Trước sức ép hội nhập kinh tế quốc tế nói chung và tự do hoá ngành
Tài chính- Ngân hàng nói riêng, các tổ chức tài chính, tín dụng Việt Nam
buộc phải đề ra chiến lược phát triển dài hơn, phải có quy mô tương xứng
với tầm vóc đó. Việc một số các định chế tài chính, Ngân hàng đưa ra
chiến lược phát triển một tập đoàn tài chính đa năng để có thể vươn ra thế
giới và khu vực là một hướng đi đúng đắn vì vai trò của khu vực tài chính
đối với nền kinh tế là đặc biệt quan trọng, nhất là đối với những nước chưa
có các kênh phân phối vốn hiệu quả.
Đối với nền kinh tế Việt Nam có thể thấy một nghịch lý là tiềm lực
tài chính của khu vực tài chính lại thua xa khu vực công nghiệp, trong khi
đó để có thể thực hiện cách mạng công nghiệp và tiến trình công nghiệp
hoá thì tư bản tài chính phải có mức tích luỹ nhiều hơn tư bản công nghiệp.
Với điều kiện như hiện nay việc đầu tư cho những công trình trọng điể m
của nền kinh tế như Dầu khí, Điện lực, Hàng không.gặp rất nhiều khó
khăn vì vậy cần thiết phải có một tiềm lực tài chính đủ mạnh là các tập
đoàn tài chính đáp ứng nhu cầu cấp bách của thực tiễn nền kinh tế, phù
hợp với xu thế phát triển chung của toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc
tế.
Các tập đoàn tài chính hùng mạnh không chỉ đóng vai trò to lớn
trong tăng trưởng, phát triển kinh tế, mà còn có ảnh hưởng sâu, rộng tới
chiến lược kinh doanh, khuynh hướng sản xuất, thị hiếu tiêu dùng của toà n
nhân loại, và việc trở thành tập đoàn tài chính là mục tiêu phấn đấu của
hầu hết các nước trên thế giới.
100 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 1700 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Giải pháp phát triển hoạt động kinh doanh tổng công ty tài chính cổ phần dầu khí PVFC hướng tới tập đoàn tài chính, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ
CHUYÊN NGÀNH KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG
-------***-------
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
ĐỀ TÀI :
GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
TỔNG CÔNG TY TÀI CHÍNH CỔ PHẦN DẦU KHÍ PVFC
HƯỚNG TỚI TẬP ĐOÀN TÀI CHÍNH
Sinh viên : Lưu Thị Bích Ngọc
Lớp : Nhật 3
Khóa : 43
Giáo viên hướng dẫn : TS. Lê Thị Thu Thủy
Hà Nội, 6-2008
Khoá luận tốt nghiệp
Lƣu Thị Bích Ngọc – Nhật 3 K43G 1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trước sức ép hội nhập kinh tế quốc tế nói chung và tự do hoá ngành
Tài chính- Ngân hàng nói riêng, các tổ chức tài chính, tín dụng Việt Nam
buộc phải đề ra chiến lược phát triển dài hơn, phải có quy mô tương xứng
với tầm vóc đó. Việc một số các định chế tài chính, Ngân hàng đưa ra
chiến lược phát triển một tập đoàn tài chính đa năng để có thể vươn ra thế
giới và khu vực là một hướng đi đúng đắn vì vai trò của khu vực tài chính
đối với nền kinh tế là đặc biệt quan trọng, nhất là đối với những nước chưa
có các kênh phân phối vốn hiệu quả.
Đối với nền kinh tế Việt Nam có thể thấy một nghịch lý là tiềm lực
tài chính của khu vực tài chính lại thua xa khu vực công nghiệp, trong khi
đó để có thể thực hiện cách mạng công nghiệp và tiến trình công nghiệp
hoá thì tư bản tài chính phải có mức tích luỹ nhiều hơn tư bản công nghiệp.
Với điều kiện như hiện nay việc đầu tư cho những công trình trọng điểm
của nền kinh tế như Dầu khí, Điện lực, Hàng không...gặp rất nhiều khó
khăn vì vậy cần thiết phải có một tiềm lực tài chính đủ mạnh là các tập
đoàn tài chính đáp ứng nhu cầu cấp bách của thực tiễn nền kinh tế, phù
hợp với xu thế phát triển chung của toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc
tế.
Các tập đoàn tài chính hùng mạnh không chỉ đóng vai trò to lớn
trong tăng trưởng, phát triển kinh tế, mà còn có ảnh hưởng sâu, rộng tới
chiến lược kinh doanh, khuynh hướng sản xuất, thị hiếu tiêu dùng của toàn
nhân loại, và việc trở thành tập đoàn tài chính là mục tiêu phấn đấu của
hầu hết các nước trên thế giới. Ở Việt Nam các tổ chức tài chính, các Ngân
hàng thương mại đã có lộ trình xây dựng và phát triển các tập đoàn tài
chính nhưng vì đây là một lĩnh vực hết sức nhạy cảm và rủi ro nên vẫn
Khoá luận tốt nghiệp
Lƣu Thị Bích Ngọc – Nhật 3 K43G 2
đang ở giai đoạn thử nghiệm và thăm dò. Tổng công ty Cổ phần tài chính
Dầu khí PVFC là một tổ chức tài chính hoạt động nhằm đáp ứng nhu cầu
tín dụng của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam, các đơn vị thành viên, khơi
thông các nguồn vốn trong nước, thu hút nguồn vốn nước ngoài và quản lý
một cách tối ưu các nguồn vốn đầu tư. Theo như định hướng phát triển
Tổng công ty sẽ trở thành tập đoàn tài chính vào năm 2010, tuy nhiên các
nghiệp vụ kinh doanh còn bộc lộ khá nhiều hạn chế dẫn đến chưa đủ lớn
về tiềm lực cũng như quy mô vốn, công nghệ, nhân lực...đáp ứng nhu cầu
ngày càng mạnh mẽ của thị trường. Xuất phát từ thực tế đó em chọn đề tài:
“ Giải pháp phát triển hoạt động kinh doanh Tổng công ty tài chính Cổ
phần Dầu khí PVFC hƣớng tới tập đoàn tài chính”.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ những lý luận thực tiễn về tập đoàn tài chính, tìm
hiểu thực trạng về hoạt động kinh doanh của Tổng công ty tài chính Cổ
phần Dầu khí Việt Nam từ đó tìm hiểu hạn chế về các nghiệp vụ kinh
doanh, đánh giá thuận lợi, khó khăn, đề xuất các giải pháp phát triển hoạt
động kinh doanh, xây dựng lộ trình hướng tới tập đoàn tài chính vào năm
2010.
3. Đối tƣợng nghiên cứu
Các lý thuyết chung về công ty tài chính, tập đoàn tài chính, Tổng
công ty tài chính Cổ phần dầu khí PVFC, các nghiệp vụ kinh doanh đặc
trưng của công ty như: huy động vốn, đầu tư tài chính, uỷ thác đầu
tư...thực trạng hoạt động kinh doanh của công ty qua các năm kể từ khi
thành lập.
4. Phạm vi nghiên cứu
Khoá luận không đi sâu vào nghiên cứu các tập đoàn tài chính lớn
trên thế giới mà chỉ đề cập lý thuyết chung đưa ra các giải pháp phát triển
hoạt động kinh doanh của Tổng công ty tài chính Cổ phần Dầu khí xây
dựng thành tập đoàn tài chính. Cụ thể là nghiên cứu về hoạt động kinh
Khoá luận tốt nghiệp
Lƣu Thị Bích Ngọc – Nhật 3 K43G 3
doanh của Tổng công ty từ khi thành lập (cuối năm 2000) đến thời điểm cổ
phần hoá thành công (năm 2008), xây dựng lộ trình tập đoàn tài chính đến
năm 2010.
5. Kết cấu đề tài
Ngoài lời mở đầu và kết luận, Khoá luận gồm 3 chương:
Chương I: Cơ sở lý luận chung về tập đoàn tài chính và xu hướng
hình thành tập đoàn ở Việt Nam hiện nay
Chương II: Thực trạng hoạt động kinh doanh của PVFC và đánh giá
điều kiện xây dựng tập đoàn tài chính
Chương III- Giải pháp phát triển hoạt động kinh doanh của PVFC
hướng tới tập đoàn tài chính
Do hạn chế về thời gian cũng như kiến thức, Khoá luận chưa đề cập
được hết mọi khía cạnh, mới chỉ đi sâu vào nghiên cứu đối tượng cụ thể là
Tổng công ty tài chính Cổ phần Dầu khí, còn rất nhiều thiếu sót, tác giả rất
mong nhận được phê bình, đóng góp của tất cả những ai quan tâm đến vấn
đề này. Khi thực hiện khoá luận em đã nhận được sự giúp đỡ, động viên
tận tình của gia đình, bạn bè thầy cô, đặc biệt là sự gợi ý về tên đề tài cũng
như sự chỉ bảo tận tình của cô giáo hướng dẫn TS. Lê Thị Thu Thuỷ. Em
xin chân thành cảm ơn.
Khoá luận tốt nghiệp
Lƣu Thị Bích Ngọc – Nhật 3 K43G 4
CHƢƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TẬP ĐOÀN
TÀI CHÍNH VÀ XU HƢỚNG HÌNH THÀNH TẬP ĐOÀN
TÀI CHÍNH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
I- KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TẬP ĐOÀN TÀI CHÍNH
1. Tìm hiểu về công ty tài chính
1.1. Khái niệm
Hiện nay trên thế giới đang tồn tại rất nhiều khái niệm khác nhau về
công ty tài chính do sự khác biệt về môi trường pháp lý và công cụ tài
chính của mỗi nước. Tuy nhiên một cách khái quát nhất các nhà kinh tế học
đều thống nhất khái niệm Công ty tài chính là: Một tổ chức tài chính trung
gian phi ngân hàng được thành lập để cung cấp các loại dịch vụ tài trợ,
cung cấp các khoản cho vay, cho thuê, đầu tư tài chính,bao thanh toán và
thực hiện các hình thức tín dụng ngắn, dài hạn khác. Công ty tài chính có
thể được hình thành do các nhà đầu tư trong và ngoài nước hoặc là công ty
con của các tập đoàn kinh tế lớn nhằm đa dạng hoá thị trường tài chính.
Các trung gian tài chính này huy động vốn thông qua phát hành cổ phiếu,
trái phiếu, hay thương phiếu. Các công ty tài chính cung ứng chủ yếu các
loại tín dụng trung hạn và dài hạn, ví dụ cho người tiêu dùng vay tiền để
mua sắm đồ đạc, xe hơi, tu bổ nhà hoặc cho các doanh nghiệp nhỏ vay.
Ngoài ra, các công ty tài chính còn thực hiện các dịch vụ cầm, giữ hộ và
quản lý các chứng khoán, các kim loại quý.vv..
Nghị định 79/2002/NĐ-CP ngày 4/10/2002 của Chính phủ Việt Nam
quy định về tổ chức và hoạt động của công ty tài chính đã định nghĩa:
“ Công ty tài chính là loại hình tổ chức tín dụng phi ngân hàng, với chức
năng là sử dụng vốn tự có, vốn huy động và các nguồn vốn khác để cho
vay, đầu tƣ, cung ứng các dịch vụ tƣ vấn về tài chính, tiền tệ và thực hiện
một số dịch vụ khác theo quy định của pháp luật, nhƣng không đƣợc làm
dịch vụ thanh toán, không đƣợc nhận tiền gửi dƣới một năm”.
Khoá luận tốt nghiệp
Lƣu Thị Bích Ngọc – Nhật 3 K43G 5
Sự ra đời của công ty tài chính gắn liền với sự phát triển mạnh mẽ
của nền kinh tế thị trường, sự tiến bộ của khoa học công nghệ và nhu cầu
đa dạng về các dịch vụ tài chính. Nó được hình thành trên cơ sở chuyên
môn hoá một số nghiệp vụ trong hoạt động của ngân hàng nhằm khắc phục
hạn chế khiếm khuyết của NHTM với các nghiệp vụ chủ yếu là cho vay
doanh nghiệp và người tiêu dùng bằng sự đảm bảo tài sản hữu hình.
Ở mỗi nước do cơ sở pháp lý, định chế tài chính khác nhau nên phạm
vi, nội dung các nghiệp vụ các công ty tài chính được phép hoạt động khác
nhau tuy nhiên đều có đặc điểm chung là:
Về mặt tổ chức: Các công ty tài chính là một tổ chức kinh doanh
chuyên nghiệp trên thị trường tài chính, hạch toán độc lập, được đăng ký
kinh doanh theo pháp luật, là các trung gian tài chính và không có nhiều chi
nhánh như các NHTM.
Về hoạt động: Các công ty tài chính bị hạn chế các nghiệp vụ so với
NHTM, hoạt động hẹp hơn và giới hạn một số khâu mang tính chuyên biệt
trong một số nghiệp vụ nhất định. Nếu như hoạt động NHTM là tập hợp
các khoản tiền gửi nhỏ để cho vay các khoản tiền lớn, thì các công ty tài
chính lại huy động các khoản tiền lớn rồi chia ra để cho vay các khoản tiền
nhỏ. Bảng 1: Sự khác biệt giữa công ty tài chính và NHTM
Ngân hàng thƣơng mại Công ty tài chính
Được nhận tiền gửi thường
xuyên
Sử dụng vốn chủ sở hữu để cho vay và đầu
tư
Được nhận tiền gửi không
kỳ hạn và thực hiện dịch vụ
trung gian thanh toán
Không được nhận tiền gửi ngắn hạn, không
thực hiện dịch vụ trung gian thanh toán
Hoạt động đa dạng nhiều
dịch vụ
Hoạt động mạnh ở một số lĩnh vực: cho
thuê tài chính, tham gia trực tiếp trên thị
trường chứng khoán
Khoá luận tốt nghiệp
Lƣu Thị Bích Ngọc – Nhật 3 K43G 6
Tuy nhiên do sự phát triển và hội nhập kinh tế thế giới, các công ty
tài chính có xu thế mở rộng và đa dạng hoá các nghiệp vụ để phục vụ
khách hàng tốt hơn và tối đa hoá lợi nhuận nên sự khác biệt giữa công ty tài
chính với các NHTM và các trung gian tài chính khác trở nên mờ nhạt dần
và không còn sự khác biệt lớn.
1.2. Phân loại công ty tài chính
1.2.1. Theo tính chất độc lập hay phụ thuộc
a. Công ty tài chính độc lập: Là loại hình công ty tài chính đứng độc
lập, tự hoạt động kinh doanh do các nhà đầu tư trong và ngoài nước thành
lập, không nằm trong hệ thống ngân hàng, tổ chức tín dụng hay tập đoàn
nào. Các công ty này thực hiện nhiều hoạt động kinh doanh như: cho vay
và bảo lãnh các khách hàng thương mại và sản xuất công nghiệp, các hoạt
động cho thuê tài sản, bao thanh toán, kinh doanh tiền tệ, tư vấn tài chính.
b. Công ty tài chính phụ thuộc: do một công ty mẹ hay một tập đoàn
kinh tế lớn nắm giữ toàn bộ hay một tỷ lệ vốn nhất định lập nên có nhiệm
vụ cung ứng vốn cho nội bộ tập đoàn và kinh doanh tiền tệ.
1.2.2. Theo phạm vi hoạt động
a. Công ty tài chính bán hàng: Các công ty này gián tiếp cấp tín dụng
cho người tiêu dùng để mua các món hàng từ một nhà bán lẻ hoặc từ một
nhã sản xuất nào đó.
b. Công ty tài chính tiêu dùng: Công ty sẽ cung ứng phần lớn nguồn
vốn của mình cho các gia đình và cá nhân vay vào mục đích mua sắm hàng
hoá tiêu dùng như các đồ đạc nột thất, đồ da dụng, hoặc sửa chữa nhà
cửa..các khoản vay được trả góp định kỳ.
c. Công ty tài chính kinh doanh: Công ty sẽ cấp tín dụng cho các
doanh nghiệp dưới các hình thức như: bao thanh toán, cho thuê tài chính...
2. Khái quát chung về tập đoàn tài chính
2.1 Khái niệm
Khoá luận tốt nghiệp
Lƣu Thị Bích Ngọc – Nhật 3 K43G 7
Cũng như Công ty tài chính, TĐTC chưa được định nghĩa một cách
chính thống nhưng qua nhiều nghiên cứu có thể hiểu: TĐTC là một thực
thể kinh tế gồm một số doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực tài
chính (ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm và các hoạt động khác có
liên quan đến hoạt động tài chính) mỗi thành viên tập đoàn là những
pháp nhân độc lập, trong đó có một doanh nghiệp làm nòng cốt. Các tập
đoàn đều được thành lập một cách tự nguyện trên cơ sở các liên kết về vốn
và hoạt động kinh doanh nhằm cung cấp trọn gói các sản phẩm, dịch vụ tài
chính cho khách hàng và tăng cường khả năng cạnh tranh trước xu thế toàn
cầu hoá.
Xu thế hội nhập và sự phát triển như vũ bão của khoa học công
nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin và sự nới lỏng các quy định pháp lý
về Tài chính- Ngân hàng là nguyên nhân thúc đẩy quá trình hình thành và
phát triển các TĐTC. Khi phát triển đến mức độ nhất định và do nhu cầu
của nền kinh tế, các ngân hàng, công ty bảo hiểm, công ty chứng khoán
hay các tổ chức tài chính khác đều vươn ra hoạt động đa năng và hướng ra
toàn cầu thông qua những hình thức khác nhau như liên kết, hợp nhất, sát
nhập, thành lập các công ty trực thuộc. Mục tiêu của việc hình thành
TĐTC là mở rộng quy mô hoạt động và đổi mới công nghệ, giảm chi phí
để có thể tồn tại trong cạnh tranh, từ đó đem lại lợi nhuận tối đa cho tập
đoàn. Có thể xem xét các quan niệm về TĐTC ở nhiều góc độ khác nhau:
- Căn cứ vào nguồn gốc: Người ta dựa vào việc xem xét tập đoàn
kinh tế để đưa ra khái niệm về TĐTC. Tập đoàn kinh tế là một chỉnh thể
của một tập hợp các đơn vị thành viên có những quan hệ liên kết về lợi
ích kinh tế, tài chính, sản phẩm, công nghệ, thông tin, đào tạo, nghiên cứu
và được sắp xếp theo một cấu trúc tổ chức nhất định, được kiểm soát điều
hành bằng một bộ máy quản lý thống nhất. Tập đoàn kinh tế có thể được
gọi tên khác nhau, được tổ chức theo các mô hình khác nhau nhưng đều
có những đặc điểm chung cơ bản như sau:
Khoá luận tốt nghiệp
Lƣu Thị Bích Ngọc – Nhật 3 K43G 8
Về tổ chức, các tập đoàn kinh tế thường là tập hợp của một số đơn vị
thành viên, trong đó có một đơn vị lớn và quan trọng nhất, đóng vai trò chi
phối hoạt động của các đơn vị còn lại.
Về cơ cấu sở hữu, các tập đoàn thường là đa sở hữu (Nhà nước,
công ty, tư nhân). Đơn vị, cá nhân nào chiếm tỷ lệ sở hữu cao trong tổng
tài sản sẽ nắm vai trò chi phối.
Về quy mô và phạm vi hoạt động, các tập đoàn kinh tế thường có
quy mô tài sản lớn, phạm vi hoạt động rộng trong một hoặc nhiều quốc gia.
Về sản phẩm và lĩnh vực kinh doanh, tập đoàn kinh tế có sản phẩm
thường đa dạng, trong đó có thể có một hoặc một số sản phẩm mũi nhọn.
Nếu xét theo lĩnh vực kinh doanh thì các sản phẩm của một tập đoàn kinh
tế có thể trong cùng lĩnh vực kinh doanh nhưng cũng có thể thuộc các lĩnh
vực kinh doanh khác nhau.
Ngoài những đặc điểm cơ bản trên, TĐTC còn có đặc điểm là: Lĩnh
vực kinh doanh và sản phẩm chủ yếu là tài chính, ngân hàng, bảo hiểm.
Đây là lĩnh vực kinh doanh có tính nhạy cảm và mức độ rủi ro cao, đòi hỏi
quy mô vốn lớn.
- Căn cứ vào nguyên tắc hoạt động: TĐTC là một tổ chức gồm hai
hay nhiều định chế tài chính được liên kết lại với nhau, được xem là một tổ
chức đáp ứng các yêu cầu sau:
+ Phải là một tổ chức bao gồm ba mảng hoạt động tài chính quan
trọng đó là ngân hàng, chứng khoán và bảo hiểm.
+ Phải là một tổ chức mà hoạt động kinh doanh chính là hoạt động
tài chính.
- Căn cứ vào lĩnh vực kinh doanh của tập đoàn, có thể theo các xu
hướng sau:
+Tập đoàn kinh doanh tổng hợp bao gồm các dịch vụ ngân hàng - tài
chính và sản xuất kinh doanh như: Tại Nhật Bản có tập đoàn Normura nổi
tiếng kinh doanh chứng khoán, sản xuất, đầu tư khu công nghiệp và hạ tầng
Khoá luận tốt nghiệp
Lƣu Thị Bích Ngọc – Nhật 3 K43G 9
khu công nghiệp…; tập đoàn Sumitomo nổi tiếng về ngân hàng và kinh
doanh thương mại. Tại Đài Loan có tập đoàn Chinfon vừa có hoạt động
ngân hàng, bảo hiểm lại vừa nổi tiếng trong lĩnh vực sản xuất xi-măng. Tại
Singapore có tập đoàn Keppel Bank kinh doanh lĩnh vực ngân hàng,
thương mại, dịch vụ,…
+ Tập đoàn tài chính chuyên về ngân hàng, chứng khoán, các dịch vụ
tài chính như tập đoàn Citi Group ( Mỹ ) ; tập đoàn HSBC ( Anh )...
Các TĐTC ở Hoa Kỳ thường được xây dựng theo mô hình một công
ty mẹ nắm giữ cổ phần của các công ty con hoạt động trong lĩnh vực Ngân
hàng, chứng khoán, bảo hiểm. Hoạt động kinh doanh của các đơn vị thành
viên trực thuộc TĐTC được giám sát và điều chỉnh bởi các cấp có thẩm
quyền riêng biệt. Hoạt động của các Ngân hàng chịu sự giám sát điều chỉnh
của Cơ quan giám sát tiền tệ( OCC ), Cục dự trữ liên bang ( FED) và công
ty bảo hiểm tiền gửi liên bang( FDIC); hoạt động của công ty chứng khoán
chịu sự giám sát và điều chỉnh của Uỷ ban Chứng khoán và Hối đoái(
SEC); hoạt động của các công ty bảo hiểm do uỷ ban bảo hiểm Quốc gia(
SIC) giám sát và điều chỉnh. Một TĐTC phải đảm bảo các yêu cầu về: vốn
và khả năng quản lý, yêu cầu về việc tài trợ vốn cho cộng đồng và những
yêu cầu trong quản lý TĐTC.
Ở Đài Loan các TĐTC có thể đầu tư và sở hữu 100% các đơn vị
thành viên, bao gồm Ngân hàng, bảo hiểm, công ty chứng khoán, bảo hiểm
nhân thọ và phi nhân thọ. Đạo luật về TĐTC của Đài Loan đã tạo điều kịên
cho thị trường tài chính được củng cố, hợp nhất, tính đến cuối năm 2005,
Đài Loan đã có 14 TĐTC- NH lớn hoạt động trên các lĩnh vực ngân hàng,
chứng khoán, bảo hiểm.
Ở Trung Quốc trước đây, luật Ngân hàng thương mại quy định các
NHTM không được phép thực hiện các giao dịch chứng khoán và bảo
chứng, không được đầu tư vào những doanh nghiệp phi ngân hàng. Nhưng
trước tốc độ phát triển kinh tế quá nóng trong hai thập kỷ qua Trung Quốc
Khoá luận tốt nghiệp
Lƣu Thị Bích Ngọc – Nhật 3 K43G 10
đã sửa luật NHTM theo hướng cho phép các NHTM ( công ty mẹ) sở hữu
các công ty tài chính( công ty con) theo mô hình TĐTC khi thiết lập đầy đủ
những cơ chế pháp lý thận trọng cần thiết.
Ở Việt Nam tuy mô hình này còn mới mẻ nhưng với sự hoàn thiện
dần của thị trường tài chính hứa hẹn một sự thay đổi lớn cả về cơ cấu, tổ
chức cũng như quy mô và phạm vi hoạt động.
Tóm lại, mô hình TĐTC với sự phát triển độc lập của hệ thống các
NHTM, công ty chứng khoán, công ty bảo hiểm đang được áp dụng rộng
rãi trên thế giới và chắc chắn sẽ ngày một phát triển mạnh mẽ ở Việt Nam.
2.2. Nguyên tắc hình thành TĐTC
Việc phát triển TĐTC dựa trên nguyên tắc hiệu quả, tự nguyện và
theo quy luật của thị trường. Các nguyên tắc đó là:
1- Phù hợp chính sách và phát triển kinh tế của Nhà nước. Việc hình
thành TĐTC phải có tác động tích cực tới cân bằng tài chính, phù hợp với
mục tiêu kinh doanh và hợp tác đầu tư tài chính
2- Khuyến khích cạnh tranh, hạn chế độc quyền: Đảm bảo cạnh tranh
lành mạnh, nghiêm cấm các hoạt động lũng đoạn thị trường hoặc phong toả
theo khu vực. Phân định rõ chức năng quản lý kinh doanh với các chức năng
quản lý hành chính. TĐTC cần xác định không phải là cơ quan quản lý tài
chính Nhà nước cũng không phải là hiệp hội ngành nghề mà là một tổ chức tài
chính. Mối quan hệ giữa công ty mẹ và các công ty thành viên được thiết lập
trên cơ sở nắm giữ cổ phần, không phải là quan hệ hành chính, áp đặt.
3- Thực hiện nguyên tắc đầu tư tự nguyện, tuân theo các quy luật
kinh tế và các định chế tài chính, không thể lắp ghép bắng các mệnh lệnh
hành chính, tự nguyện góp cổ phần, sợi dây liên kết bằng vốn đảm bảo mối
quan hệ rõ ràng trong nội bộ tập đoàn. Tăng cường vai trò của hệ thống kiểm
soát nội bộ nhằm đảm bảo quỹ đạo chung cho tất cả các đơn vị thành viên.
4- Phối hợp chiến lược kinh doanh trên tất cả các mặt, các chức
năng và ở mọi phương diện. Phối hợp chiến lược khu vực hoá với toàn cầu
Khoá luận tốt nghiệp
Lƣu Thị Bích Ngọc – Nhật 3 K43G 11
hoá, chiến lược mũi nhọn với chiến lược đa dạng hoá. Tăng cường vai trò
trung tâm và sự chi phối của công ty tài chính nhằm hạn chế khả năng bị
thôn tính. Nhiều tập đoàn đã mở rộng quy mô vốn cho ngân hàng hoặc
công ty tài chính trực thuộc và cơ cấu lại danh mục đầu tư cho cả tập đoàn.
2.3. Điều kiện hình thành tập đoàn tài chính
2.3.1. Điều kiện khách quan
Môi trường pháp lý có thể cản trở hoặc thúc đẩy sự hình thành và
phát triển các TĐTC nhất là những quy định pháp lý điều chỉnh hoạt động
tài chính, ngân hàng, chứng khoán. Nói cách khác quá trình hình thành và
phát triển TĐTC diễn ra theo quy luật khách quan, nhưng Chính phủ cũng
đóng vai trò trong việc đưa ra các quyết định và chính sách phát triển dịch
vụ tài chính.
Trình độ phát triển của thị trường dịch vụ tài chính tác động đến khả
năng mở rộng quy mô của TĐTC thông qua các công ty con hay công ty
trực thuộc. Trên thực tế, sự hình thành các TĐTC thường bắt nguồn từ việc
mở rộng các loại hình kinh doanh trong lĩnh vực dịch vụ của ngân hàng
mẹ, từ chỗ chỉ kinh doanh dịch vụ ngân hàng, mở rộng sang dịch vụ bảo
hiểm, chứng khoán,v.v. Mặt khác thị trường tài chính ngày càng phát triển,
khách hàng càng đòi hỏi cao hơn về chất lượng và tiện ích của dịch vụ tài
chính- ngân hàng.
Sự phát triển bùng nổ của công nghệ thông tin cũng là yếu tố và điều
kiện để một tổ chức tài chính phát triển thành TĐTC