Doanh nghiệp là những tổ chức kinh tế độc lập, có tư cách pháp nhân hoạt động SXKD trên thị trường vì mục đích tối đa hoá lợi nhuận, tối đa hoá giá trị doanh nghiệp và không ngừng phát triển.
Sự ra đời và phát triển mạnh mẽ của SMES hiện nay có vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế-xã hội đất nước.Vì vậy việc đưa ra một khái niệm chuẩn xác về SMES có ý nghĩa rất quan trọng trong việc nghiên cứu, hỗ trợ, và phát triển SMES.
Theo điều 3 của NĐ 90/91/NĐCP ngày 23/11/01 về trợ giúp phát triển SMES thì “SMES là cơ sơ sản xuất kinh doanh độc lập đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành,có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người”.
Với định nghĩa trên thì SMES gồm các loại hình ,cơ sở sản xuất kinh doanh năm trong những tiêu thức và giới hạn tiêu chuẩn quy định sau:
- Các doanh nghiệp nhà nước đăng ký kinh doanh theo luật doanh nghiệp
-Các công ty cổ phần,công ty TNHH và doanh nghiệpTN đăng ký hoạt động theo luật doanh nghiệp.
-Các HTX đăng ký hoạt động theo luật HTX
-Các hộ kinh doanh cá thể đăng ký theo nghị định số 02/2000/NĐ-CP ngày 3/2/2000 của chính phủ về đăng ký kinh doanh.
Việc phân biệt SMES với các loại hình doanh nghiệp khác dựa vào hai tiêu chí: định tính và định lượng.
Tiêu chí định tính: dựa vào đặc trưng cơ bản của SMES như trình độ chuyên môn hoá lĩnh vực hoạt động, số đầu mối quản lý Tiêu thức định tính có ưu thế là phản ánh đúng bản chất của SMES nhưng trên thực tế khó xác định nên chỉ sử dụng làm cơ sở để tham khảo, kiểm chứng mà ít dùng làm cơ sở để phân loại.
Tiêu chí định lượng: đây là tiêu thức chủ yếu mà các nước đang sử dụng để phân loại SMES .Tiêu thức này thể hiện số lượng lao động, vốn, doanh thu, lợi nhuận của doanh nghiệp.Tiêu chí này phụ thuộc vào nhiều yếu tố như tốc độ phát triển kinh tế, tính chất ngành nghề, vùng lãnh thổ, tính chất lịch sử, mục đích phân loại.
74 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2181 | Lượt tải: 6
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Giải pháp nhằm phát triển cho vay SMES chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Quảng Trị, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chương 1:
Những vấn đề cơ bản về phát triển cho vay SMES tại NHNN-PTNT chi nhánh tỉnh Quảng Trị
1.1. Hoạt động cho vay SMES tại NHTM
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm,vai trò của SMES
1.1.1.1Khái niệm SMES
Doanh nghiệp là những tổ chức kinh tế độc lập, có tư cách pháp nhân hoạt động SXKD trên thị trường vì mục đích tối đa hoá lợi nhuận, tối đa hoá giá trị doanh nghiệp và không ngừng phát triển.
Sự ra đời và phát triển mạnh mẽ của SMES hiện nay có vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế-xã hội đất nước.Vì vậy việc đưa ra một khái niệm chuẩn xác về SMES có ý nghĩa rất quan trọng trong việc nghiên cứu, hỗ trợ, và phát triển SMES.
Theo điều 3 của NĐ 90/91/NĐCP ngày 23/11/01 về trợ giúp phát triển SMES thì “SMES là cơ sơ sản xuất kinh doanh độc lập đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành,có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người”.
Với định nghĩa trên thì SMES gồm các loại hình ,cơ sở sản xuất kinh doanh năm trong những tiêu thức và giới hạn tiêu chuẩn quy định sau:
- Các doanh nghiệp nhà nước đăng ký kinh doanh theo luật doanh nghiệp
-Các công ty cổ phần,công ty TNHH và doanh nghiệpTN đăng ký hoạt động theo luật doanh nghiệp.
-Các HTX đăng ký hoạt động theo luật HTX
-Các hộ kinh doanh cá thể đăng ký theo nghị định số 02/2000/NĐ-CP ngày 3/2/2000 của chính phủ về đăng ký kinh doanh.
Việc phân biệt SMES với các loại hình doanh nghiệp khác dựa vào hai tiêu chí: định tính và định lượng.
(Tiêu chí định tính: dựa vào đặc trưng cơ bản của SMES như trình độ chuyên môn hoá lĩnh vực hoạt động, số đầu mối quản lý…Tiêu thức định tính có ưu thế là phản ánh đúng bản chất của SMES nhưng trên thực tế khó xác định nên chỉ sử dụng làm cơ sở để tham khảo, kiểm chứng mà ít dùng làm cơ sở để phân loại.
(Tiêu chí định lượng: đây là tiêu thức chủ yếu mà các nước đang sử dụng để phân loại SMES .Tiêu thức này thể hiện số lượng lao động, vốn, doanh thu, lợi nhuận của doanh nghiệp.Tiêu chí này phụ thuộc vào nhiều yếu tố như tốc độ phát triển kinh tế, tính chất ngành nghề, vùng lãnh thổ, tính chất lịch sử, mục đích phân loại.
(Theo tiêu chí của ngân hàng thế giới
Doanh nghiệp
Số lao động
Doanh nghiệp siêu nhỏ
< 10
Doanh nghiệp nhỏ
10- <50
Doanh nghiệp vừa
50-<300
Ở mỗi nước tuỳ đặc điểm kinh tế-xã hội, tuỳ từng giai đoạn phát triển khác nhau mà có tiêu chí riêng để xác định SMES ở nước mình.
Nước
Phân loại
Số lao động
Vốn
Thái Lan
Công nghiệp nhỏ
0-50
<50 triệu Baht
Công nghiệp vừa
51-200
50-200 triệu Baht
Philippin
Công nghiệp nhỏ
10-99
1.5-15 tri ệu Pêsô
Công nghiệp vừa
100-199
15-60 triệu Pêsô
Indonexia
Công nghiệp nhỏ
5-19
<=20000 USD
Công nghiệp vừa
20-99
20000-100000 USD
Trung Quốc
Công nghiệp nhỏ
50-100
Công nghiệp vừa
101-500
Nguồn hồ sơ các SMES khu vực APEC (1990-2000)
( Nhật Bản
Ngành nghề
Vốn
Lao động
Công nghiệp khai thác,chế t ạo
<=100
<300
Thương nghiệp
<=30
<100
Thương nghiệp bán lẻ,dich vụ
<=10
<50
Đặc điểm của SMES
a.Quy mô nhỏ.
Với đặc trưng là quy mô nhỏ do đó nguồn vốn của SMES rất hạn chế. Theo số liệu ước tính : 44% doanh nghiệp có vốn 1 tỷ.
32,21% doanh nghiệp có vốn 1 tỷ - dưới 5 tỷ.
8,24% doanh nghiệp có vốn 5 tỷ -dưới 10 tỷ.
14,11% doanh nghiệp có vốn trên 10 tỷ.
Nguồn vốn của doanh nghiệp gồm 3 nguồn:
- Nguồn vốn tự có của SMES tạo ra từ vốn riêng của chủ sở hữu doanh nghiệp, vốn đóng góp của cổ đông.
- Nguồn vốn phi chính thức: bạn bè, vay mượn gia đình, các khoản đi vay năng lãi…
-Nguồn vốn từ tổ chức tín dụng.
Để mở rộng sản xuất kinh doanh SMES cần phải tiếp cận các nguồn vốn tài trợ bên ngoài và tín dụng của ngân hàng được xem là nguồn tài trợ truyền thống của doanh nghiệp.Vốn vay ngân hàng góp phần chuyển đổi cơ cấu ngành nghề, mở rộng ngành nghề truyền thống nhằm phát huy lợi thế so sánh.Vốn vay ngân hàng góp một phần không nhỏ giúp doanh nghiệp đầu tư cả chiều rộng và chiều sâu từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh cho các SMES.
Theo kết quả điều tra các SMES ở 30 tỉnh thành phía Bắc của bộ kế hoạch- đầu tư trong số 32.225 doanh nghiệp được điều tra thì 67% nêu lên khó khăn về tài chính.
Do đó quy mô nhỏ, nguồn vốn hạn chế được xem là đặc điểm nổi bật nhất của SMES .
b.Năng lực quản lý.
Theo số liệu thống kê có: 55,63% chủ doanh nghiệp có trình độ văn hoá từ trung cấp trở xuống.
43,3% chủ doanh nghiệp có trình độ văn hoá sơ cấp và phổ thông trung học các cấp.
0,66% chủ doanh nghiệp có trình độ tiến sĩ.
2.33% chủ doanh nghiệp có trình độ thạc sĩ.
Phần lớn cán bộ quản lý trong các doanh nghiệp khi thành lập doanh nghiệp và hoạt động kinh doanh dựa trên kinh nghiệm cá nhân là chủ yếu, nhiều chủ doanh nghiệp chưa qua trường lớp đào tạo cán bộ nên có nhiều hạn chế trong công tác quản lý kinh tế cũng như ảnh hưởng đến việc thực hiện các quy định của pháp luật trong quá trình hoạt động kinh doanh.
Về trình độ tay nghề của người lao động trong các doanh nghiệp chưa được quan tâm đào tạo thường xuyên phần lớn người lao động được truyền dạy nghề thông qua gia đình hoặc các kỹ thuật viên của doanh nghiệp do vậy tính năng động, sáng tạo trong việc phát huy sáng kiến, cải tiến mẫu mã hàng hoá chưa cao. Do xuất phát từ đặc điểm vốn hạn chế nên chủ doanh nghiệp không có điều kiện để thu hút lao động có tay nghề cao cũng như đầu tư ứng dụng công nghệ thông tin quản lý.
c. Khả năng ứng dụng, đổi mới công nghệ thấp
Cũng xuất phát từ đặc điểm nguồn vốn hạn chế nên SMES không đủ tài chính cho nghiên cứu triển khai công nghệ tiên tiến.
Theo kết quả điều tra năm 2005 với 11.000 doanh nghiệp dân doanh sản xuất công nghiệp thì 8% tự xác định là có công nghệ tiên tiến, 50% công nghệ trung bình, số còn lại 42% là công nghệ lạc hậu và không tự đánh giá. Đặc biệt chỉ có 6% doanh nghiệp trong số này có nhu cầu đào tạo về kỹ thuật và công nghệ. Điều này đặc biệt quan trọng vì kỹ thuật công nghệ liên quan đến nguồn nhân lực và là yếu tố quyết định sự thành bại của doanh nghiệp.
d. SMES hoạt động rất đa dạng, phong phú trong mọi lĩnh vực, mọi thành phần kinh tế, mọi địa bàn, thu hút nguồn lao động và vốn lớn.
Khả năng cạnh tranh trên thị trường của SMES thấp do hạn chế về vốn, trình độ tay nghề, phương thức và kinh nghiệm quản lý. Thị trường của SMES chủ yếu phục vụ doanh nghiệp lớn: nhà cung cấp nguyên vật liệu, đại lý bán hàng, kênh phân phối hoặc là những đoạn thị trường còn bỏ ngõ, có phạm vi nhỏ, độ sâu còn hạn chế. Những thị trường này chứa đựng nhiều rủi ro và thường xuyên biến động khiến cho hoạt động của SMES không ổn định.
c.Thiếu thông tin và bị lép vế trong các mối quan hệ.
Vấn đề thông tin là yếu tố ảnh hưởng đến thành công hay thất bại của doanh nghiệp. Thông tin từ phía môi trường kinh doanh mà doanh nghiệp bị chịu ảnh hưởng từ nhà cung cấp, đối tượng cạnh tranh, khách hàng, môi trường pháp lý, yếu tố kinh tế xã hội.
Việc tiếp cận với các nguồn thông tin, đặc biệt là qua internet và việc khai thác sử dụng nó là một hạn chế lớn đối với SMES .Trình độ đội ngũ cán bộ quản lý còn yếu kém tất yếu đẫn đến nhận thức vấn đề ứng dụng công nghệ trong khai thác thông tin chưa thực sự rõ ràng. Các SMES với quy mô nhỏ và thông tin kém đa chiều sâu, rộng do đó gây cản trở cho chính họ trong việc mở rộng mối quan hệ và ảnh hưởng không nhỏ đến chiến lược, kế hoạch kinh doanh của doanh nghiệp.
Và một đặc điểm không thể không kể đến là SMES dễ dàng thay đổi loại hình kinh doanh trước sự biến động của thị trường. Đây là một lợi thế giúp doanh nghiệp tiết kiệm được thời gian và chi phí, tận dụng được cơ hội kinh doanh khi thời cơ đến.
Các hoạt động cơ bản của NHTM
NHTM là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động của ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Hoạt động NHTM là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung các dịch vụ thanh toán.
NHTM có vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Nó là trung gian tài chính đóng vai trò cầu nối, dẫn vốn từ nhà tiết kiệm tới nhà đầu tư hoặc tiêu dùng qua đó cung cấp vốn cho nền kinh tế một cách hiệu quả.
Để thực hiện vai trò đó, NHTM tập trung vào các nhóm hoạt động cơ bản:
Hoạt động huy động vốn
Hoạt động huy động là một trong những hoạt động chủ yếu và quan trọng nhất của NHTM. Hoạt động này mang lại nguồn vốn để ngân hàng có thể thực hiện các hoạt động khác như cấp tín dụng và cung cấp các dịch vụ ngân hàng cho khách hàng.
Để hoạt động, trước hết mỗi ngân hàng phải có một số vốn ban đầu làm cơ sở cho các hoạt động kinh doanh của mình. Nhưng hầu hết các ngân hàng, số vốn điều lệ thường rất nhỏ chỉ đủ tài trợ cho tài sản cố định như trụ sở văn phòng, máy móc, thiết bị cần thiết cho hoạt động chứ chưa đủ vốn để ngân hàng có thể thực hiện các hoạt động kinh doanh. Để có vốn phục vụ cho các hoạt động này, ngân hàng phải huy động từ các tổ chức, cá nhân trong nền kinh tế thông qua việc cưng ứng các dịch vụ: tài khoản tiền gửi tiết kiệm, tài khoản tiền gửi có kỳ hạn, kỳ phiếu, trái phiếu, séc, chứng chỉ tiền gửi… Bên cạnh đó, khi cần vốn cho nhu cầu thanh khoản hay cho vay, đầu tư khác… ngân hàng có thể vay vốn tại ngân hàng khác, vay trên thị trường tài chính hay vay ngân hàng trung ương. Ngoài ra nguồn vốn của ngân hàng còn bao gồm một số nguồn khác như vốn uỷ thác.. nhưng chiếm tỷ trọng nhỏ.
1.1.2.2 Hoạt động tín dụng
NHTM được cấp tín dụng cho những tổ chức, cá nhân dưới các hình thức cho vay, chiết khấu thương phiếu, giấy tờ có giá, bão lãnh , cho thuê tài chính và các hình thức cho vay khác theo quy đinh của NHNN. Trong các hoạt động cấp tín dụng thì cho vay là hoạt động quan trọng nhất đồng thời chiếm tỷ trọng lớn nhất. NHTM sử dụng các nguồn vốn huy động được để thực hiện cho vay và đầu tư, qua đó hình thành nên những tài sản cơ bản của ngân hàng. Ngân hàng có thể cho vay cá nhân, hộ gia đình, doanh nghiệp, các cơ quan chính quyền để phục vụ cho mục đích đầu tư kinh doanh hay tiêu dùng hoặc có thể trực tiếp tham gia đầu tư, góp vốn, hợp tác liên doanh.
Các hoạt động cho vay và đầu tư mang lại nguồn thu nhập chính cho NHTM gồm lãi cho vay, lợi tức đầu tư nhưng kèm theo sau đó là những rủi ro tiềm ẩn.
Hoạt động khác
Là một trung gian tài chính của nền kinh tế, bên cạnh hoạt động nhận gửi và cho vay, NHTM còn thực hiện hoạt động trung gian khác: thanh toán, chuyển tiền, tư vấn, bảo lãnh, ký thác, uỷ thác, bảo quản vật có giá, mua bán ngoại tệ, và thu phí dịch vụ cho các hoạt động đó. Trước đây có nhiều hạn chế về chính sách, trình độ công nghệ…nên hoạt động này chưa thực sự phát triển và thu nhập mang lại chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng thu nhập của ngân hàng. Nhưng đến nay các dịch vụ trung gian của NHTM càng được chú trọng do nguồn thu ổn định và rủi ro thấp. Các dịch vụ đã không ngừng phát triển, góp phần hoàn thiện chất lượng dịch vụ ngân hàng. Các khách hàng khi có nhu cầu đều được ngân hàng đáp ứng một cách thuận tiện, nhanh chóng và an toàn. Do vậy các NHTM đã thu hút được số lượng lớn và đa dạng đối tượng khách hàng kéo theo doanh thu của ngân hàng từ hoạt động này cũng tăng nhanh.
Trong các hoạt động cơ bản của NHTM thì hoạt động tín dụng nói chung và hoạt động cho vay nói riêng là hoạt động quan trọng hơn cả mang lại nguồn thu nhập chính cho ngân hàng đặc biệt là đối với các nước đang phát triển như Việt Nam, trong bối cảnh các dịch vụ ngân hàng chưa thực sự phát triển toàn diện.
Hoạt động cho vay SME của NHTM
Phương thức cho vay
( Căn cứ vào phương thức tài trợ:
a.Thấu chi: là nghiệp vụ cho vay qua đó ngân hàng cho phép người vay được chi trội trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất định và trong khoảng thời gian xác định, giới hạn này gọi là hạn mức thấu chi. Thấu chi là hình thức cấp tín dụng ngắn hạn, linh hoạt, thủ tục đơn giản có thể cấp cho doanh nghiệp vài ngày trong tháng, vài tháng trong năm dùng để trả lương, chi các khoản phải nộp, mua hàng. Hình thức này chỉ sử dụng với khách hàng có độ tin cậy cao, thu nhập đều đặn và kỳ thu nhập ngắn.
b.Cho vay trực tiếp từng lần: là hình thức cho vay tương đối phổ biến của ngân hàng đối với khách hàng không có nhu cầu vay thường xuyên, không có điều kiện được cấp hạn mức thấu chi. Một số khách hàng sử dụng vốn chủ sở hữu và tín dụng thương mại là chủ yếu, chỉ khi có nhu cầu thời vụ, hay mở rộng sản xuất mới vay ngân hàng, tức là vốn vay ngân hàng chỉ tham gia vào một số giai đoạn nhất định của chu kỳ sản xuất.
Mỗi lần vay khách hàng phải làm đơn và trình ngân hàng phương án sử dụng vốn vay. Ngân hàng sẽ phân tích khách hàng và ký hợp đồng cho vay, xác định quy mô món vay, thời hạn giải ngân, thời hạn trả nợ, lãi suất và yêu cầu đảm bảo nếu cần. Mỗi món vay được tách biệt nhau thành các hồ sơ khác nhau. Nghiệp vụ cho vay từng lần tương đối đơn giản, ngân hàng có thể kiểm soát món vay tách biệt.
c. Cho vay theo hạn mức: là nghiệp vụ cho vay mà theo đó ngân hàng sẽ thoả thuận cấp cho khách hàng hạn mức tín dụng. Hạn mức tín dụng có thể tính cho cả kỳ hoặc cuối kỳ. Đó là số dư tối đa tại thời điểm tính. Hạn mức tín dụng được cấp trên cơ sở kế hoạch sản xuất kinh doanh, nhu cầu sử dụng vốn, nhu cầu vay vốn của khách hàng. Mỗi lần vay khách hàng chỉ cần trình bày phương án sử dụng tiền vay, nộp các chứng từ chứng minh đã mua hàng hoặc dịch vụ và nêu yêu cầu vay. Sau khi kiểm tra tính chất hợp pháp, hợp lệ của chứng từ ngân hàng sẽ phát tiền cho khách hàng. Đây là hình thức cho vay thuận tiện cho khách hàng vay mượn thường xuyên, vốn vay tham gia thường xuyên vào quá trình sản xuất kinh doanh.
d. Cho vay luân chuyển: là nghiệp vụ cho vay của ngân hàng dựa trên sự luân chuyển hàng hoá của khách hàng. Doanh nghiệp khi mua hàng có thể thiếu vốn, ngân hàng có thể cho vay để mua hàng và sẽ thu nợ khi doanh nghiệp bán hàng. Ngân hàng và khách hàng sẽ thoả thuận với nhau về phương thức vay, hạn mức tín dụng, các nguồn cung cấp hàng hoá, khả năng tiêu thụ. Việc cho vay dựa trên luân chuyển của hàng hoá nên cả ngân hàng lẫn doanh nghiệp đều phải nghiên cứu kế hoạch luân chuyển hàng hoá để dự đoán dòng ngân quỹ trong thời gian tới.
Cho vay luân chuyển rất thuận tiện cho các doanh nghiệp có chu kỳ tiêu thụ ngắn ngày, có quan hệ vay trả thường xuyên với ngân hàng. Thủ tục vay chỉ cần thực hiện một lần cho nhiều lần vay. Khách hàng được đáp ứng nhu cầu vốn kịp thời, vì vậy việc thanh toán cho người cung cấp sẽ nhanh gọn.
( Căn cứ vào phương thức hoàn trả:
Cho vay trả góp: là hình thức tín dụng mà ngân hàng cho phép khách hàng trả gốc làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã thoả thuận. Cho vay trả góp thường áp dụng đối với các khoản vay trung và dài hạn, tài trợ cho tài sản cố đinh hoặc hàng lâu bền. Số tiền trả mỗi lần được thanh toán sao cho phù hợp với khả năng trả nợ.
(Căn cứ vào mức độ tín nhiệm:
a. Cho vay không có bảo đảm: là loại hình cho vay không có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc sự bảo lãnh của người thứ ba mà việc cho vay chỉ dựa vào uy tín của bản thân khách hàng. Đối với những khách hàng tốt, trung thực trong kinh doanh, có khả năng tài chính lành mạnh, quản trị có hiệu quả thì ngân hàng có thể cấp tín dụng dựa vào uy tín của bản thân khách hàng mà không cần một nguồn thu nợ bổ sung.
b. Cho vay có bảo đảm: là loại cho vay phải có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của người thứ ba. Sự đảm bảo này là nguồn thu nợ thứ hai của ngân hàng.
(Căn cứ vào thời hạn cho vay:
a.Cho vay ngắn hạn: là loại hình cho vay có thời hạn dưới 12 tháng mục đích bổ sung vốn lưu động phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh của tổ chức kinh tế và nhu cầu tiêu dùng của cá nhân.
b.Cho vay trung hạn: là loại hình cho vay có thời hạn 12 tháng đến dưới 60 tháng. Chủ yếu để đáp ứng nhu cầu mua sắm tài sản cố định, cải tiến hoặc đổi mới thiết bị công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh, xây dựng các dự án quy mô nhỏ và thu hồi vốn nhanh.
c. Cho vay dài hạn: là loại hình cho vay có thời hạn hơn 60 tháng và được sử dụng để đáp ứng nhu cầu dài hạn như nhà ở, mua sắm thiết bị, phương tiện vận tải có quy mô lớn, xây dựng các xí nghiệp mới.
Quy trình cho vay SMES của NHTM
Quy trình cho vay là tập hợp các nguyên tắc, quy định của ngân hàng trong việc cấp tín dụng. Trong đó xây dựng những bước đi cụ thể theo một trình tự nhất định kể từ khi chuẩn bị hồ sơ đề nghị cấp tín dụng cho đến lúc chấm dứt hợp đồng tín dụng. Đây là một quá trình bao gồm nhiều giai đoạn mang tính chất liên hoàn, theo một trình tự nhất định, đồng thời có quan hệ chặt chẽ và gắn bó với nhau.
Bước 1: Tiếp cận tìm hiểu nhu cầu khách hàng.
Đây là một giai đoạn bắt đầu một khoản vay, ở giai đoạn này hoặc khách hàng đến ngân hàng yêu cầu vay vốn hoặc ngân hàng chủ động tìm đến khách hàng tiềm năng để mời vay vốn. Khách hàng cung cấp cho ngân hàng các thông tin cơ bản ban đầu về mục đích vay vốn, tình hình kinh doanh, năng lực quản lý và thông tin tài chính để ngân hàng đánh giá.
Bước 2: Thẩm định, đánh giá khoản vay
Trên cơ sở thông tin khách hàng cung cấp và thông tin tự tìm kiếm, thu thập, ngân hàng sẽ tiến hành thẩm định tín dụng.Theo đó cán bộ tín dụng sẽ tiến hành thẩm định những yếu tố sau:
( Thẩm đinh khách hàng vay vốn:
Cán bộ tín dụng sẽ thẩm định tư cách, năng lực pháp lý của khách hàng để chắc chắn rằng khách hàng có đủ năng lực vay vốn và có đủ tư cách pháp lý trong việc ký kết hợp đồng vay vốn và chịu trách nhiệm trước pháp luật khi rủi ro xảy ra.
Cán bộ tín dụng phải kiểm tra tính chính xác, mức độ tin cậy của các báo cáo tài chính; phân tích đánh giá tình hình hoạt động kinh doanh và khả năng tài chính của khách hàng. Đặc biệt cần chú ý đến dòng tiền mặt bởi đây là một yếu tố không kém phần quan trọng. Cán bộ tín dụng cần xem xét liệu người vay có khả năng tạo ra dòng tiền mặt đủ lớn để đáp ứng yêu cầu hoàn trả cho ngân hàng món vay không?. Một sự thu hẹp quy mô dòng tiền mặt cũng ẩn chứa một sự suy giảm trong kinh doanh và do đó ngân hàng phải đối mặt với khoản nợ có vấn đề.
(Phân tích, thẩm định dự án đầu tư, phương án sản xuất kinh doanh.
Cán bộ tín dụng tiến hành thẩm định dự án hoặc phương án sản xuất kinh doanh để đánh giá tính khả thi và hiệu quả của nó cũng như khả năng trả nợ của khách hàng và những rủi ro có thể xảy ra để phục vụ cho quyết định cho vay hay từ chối cho vay. Đồng thời làm cơ sở tham gia góp ý tư vấn cho khách hàng vay, đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng.
( Các biện pháp bảo đảm tiền vay
( Các điều kiện môi trường: cán bộ tín dụng phải nhận biết xu hướng phát triển hiện tại và tương lai của các doanh nghiệp cũng như các lĩnh vực mà doanh nghiệp đang hoạt động, thấy được mức độ tác động của những thay đổi trong nền kinh tế, bởi những diều này đều ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của khách hàng.
Bước 3: Phê chuẩn, quyết định cho vay
Sau khi thẩm định, đánh giá khoản vay, cán bộ tín dụng sẽ lập báo cáo thẩm định và tờ trình cho vay đến trưởng phòng tín dụng.Trưởng phòng tín dụng sau khi xem xét sẽ ra quyết định cho vay hay không.
Khi ngân hàng quyết định cho vay, cán bộ tín dụng sẽ thông báo với khách hàng. Cán bộ tín dụng cùng khách hàng lập hợp đồng tín dụng và các hợp đồng khác liên quan.
Bước 4: giải ngân
Căn cứ vào thoả thuận hai bên đã ký kết trong hợp đồng, thoả thuận tín dụng, bảo đảm tiền vay ngân hàng tiến hành giải ngân.
Bước 5: giám sát khoản vay, thu nợ, xử lý phát sinh.Ngân hàng thu nợ theo thời hạn đã thoả thuận, tất toán khoản vay.Có trường hợp ngân hàng xem xét cơ cấu lại nợ hoặc phải thu nợ trước thời hạn hoặc phải tiến hành các thủ tục pháp lý và xử lý tài sản đảm bảo theo quy định để thu nợ.
Chính sách tín dụng đối với SMES
Ở tầm vĩ mô chính sách tín dụng là một bộ điều lệ về các trao đổi tín dụng quy định bởi chính phủ nhằm tạo những điều kiện thuận lợi cho hoạt động tín dụng nhằm tạo đà phát triển hướng tới mục đích tăng trưởng cho nền kinh tế.