơ sở có sự ràng buộc trách nhiệm và chia sẻ rủi ro của các bên. Ngược lại, một môi trường kinh doanh tiền tệ ổn định sẽ là tiền đề để cho ngân hàng thương mại phát triển an toàn.
Như vậy, bảo đảm tiền vay là tất yếu, là khách quan, là một trong những điều kiện để một ngân hàng có thể tồn tại và phát triển.
1.2.3. Các hình thức bảo đảm tiền vay
Khách hàng đến với ngân hàng ngày càng đa dạng với nhu cầu ngày càng cao, do đó để phục vụ tốt hơn các ngân hàng cần sử dụng linh hoạt các hình thức bảo đảm tiền vay. Mặt khác, mức độ rủi ro của mỗi khoản vay là khác nhau phụ thuộc vào các yếu tố như: thời gian, mục đích sử dụng vốn vay, tư cách của chủ thể vay vốn,… nên đối với mỗi khoản vay, ngân hàng sẽ đưa ra biện pháp bảo đảm tiền vay thích hợp. Tùy vào từng trường hợp cụ thể mà ngân hàng thực hiện bảo đảm tiền vay theo một trong các hình thức dưới đây:
1.2.3.1. Bảo đảm tiền vay bằng tài sản
Theo khoản 2 điều 2 nghị định 178/1999/NĐ – CP thì: "Cho vay có bảo đảm bằng tài sản là việc cho vay vốn của tổ chức tín dụng mà theo đó nghĩa vụ trả nợ của khách hàng vay được cam kết bảo đảm thực hiện bằng tài sản cầm cố, thế chấp, tài sản hình thành từ vốn vay của khách hàng vay hoặc bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba".
Thế chấp tài sản
Theo quy định tại điều 342 Bộ luật dân sự 2005 thì "thế chấp tài sản là việc một bên dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự đối với bên kia và không chuyển giao tài sản đó cho bên nhận thế chấp. Tài sản thế chấp do bên thế chấp giữ. Các bên cũng có thể thoả thuận giao cho người thứ ba giữ tài sản thế chấp".
Các hình thức thế chấp
Theo quy định của luật dân sự và luật đất đai có hai loại tài sản thế chấp: Bất động sản và giá trị quyền sử dụng đất. Ngoài ra, tàu biển và máy bay cũng được dùng làm tài sản thế chấp.
- Bất động sản theo quy định của Bộ luật dân sự 2005 “ là các tài sản gồm: đất đai; nhà, công trình xây dựng gắn liền với đất đai, kể cả các tài sản gắn liền với nhà, công trình xây dựng đó; các tài sản khác gắn liền với đất đai; các tài sản khác do pháp luật quy định”. Ngoài ra còn bao gồm cả hoa lợi, lợi tức, khoản tiền bảo hiểm và các quyền phát sinh từ bất động sản thế chấp. Tất cả bất động sản thuộc quyền sở hữu hợp pháp của doanh nghiệp và cá nhân đều được thế chấp để vay vốn. Riêng đối với doanh nghiệp Nhà nước khi thế chấp toàn bộ dây chuyền công nghệ chính phải được cơ quan quyết định thành lập doanh nghiệp đồng ý bằng văn bản.
- Giá trị quyền sử dụng đất: Theo quy định của pháp luật Việt Nam, đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý. Nhà nước thực hiện việc giao đất hoặc cho thuê đất đối với cá nhân, hộ gia đình, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang nhân dân, cơ quan Nhà nước, tổ chức chính trị, xã hội sử dụng ổn định lâu dài. Trong các chủ thể được giao đất và cho thuê nói trên, chỉ có cá nhân, hộ gia đình và tổ chức kinh tế mới được thế chấp vay vốn ngân hàng. Tuy nhiên cần phân biệt trường hợp được phép thế chấp giá trị quyền sử dụng đất với trường hợp không được phép thế chấp giá trị quyền sử dụng đất. Những trường hợp được phép thế chấp giá trị quyền sử dụng đất, đương nhiên được phép thế chấp tài sản sở hữu gắn liền với đất. Còn những trường hợp như đất do nhà nước giao cho tổ chức kinh tế không thu tiền, đất thuê trả tiền hàng năm thì chỉ được phép thế chấp tài sản sở hữu gắn liền với quyền sử dụng đất, không được thế chấp giá trị quyền sử dụng đất.
Hoa lợi, lợi tức và các quyền phát sinh từ tài sản thế chấp cũng thuộc tài sản thế chấp, nếu các bên có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định; trường hợp tài sản thế chấp được bảo hiểm thì khoản tiền bảo hiểm cũng thuộc tài sản thế chấp.
Phân loại thế chấp:Có nhiều cách phân loại thế chấp như sau:
Căn cứ vào số lần thế chấp thì thế chấp bao gồm thế chấp thứ nhất và thế chấp thứ hai:
- Thế chấp thứ nhất: là việc thế chấp tài sản để bảo đảm cho món nợ thứ nhất. Cần lưu ý rằng thế chấp thứ nhất không có nghĩa là lần đầu tiên đem tài sản đi thế chấp cho một khoản vay, mà thế chấp thứ nhất được xác định trong mối tương quan giữa các khoản vay có thế chấp, tức là việc sử dụng một tài sản làm bảo đảm cho nhiều khoản vay và thế chấp cho khoản vay đầu tiên đang tồn tại gọi là thế chấp thứ nhất.
Thế chấp thứ nhất có hai trường hợp: Thế chấp cho một bên cho vay và thế chấp cho nhiều bên cho vay dưới hình thức hợp vốn (đồng tài trợ). Trong trường hợp thế chấp cho nhiều khoản vay hợp vốn, việc quản lý tài sản và giấy tờ của tài sản bảo đảm do một ngân hàng đại diện thực hiện.
- Thế chấp thứ hai: Là hình thức thế chấp, trong đó người đi vay sử dụng phần giá trị tài sản thế chấp và khoản nợ thứ nhất được bảo đảm bằng tài sản đó để bảo đảm cho khoản nợ thứ hai.
Trong thế chấp để thực hiện nhiều nghĩa vụ (thế chấp thứ nhất và thứ hai) có một số điểm lưu ý sau:
- Trong trường hợp phải xử lý tài sản thế chấp để thanh toán một khoản nợ đến hạn, thì các khoản nợ khác chưa đến hạn, cũng được coi là đến hạn.
Thứ tự ưu tiên thanh toán được xác định theo thứ tự đăng ký thế chấp.
Theo quy định hiện hành thế chấp thứ nhất và thế chấp thứ hai chỉ được thực hiện tại một tổ chức tín dụng.
"Bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba (gọi là bên bảo lãnh) là việc bên bảo lãnh cam kết với tổ chức tín dụng về việc sử dụng tài sản thuộc quyền sở hữu, giá trị quyền sử dụng đất của mình, đối với doanh nghiệp nhà nước là tài sản thuộc quyền quản lý, sử dụng để thực hiện nghĩa vụ trả nợ thay cho khách hàng vay, nếu đến hạn trả nợ mà khách hàng vay thực hiện không đúng nghĩa vụ trả.
Căn cứ vào tính chất pháp lý thì thế chấp gồm thế chấp pháp