1. Tính cấp thiết của đề tài
Sau gần 12 năm đàm phán, ngày 07 tháng 11 năm 2006 Việt Nam đã chính thức được kết nạp vào WTO và trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức này. Gia nhập WTO, Việt Nam đã thể hiện sự hội nhập một cách mạnh mẽ và toàn diện với thế giới thông qua những cam kết cụ thể cả trong lĩnh vực hàng hoá, dịch vụ, trợ cấp, đầu tư liên quan đến thương mại, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ. Trong đó, các cam kết về mở cửa thị trường dịch vụ phân phối của Việt Nam trong WTO được đánh giá là khá mạnh mẽ. Vì vậy, ngành phân phối bán lẻ của Việt Nam sẽ chịu nhiều tác động từ quá trình mở cửa thị trường trong khuôn khổ thực hiện các cam kết của WTO. Các tác động này đặc biệt phụ thuộc vào năng lực cạnh tranh của các nhà bán lẻ trong nước.
Các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam rất dễ bị tổn thương khi phải đương đầu với những áp lực cạnh tranh từ phía các nhà phân phối bán lẻ nước ngoài vì mức độ phát triển của ngành dịch vụ này ở Việt Nam còn khá thấp. Ở thời điểm hiện tại, một số tập đoàn bán lẻ nước ngoài đã có những bước đi đầu tiên khá vững chắc tại thị trường Việt Nam; một số khác đang chuẩn bị cho những kế hoạch lớn, dài hơi với mục tiêu chiếm lĩnh thị trường bán lẻ Việt Nam - như họ từng làm và từng thành công tại nhiều quốc gia khác. Sức ép đối với các nhà phân phối, bán lẻ trong nước là rất lớn. Đối mặt với các tập đoàn nước ngoài hùng mạnh trong điều kiện cơ sở hạ tầng yếu kém, Nhà nước chưa có những chính sách, quy hoạch rõ ràng cho thị trường bán lẻ, lại gặp rất nhiều khó khăn về vốn, nhân lực, hậu cần, kinh nghiệm các nhà bán lẻ trong nước đang đứng trước nguy cơ “thua trên sân nhà”. Nếu thua trên quy mô ngày càng rộng, hậu quả sẽ không chỉ dừng lại ở chỗ mất thị trường bán lẻ vào tay các tập đoàn nước ngoài, mà kéo theo nó là sự sụp đổ của các nhà sản xuất trong nước, và hoạt động nhập khẩu cũng bị chi phối. Đó sẽ không chỉ là nạn thất nghiệp của hàng vạn, thậm chí hàng chục vạn thương nhân, mà còn là tình trạng mất thị trường tiêu thụ của hàng triệu lao động cả ở nông thôn lẫn đô thị.
Vậy, Nhà nước và các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam phải đối mặt với nguy cơ đó như thế nào? Cần những giải pháp gì để nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam trong điều kiện chúng ta mở cửa thị trường?
Nhận thấy đây là một vấn đề rất cấp thiết trong tình hình hiện nay, người viết chọn nghiên cứu đề tài: “Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam trong hệ thống phân phối tại thị trường nội địa thời kỳ hậu WTO”.
2. Tình hình nghiên cứu
Cho tới nay ở Việt Nam chưa có một nghiên cứu đầy đủ, chuyên sâu nào về thị trường bán lẻ. Các vấn đề lý thuyết về bán lẻ chiếm vị trí khiêm tốn trong các tài liệu, nghiên cứu về hệ thống phân phối hàng hoá. Số liệu thống kê về thị trường bán lẻ chỉ được đề cập đến trong các báo cáo thường niên hay trong các thống kê về hoạt động thương mại nội địa của Bộ Thương mại, Bộ Kế hoạch - Đầu tư, Tổng cục Thống kê.
Cũng đã có một số nghiên cứu đề cập đến một vài khía cạnh của vấn đề, như: “Đánh giá một số tác động về kinh tế và xã hội của việc thực hiện các cam kết mở cửa thị trường dịch vụ phân phối của Việt Nam trong khuôn khổ WTO” của Bộ Thương Mại; “Quy hoạch phát triển ngành thương mại Việt Nam” do Viện Nghiên cứu Thương mại - Bộ Thương mại thực hiện, được điều chỉnh vào năm 2000-2001; “Những giải pháp phát triển mạng lưới siêu thị ở Việt Nam trong giai đoạn từ nay đến 2010” của TS. Nguyễn Thị Nhiễu; “Giải pháp phát triển cửa hàng tiện lợi vận doanh theo chuỗi ở Việt Nam đến năm 2010” của Th.S Lê Minh Châu; và một số đề tài nghiên cứu cấp Bộ do Bộ Thương mại chủ trì về mô hình tổ chức trung tâm thương mại, các giải pháp phát triển chợ, giải pháp phát triển kênh phân phối hàng hoá Trong khoảng thời gian 3 năm gần đây, có một số cuộc hội thảo về vấn đề phát triển hệ thống phân phối bán lẻ đã được tổ chức tại thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội.
Euromonitor International - công ty nghiên cứu thị trường nổi tiếng thế giới đã tiến hành một nghiên cứu khá chi tiết về thực trạng và xu hướng phát triển của thị trường bán lẻ Việt Nam và công bố vào năm 2004. Tuy nhiên, người viết chưa thể tiếp cận với nghiên cứu này, do chi phí quá cao.
3. Mục đích nghiên cứu
Khóa luận đưa ra những phân tích, đánh giá khái quát về các doanh nghiệp phân phối bán lẻ hoạt động trên thị trường Việt Nam và năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam trong mối tương quan với các tập đoàn phân phối nước ngoài trên thị trường nội địa; phân tích ảnh hưởng của việc nước ta thực hiện cam kết mở cửa thị trường trong khuôn khổ thực hiện các cam kết của WTO đến các doanh nghiệp này; qua đó đề xuất các giải pháp để nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được mục đích trên, khoá luận có nhiệm vụ:
- Làm rõ một số vấn đề lý luận về bán lẻ và các chỉ tiêu để đánh giá năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp bán lẻ.
- Tìm hiểu một số quy định về siêu thị, trung tâm thương mại và một số quy định trong Luật Cạnh tranh.
- Phân tích, đánh giá năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam trong mối tương quan với các nhà phân phối nước ngoài trên thị trường nội địa.
- Phân tích cơ hội và thách thức của các doanh nghiệp bán lẻ khi Việt Nam thực hiện các cam kết của WTO, những xu hướng tác động đến các doanh nghiệp bán lẻ trong thời gian tới.
- Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp phân phối bán lẻ của Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu: Khóa luận tập trung phân tích đánh giá hoạt động của các doanh nghiệp phân phối bán lẻ Việt Nam và các tập đoàn phân phối nước ngoài qua hệ thống các siêu thị, trung tâm thương mại và các cửa hàng bán lẻ tự chọn.
Do hạn chế về tài liệu, thời gian, nên các phân tích thực trạng chỉ tập trung phân tích những nét tổng quan nhất của các doanh nghiệp bán lẻ tại Việt Nam trong giai đoạn 2000 – 2006; các dự báo, đề xuất được thực hiện cho giai đoạn từ nay đến năm 2010 và sau 2010.
Các chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp nói chung, doanh nghiệp phân phối bán lẻ nói riêng rất nhiều nhưng người viết chỉ xin nêu và phân tích một số chỉ tiêu tiêu biểu: tiềm lực tài chính; trình độ lao động, trang thiết bị, công nghệ; trình độ quản lý và tổ chức kinh doanh, am hiểu tập quán mua bán, thói quen của khách hàng; năng lực R&D, khả năng bao quát thị trường; giá cả và chủng loại hàng hóa cung ứng; truyền tin và xúc tiến; danh tiếng.
Các giải pháp đề xuất chủ yếu nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của hệ thống siêu thị, trung tâm thương mại, cửa hàng bán lẻ tự chọn của các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam.
6. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu mà người viết sử dụng trong quá trình thực hiện khoá luận là: đánh giá, nghiên cứu tài liệu, phân tích, đánh giá, so sánh, lý luận logic.
7. Kết cấu khoá luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung khóa luận được chia làm 3 chương:
Chương 1: Bán lẻ, các chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp bán lẻ và một số quy định pháp luật liên quan.
Chương 2: Thực trạng năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam tại thị trường nội địa thời kỳ hậu WTO.
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam trên thị trường nội địa thời kỳ hậu WTO.
89 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2663 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam trong hệ thống phân phối tại thị trường nội địa thời kỳ hậu WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sau gần 12 năm đàm phán, ngày 07 tháng 11 năm 2006 Việt Nam đã chính thức được kết nạp vào WTO và trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức này. Gia nhập WTO, Việt Nam đã thể hiện sự hội nhập một cách mạnh mẽ và toàn diện với thế giới thông qua những cam kết cụ thể cả trong lĩnh vực hàng hoá, dịch vụ, trợ cấp, đầu tư liên quan đến thương mại, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ... Trong đó, các cam kết về mở cửa thị trường dịch vụ phân phối của Việt Nam trong WTO được đánh giá là khá mạnh mẽ. Vì vậy, ngành phân phối bán lẻ của Việt Nam sẽ chịu nhiều tác động từ quá trình mở cửa thị trường trong khuôn khổ thực hiện các cam kết của WTO. Các tác động này đặc biệt phụ thuộc vào năng lực cạnh tranh của các nhà bán lẻ trong nước.
Các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam rất dễ bị tổn thương khi phải đương đầu với những áp lực cạnh tranh từ phía các nhà phân phối bán lẻ nước ngoài vì mức độ phát triển của ngành dịch vụ này ở Việt Nam còn khá thấp. Ở thời điểm hiện tại, một số tập đoàn bán lẻ nước ngoài đã có những bước đi đầu tiên khá vững chắc tại thị trường Việt Nam; một số khác đang chuẩn bị cho những kế hoạch lớn, dài hơi với mục tiêu chiếm lĩnh thị trường bán lẻ Việt Nam - như họ từng làm và từng thành công tại nhiều quốc gia khác. Sức ép đối với các nhà phân phối, bán lẻ trong nước là rất lớn. Đối mặt với các tập đoàn nước ngoài hùng mạnh trong điều kiện cơ sở hạ tầng yếu kém, Nhà nước chưa có những chính sách, quy hoạch rõ ràng cho thị trường bán lẻ, lại gặp rất nhiều khó khăn về vốn, nhân lực, hậu cần, kinh nghiệm…các nhà bán lẻ trong nước đang đứng trước nguy cơ “thua trên sân nhà”. Nếu thua trên quy mô ngày càng rộng, hậu quả sẽ không chỉ dừng lại ở chỗ mất thị trường bán lẻ vào tay các tập đoàn nước ngoài, mà kéo theo nó là sự sụp đổ của các nhà sản xuất trong nước, và hoạt động nhập khẩu cũng bị chi phối. Đó sẽ không chỉ là nạn thất nghiệp của hàng vạn, thậm chí hàng chục vạn thương nhân, mà còn là tình trạng mất thị trường tiêu thụ của hàng triệu lao động cả ở nông thôn lẫn đô thị.
Vậy, Nhà nước và các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam phải đối mặt với nguy cơ đó như thế nào? Cần những giải pháp gì để nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam trong điều kiện chúng ta mở cửa thị trường?
Nhận thấy đây là một vấn đề rất cấp thiết trong tình hình hiện nay, người viết chọn nghiên cứu đề tài: “Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam trong hệ thống phân phối tại thị trường nội địa thời kỳ hậu WTO”.
2. Tình hình nghiên cứu
Cho tới nay ở Việt Nam chưa có một nghiên cứu đầy đủ, chuyên sâu nào về thị trường bán lẻ. Các vấn đề lý thuyết về bán lẻ chiếm vị trí khiêm tốn trong các tài liệu, nghiên cứu về hệ thống phân phối hàng hoá. Số liệu thống kê về thị trường bán lẻ chỉ được đề cập đến trong các báo cáo thường niên hay trong các thống kê về hoạt động thương mại nội địa của Bộ Thương mại, Bộ Kế hoạch - Đầu tư, Tổng cục Thống kê.
Cũng đã có một số nghiên cứu đề cập đến một vài khía cạnh của vấn đề, như: “Đánh giá một số tác động về kinh tế và xã hội của việc thực hiện các cam kết mở cửa thị trường dịch vụ phân phối của Việt Nam trong khuôn khổ WTO” của Bộ Thương Mại; “Quy hoạch phát triển ngành thương mại Việt Nam” do Viện Nghiên cứu Thương mại - Bộ Thương mại thực hiện, được điều chỉnh vào năm 2000-2001; “Những giải pháp phát triển mạng lưới siêu thị ở Việt Nam trong giai đoạn từ nay đến 2010” của TS. Nguyễn Thị Nhiễu; “Giải pháp phát triển cửa hàng tiện lợi vận doanh theo chuỗi ở Việt Nam đến năm 2010” của Th.S Lê Minh Châu; và một số đề tài nghiên cứu cấp Bộ do Bộ Thương mại chủ trì về mô hình tổ chức trung tâm thương mại, các giải pháp phát triển chợ, giải pháp phát triển kênh phân phối hàng hoá…Trong khoảng thời gian 3 năm gần đây, có một số cuộc hội thảo về vấn đề phát triển hệ thống phân phối bán lẻ đã được tổ chức tại thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội.
Euromonitor International - công ty nghiên cứu thị trường nổi tiếng thế giới đã tiến hành một nghiên cứu khá chi tiết về thực trạng và xu hướng phát triển của thị trường bán lẻ Việt Nam và công bố vào năm 2004. Tuy nhiên, người viết chưa thể tiếp cận với nghiên cứu này, do chi phí quá cao.
3. Mục đích nghiên cứu
Khóa luận đưa ra những phân tích, đánh giá khái quát về các doanh nghiệp phân phối bán lẻ hoạt động trên thị trường Việt Nam và năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam trong mối tương quan với các tập đoàn phân phối nước ngoài trên thị trường nội địa; phân tích ảnh hưởng của việc nước ta thực hiện cam kết mở cửa thị trường trong khuôn khổ thực hiện các cam kết của WTO đến các doanh nghiệp này; qua đó đề xuất các giải pháp để nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được mục đích trên, khoá luận có nhiệm vụ:
Làm rõ một số vấn đề lý luận về bán lẻ và các chỉ tiêu để đánh giá năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp bán lẻ.
Tìm hiểu một số quy định về siêu thị, trung tâm thương mại và một số quy định trong Luật Cạnh tranh.
Phân tích, đánh giá năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam trong mối tương quan với các nhà phân phối nước ngoài trên thị trường nội địa.
Phân tích cơ hội và thách thức của các doanh nghiệp bán lẻ khi Việt Nam thực hiện các cam kết của WTO, những xu hướng tác động đến các doanh nghiệp bán lẻ trong thời gian tới.
Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp phân phối bán lẻ của Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu: Khóa luận tập trung phân tích đánh giá hoạt động của các doanh nghiệp phân phối bán lẻ Việt Nam và các tập đoàn phân phối nước ngoài qua hệ thống các siêu thị, trung tâm thương mại và các cửa hàng bán lẻ tự chọn.
Do hạn chế về tài liệu, thời gian, nên các phân tích thực trạng chỉ tập trung phân tích những nét tổng quan nhất của các doanh nghiệp bán lẻ tại Việt Nam trong giai đoạn 2000 – 2006; các dự báo, đề xuất được thực hiện cho giai đoạn từ nay đến năm 2010 và sau 2010.
Các chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp nói chung, doanh nghiệp phân phối bán lẻ nói riêng rất nhiều nhưng người viết chỉ xin nêu và phân tích một số chỉ tiêu tiêu biểu: tiềm lực tài chính; trình độ lao động, trang thiết bị, công nghệ; trình độ quản lý và tổ chức kinh doanh, am hiểu tập quán mua bán, thói quen của khách hàng; năng lực R&D, khả năng bao quát thị trường; giá cả và chủng loại hàng hóa cung ứng; truyền tin và xúc tiến; danh tiếng.
Các giải pháp đề xuất chủ yếu nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của hệ thống siêu thị, trung tâm thương mại, cửa hàng bán lẻ tự chọn của các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam.
6. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu mà người viết sử dụng trong quá trình thực hiện khoá luận là: đánh giá, nghiên cứu tài liệu, phân tích, đánh giá, so sánh, lý luận logic.
7. Kết cấu khoá luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung khóa luận được chia làm 3 chương:
Chương 1: Bán lẻ, các chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp bán lẻ và một số quy định pháp luật liên quan.
Chương 2: Thực trạng năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam tại thị trường nội địa thời kỳ hậu WTO.
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam trên thị trường nội địa thời kỳ hậu WTO.
Chương 1 – BÁN LẺ, CÁC CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA CÁC DOANH NGHIỆP BÁN LẺ VÀ MỘT SỐ QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT LIÊN QUAN
1.1. Một số vấn đề về bán lẻ
1.1.1. Định nghĩa bán lẻ
Có nhiều định nghĩa khác nhau về bán lẻ, trong đó có 2 định nghĩa được thừa nhận và sử dụng khá rộng rãi, đó là định nghĩa bán lẻ của Philip Kotler và định nghĩa của Từ điển bách khoa toàn thư mở Wikipedia.
Trong “Marketing Essentials” - Philip Kotler đã định nghĩa bán lẻ như sau:
Bán lẻ là mọi hoạt động nhằm bán hàng hoá hay dịch vụ trực tiếp cho người tiêu dùng cuối cùng để họ sử dụng cho cá nhân, không mang tính thương mại [12, tr. 290] .
Bất kỳ một tổ chức nào làm công việc này cũng là một tổ chức bán lẻ, bất kể hàng hoá hay dịch vụ đó được bán như thế nào (bán trực tiếp, qua bưu điện, qua điện thoại hay qua máy bán hàng tự động) và ở đâu (trong cửa hàng, trong chợ, trên đường phố hay tại nhà người tiêu dùng).
Còn Từ điển bách khoa toàn thư mở Wikipedia đưa ra định nghĩa:
Bán lẻ bao gồm việc bán hàng hoá cho cá nhân hoặc hộ gia đình để họ tiêu dùng, tại một địa điểm cố định, hoặc không tại một địa điểm cố định mà qua các dịch vụ liên quan [16].
Trong thương mại, nhà bán lẻ mua hàng hoá với số lượng lớn từ nhà sản xuất hoặc nhà nhập khẩu, trực tiếp hoặc qua nhà bán buôn, sau đó bán lại từng mặt hàng hoặc lượng nhỏ hàng hoá tới công chúng hoặc người tiêu dùng cuối cùng.
1.1.2. Vị trí của bán lẻ
1.1.2.1. Vị trí của dịch vụ bán lẻ trong ngành dịch vụ phân phối
Theo phân ngành dịch vụ của WTO, dịch vụ bán lẻ là một trong 5 tiểu ngành của dịch vụ phân phối bao gồm: 1) Dịch vụ đại lý hoa hồng; 2) Dịch vụ bán buôn; 3) Dịch vụ bán lẻ; 4) Cấp phép; 5) Các dịch vụ khác.
Tuy nhiên, theo tài liệu mã số MTN.GNS/W/120 được xây dựng trong vòng Urugoay dựa trên Phân loại danh mục sản phẩm trung tâm tạm thời của Liên Hiệp Quốc (CPC) và được hầu hết các thành viên WTO sử dụng làm cơ sở cho việc xây dựng lộ trình cam kết, thì bán lẻ là một trong bốn nhóm dịch vụ chính của dịch vụ phân phối, bao gồm: dịch vụ đại lý ủy quyền, dịch vụ bán buôn, dịch vụ bán lẻ, nhượng quyền [16].
1.1.2.2. Vị trí của nhà bán lẻ trong kênh phân phối
Các nhà sản xuất thường cung cấp hàng hoá của mình cho thị trường thông qua các kênh phân phối. Và các nhà bán lẻ nằm ở vị trí cuối cùng trong kênh phân phối đó. Họ nhận hàng hoá từ nhà sản xuất, nhà nhập khẩu hoặc nhà bán buôn, và bán trực tiếp cho người tiêu dùng cuối cùng.
Sơ đồ 1.1 đơn giản sau đây cho thấy vị trí của nhà bán lẻ trong kênh phân phối:
Sơ đồ 1.1: Vị trí của nhà bán lẻ trong kênh phân phối [12, tr.314]
1.1.3. Chức năng của nhà bán lẻ
Bán lẻ là một khâu trong quá trình phân phối, vì thế, nhà bán lẻ cũng đảm nhiệm đầy đủ các chức năng của một thành viên trong kênh phân phối, bao gồm:
Thứ nhất, nghiên cứu, thu thập thông tin cần thiết để lập kế hoạch và tạo thuận lợi cho việc trao đổi.
Như chúng ta đã thấy trong sơ đồ trên, vị trí của nhà bán lẻ là vị trí cuối cùng trong kênh phân phối, tức tiếp xúc trực tiếp với người tiêu dùng. Vì thế, người bán lẻ có nhiều thuận lợi trong việc thu thập những thông tin cần thiết về nhu cầu, về thị hiếu khách hàng…Những thông tin này giúp nhà bán lẻ thoả mãn yêu cầu của người tiêu dùng tốt hơn. Thêm vào đó, nhà bán lẻ còn có thể phản ảnh những thông tin này trở lại nhà sản xuất, giúp nhà sản xuất cải tiến hàng hoá của mình hoặc sản xuất ra những sản phẩm mới đáp ứng nhu cầu khách hàng.
Thứ hai, kích thích tiêu thụ, soạn thảo và truyền bá những thông tin về hàng hoá.
Các nhà bán lẻ là một kênh vô cùng quan trọng trong việc kích thích tiêu thụ và truyền bá những thông tin về hàng hoá từ nhà sản xuất, cũng bởi đặc thù trong hoạt động của họ: tiếp xúc trực tiếp và hiểu được nhu cầu của người tiêu dùng. Về kích thích tiêu thụ hàng hoá, các nhà bán lẻ có thể tiếp tục những biện pháp kích thích tiêu thụ của nhà sản xuất, hoặc có thể có phương cách kích thích tiêu thụ của riêng mình.
Thứ ba, thiết lập các mối liên hệ, tạo dựng và duy trì mối liên hệ với những người mua tiềm ẩn.
Do là người trực tiếp bán hàng đến tay người tiêu dùng, thực hiện các giao dịch với người tiêu dùng nên nhà bán lẻ chính là người trực tiếp thực hiện công việc tạo dựng và duy trì mối liên hệ với người tiêu dùng nói chung và với những khách hàng tiềm năng mà nhà sản xuất nhắm tới nói riêng. Trong quá trình bán hàng, nhà bán lẻ tư vấn về sản phẩm, giới thiệu sản phẩm với khách hàng, đó chính là cách tạo dựng và duy trì mối quan hệ rất tốt với khách hàng tiềm năng. Do mối quan hệ tốt với khách hàng, những lời giới thiệu về sản phẩm của nhà phân phối thường được khách hàng dễ tin tưởng và chấp nhận hơn là các quảng cáo thông thường.
Thứ tư, hoàn thiện hàng hoá, làm cho hàng hoá đáp ứng được những yêu cầu của người mua.
Nhà bán lẻ có thể nhận hàng hoá đã hoàn thiện từ nhà sản xuất hay nhà bán buôn, nhưng với nhiều mặt hàng, nhà bán lẻ cũng đảm nhiệm vai trò phân loại, sắp xếp, sơ chế, đóng gói…để đưa sản phẩm tới tay người tiêu dùng. Do tiếp xúc thường xuyên với khách hàng, hơn ai hết nhà bán lẻ hiểu được nhu cầu, thị hiếu của khách hàng để thực hiện công việc này một cách tốt nhất, cung cấp sản phẩm đến tay khách hàng trong điều kiện tốt nhất và dưới hình thức phù hợp nhất.
Thứ năm, tiến hành thương lượng, thoả thuận với nhà sản xuất, nhà nhập khẩu hay nhà bán buôn về giá cả và các điều kiện khác để thực hiện bước tiếp theo là chuyển giao quyền sở hữu và quyền sử dụng cho người tiêu dùng cuối cùng.
Đây là bước tất yếu mà nhà bán lẻ phải thực hiện trong quá trình kinh doanh. Trước hết, nhà bán lẻ phải tiến hành thương lượng với nhà sản xuất, nhà nhập khẩu hoặc nhà bán buôn về các điều kiện giá cả, giao hàng, thanh toán….Chỉ khi hai bên đã đạt được các thỏa thuận thì nhà bán lẻ mới được cung cấp sản phẩm để tiến hành kinh doanh. Sau khi có sản phẩm, nhà bán lẻ thực hiện bước tiếp theo là đưa hàng hóa đến tay người tiêu dùng.
Thứ sáu, tổ chức lưu thông hàng hoá, vận chuyển và bảo quản, dự trữ hàng hoá.
Nhà bán lẻ sau khi thỏa thuận mua bán với nhà sản xuất, nhà nhập khẩu hoặc nhà bán buôn sẽ tiến hành vận chuyển hàng hóa về đến kho hoặc địa điểm kinh doanh của mình. Đồng thời, nhà bán lẻ thực hiện bảo quản hàng hóa để đảm bảo chất lượng hàng hóa còn tốt đến tận tay người tiêu dùng. Nhà bán lẻ cũng thực hiện việc dự trữ hàng hóa một cách hợp lý để phục vụ công việc kinh doanh của mình.
Thứ bảy, đảm bảo kinh phí, tìm kiếm và sử dụng nguồn vốn để bù đắp các chi phí hoạt động của kênh phân phối (nói chung).
Để thực hiện các chức năng như đã đề cập ở trên, nhà bán lẻ phải huy động các nguồn vốn để tiến hành các hoạt động tương ứng. Nhà bán lẻ phải đảm nhiệm các chi phí cho lưu thông, vận chuyển, bảo quản, dự trữ, sắp xếp, đóng gói…. để đưa hàng hóa đến tay người tiêu dùng. Như vậy, nhà bán lẻ đã dùng nguồn vốn của mình và nguồn vốn huy động được để trang trải các chi phí trong quá trình phân phối hàng hóa.
Thứ tám, chấp nhận rủi ro và gánh chịu trách nhiệm về hoạt động của kênh.
Là một thành viên của kênh phân phối, nhà bán lẻ chủ động tiến hành các hoạt động kinh doanh của mình. Sử dụng nguồn vốn của mình và tự chịu trách nhiệm về hoạt động kinh doanh, nhà bán lẻ đương nhiên phải gánh chịu các rủi ro trong quá trình phân phối hàng hóa. Khi tiếp nhận quyền sở hữu hàng hoá và chịu các chi phí do hàng hoá bị hư hỏng, lỗi thời hay bị mất cắp, nhà bán lẻ đã gánh chịu một phần rủi ro.
1.2. Khái niệm và một số chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp bán lẻ
1.2.1. Khái niệm về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Phần lớn các tác giả đều gắn năng lực cạnh tranh doanh nghiệp với ưu thế của sản phẩm mà doanh nghiệp đưa ra thị trường hoặc gắn năng lực cạnh tranh với vị trí của doanh nghiệp trên thị trường theo thị phần mà nó chiếm giữ thông qua khả năng tổ chức, quản trị kinh doanh hướng vào đổi mới công nghệ, giảm chi phí nhằm duy trì hay gia tăng lợi nhuận, đảm bảo sự tồn tại, phát triển bền vững của doanh nghiệp.
Trước tiên, trong lý thuyết tổ chức công nghiệp, khái niệm năng lực cạnh tranh được áp dụng ở phạm vi xí nghiệp. Một xí nghiệp được xem là có năng lực cạnh tranh khi xí nghiệp đó duy trì được vị thế của mình trên thị trường so với các nhà sản xuất khác, các sản phẩm thay thế, hoặc đưa ra thị trường các sản phẩm tương tự với mức giá thấp hơn, hoặc cung cấp các sản phẩm tương tự với các đặc tính về chất lượng hay dịch vụ ngang bằng hoặc cao hơn [1].
Theo Fafchamps, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng doanh nghiệp đó có thể sản xuất sản phẩm với chi phí biến đổi trung bình thấp hơn giá của nó trên thị trường, có nghĩa là doanh nghiệp nào có chất lượng tương tự như sản phẩm của doanh nghiệp khác, nhưng với chi phí thấp hơn thì được coi là có khả năng cạnh tranh cao [19].
Randall lại cho rằng, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng giành được và duy trì thị phần trên thị trường với lợi nhuận nhất định.
Dunning lập luận rằng, năng lực cạnh tranh của một công ty trong một lĩnh vực được xác định bằng những thế mạnh mà công ty có hoặc huy động được để có thể cạnh tranh thắng lợi [19].
Markusen (1992) đã đưa ra một khái niệm “một nhà sản xuất là cạnh tranh nếu như nó có một mức chi phí đơn vị trung bình bằng hoặc thấp hơn chi phí đơn vị của các nhà cạnh tranh quốc tế” [9].
Một quan niệm khác cho rằng, “năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp được hiểu là tích hợp các khả năng và nguồn nội lực để duy trì và phát triển thị phần, lợi nhuận và định vị những ưu thế cạnh tranh của doanh nghiệp đó trong mối quan hệ với đối thủ cạnh tranh trực tiếp và tiềm tàng trên một thị trường mục tiêu xác định” [11].
Như vậy, trên thực tế đang tồn tại nhiều quan niệm cụ thể, khác nhau về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Song tựu chung lại, khi tiếp cận năng lực cạnh tranh doanh nghiệp, cần chú ý 4 vấn đề cơ bản sau:
Một là, trong điều kiện kinh tế thị trường, phải lấy yêu cầu của khách hàng là chuẩn mực đánh giá sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Bởi lẽ, yêu cầu của khách hàng vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sản xuất, kinh doanh. Cùng một loại sản phẩm các nhóm khách hàng khác nhau có những nhu cầu rất khác nhau.
Hai là, yếu tố cơ bản tạo nên sức mạnh trong việc lôi kéo khách hàng phải là thực lực của doanh nghiệp. Thực lực này chủ yếu được tạo thành từ những yếu tố nội tại của doanh nghiệp và được thể hiện ở uy tín của doanh nghiệp.
Ba là, khi nói tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp luôn hàm ý so sánh với doanh nghiệp hữu quan (các đối thủ cạnh tranh) cùng hoạt động trên thị trường. Muốn tạo nên năng lực cạnh tranh thực thụ, thực lực của doanh nghiệp phải tạo nên lợi thế so sánh với các đối thủ cạnh tranh. Chính nhờ lợi thế này, doanh nghiệp có thể giữ được khách hàng của mình và lôi kéo khách hàng của các đối thủ cạnh tranh.
Bốn là, các biểu hiện năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp có quan hệ ràng buộc nhau. Một doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh mạnh khi nó có khả năng thỏa mãn đầy đủ nhất tất cả những yêu cầu của khách hàng. Song khó có doanh nghiệp nào có được yêu cầu này, thường thì có lợi thế về mặt này, lại có thế yếu về mặt khác. Bởi vậy, việc đánh giá đúng đắn những mặt mạnh và mặt yếu của từng doanh nghiệp có ý nghĩa trọng yếu với việc tìm các giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh.
Do đó, có thể hiểu: Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp thể hiện thực lực và lợi thế của doanh nghiệp so với các đối thủ khác trong việc thỏa mãn tốt nhất các đòi hỏi của khách hàng để thu lợi ích ngày càng cao cho doanh nghiệp trong môi trường cạnh tranh trong nước và ngoài nước.
1.2.2. Một số chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Việc đánh giá năng lực cạnh tranh nếu chỉ dừng lại ở định tính, thì không tránh được các yếu tố cảm tính, bởi vậy, phải cố gắng lượng hóa. Tuy nhiên, khó có được một chỉ tiêu tổng hợp đo lường năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp bán lẻ. Do vậy, cần sử dụng hệ thống chỉ tiêu:
1.2.2.1. Tiềm lực tài chính
Tiềm lực tài chính của một doanh nghiệp có tầm quan trọng tối cao trong việc nâng cao vị thế cạnh tranh của doanh nghiệp bán lẻ. Khả năng nguồn tài chính mạnh cần được cân nhắc khi đánh giá năng lực cạnh tranh các tham số: lợi nhuận, dòng tiền mặt, tỷ lệ vốn vay, mức dự trữ và hiệu suất lợi tức cổ phần. Cụ thể, các hệ số thanh khoản (tỷ lệ thanh khoản có thể sử dụng, tỷ lệ vốn có thể sử dụng ngay), các hệ số hoạt động (chu chuyển tài sản, chu chuyển dự trữ, chu chuyển khoản nợ phải thu), các chỉ số sinh lợi (lợi nhuận cận biên, tỷ suất lợi nhuận trên vốn đầu tư), các tỷ số vốn vay (nợ trên tài sản