Sản xuất ra của cải vật chất là điều kiện cho sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Cùng với xã hội, các hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp đã, đang và sẽ ngày càng được mở rộng, phát triển không ngừng.
Ngày nay, trong điều kiện nền kinh tế thị trường có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước, các doanh nghiệp đang có một môi trường sản xuất kinh doanh thuận lợi: tự do phát triển, tự do cạnh tranh và bình đẳng trước pháp luật, thị trường trong nước được mở cửa; song cũng vấp phải không ít khó khăn từ sự tác động của quy luật cạnh tranh của cơ chế mới. Để vượt qua quá trình chọn lọc, đào thải khắt khe của thị trường, các doanh nghiệp phải giải quyết tốt các vấn đề liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mình, trong đó, việc đẩy mạnh sản xuất và tiêu thụ sản phẩm là vấn đề mang tính sống còn của doanh nghiệp.
Thực hiện sản xuất kinh doanh trong cơ chế thị trường, kế toán là một trong những công cụ quản lý đắc lực ở các doanh nghiệp. Công tác kế toán bao gồm nhiều khâu, nhiều phần hành khác nhau nhưng giữa chúng có mối quan hệ hữu cơ gắn bó tạo thành một hệ thống quản lý hiệu quả. Trong số đó, kế toán tiêu thụ thành phẩm là một mắt xích quan trọng không thể thiếu được. Bởi nó phản ánh tình hình biến động của thành phẩm, quá trình tiêu thụ thành phẩm của doanh nghiệp.
Cùng với kiến thức đã được trang bị ở trường và thời gian thực tập tìm hiểu thực tế công tác kế toán tại Công ty SX&DVXK Nguyễn Hoàng, em đã lựa chọn đề tài: “Hoàn thiện kế toán nghiệp vụ tiêu thụ thành phẩm tại Công ty SX&DVXK Nguyễn Hoàng trong điều kiện vận dụng chuẩn mực kế toán số 14 “Doanh thu và thu nhập khác””
Đề tài được thực hiện nhằm nâng cao kiến thức của bản thân về chế độ kế toán hiện hành nói chung và kế toán nghiệp vụ tiêu thụ thành phẩm nói riêng. Bên cạnh đó, đề tài cũng đã đi sâu vào nghiên cứu kế toán tiêu thụ thành phẩm tại Công ty SX&DVXK Nguyễn Hoàng để thấy được những ưu điểm cũng như tồn tại của Công ty, từ đó đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện nó. Đề tài được nghiên cứu dựa trên phương pháp thu thập tài liệu, quan sát để gắn lý luận với thực tiễn.
91 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2200 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Hoàn thiện kế toán nghiệp vụ tiêu thụ thành phẩm tại công ty sx&dvxk nguyễn hoàng trong điều kiện vận dụng chuẩn mực kế toán số 14 doanh thu và thu nhập khác, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA KẾ TOÁN- TÀI CHÍNH
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
“Hoàn thiện kế toán nghiệp vụ tiêu thụ thành phẩm tại Công ty SX&DVXK Nguyễn Hoàng trong điều kiện vận dụng chuẩn mực kế toán số 14 “Doanh thu và thu nhập khác””
SVTT : BÙI THU HÀ - LỚP HK1C- K2 MỤC LỤC
Trang
LỜI MỞ ĐẦU 01
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ KẾ TOÁN NGHIỆP VỤ TIÊU THỤ THÀNH PHẨM TRONG DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT 03
1.1. Đặc điểm nghiệp vụ tiêu thụ thành phẩm trong doanh nghiệp sản xuất 03
1.1.1. Khái niệm tiêu thụ thành phẩm 03
1.1.2. Các phương pháp tiêu thụ thành phẩm 03
1.1.2.1.Phương thức bán buôn 03
1.1.2.2.Phương thức bán lẻ 04
1.1.2.3.Phương thức giao nhận đại lý 06
1.1.3. Giá bán thành phẩm 06
1.1.4. Các phương pháp xác định giá vốn 07
1.1.5. Phương thức thanh toán 09
1.2. Yêu cầu quản lý và nhiệm vụ kế toán nghiệp vụ tiêu thụ thành phẩm trong doanh nghiệp sản xuất 10
1.2.1. Yêu cầu quản lý kế toán nghiệp vụ tiêu thụ thành phẩm 10
1.2.2. Nhiệm vụ kế toán nghiệp vụ tiêu thụ thành phẩm 11
1.3. Kế toán nghiệp vụ tiêu thụ thành phẩm trong doanh nghiệp sản xuất 12
1.3.1. Kế toán nghiệp vụ tiêu thụ thành phẩm theo quy định của Chuẩn mực kế toán
số 14”Doanh thu và thu nhập khác” 12
1.3.2.Kế toán nghiệp vụ tiêu thụ thành phẩm theo quy định chếđộ kế toán hiện hành 14
1.3.2.1. Tổ chức hạch toán ban đầu 14
1.3.2.2. Tài khoản sử dụng 16
1.3.2.3. Phương pháp hạch toán 19
1.3.2.4. Tổ chức sổ kế toán 23
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG KẾ TOÁN NGHIỆP VỤ TIÊU THỤ THÀNH PHẨM TẠI CÔNG TY SX&DVXK NGUYỄN HOÀNG 29
2.1. Đặc điểm tổ chức quản lý hoạt động kinh doanh và tổ chức công tác kế toán tại Công ty SX&DVXK Nguyễn Hoàng 29
2.1.1. Đặc điểm tổ chức quản lý hoạt động kinh doanh tại Công ty 29
2.1.1.1. Đặc điểm hoạt động kinh doanh 29
2.1.1.2. Đặc điểm tổ chức bộ máy quản lý 31
2.1.2. Đặc điểm tổ chức công tác kế toán tại Công ty 35
2.1.2.1.Đặc điểm tổ chức bộ máy kế toán 35
2.1.2.2. Hình thức kế toán tại Công ty 37
2.2. Thực trạng kế toán nghiệp vụ tiêu thụ thành phẩm tại Công ty SX&DVXK
Nguyễn Hoàng 38
2.2.1. Đặc điểm nghiệp vụ bán hàng tại Công ty 38
2.2.2. Kế toán nghiệp vụ bán hàng tại Công ty 39
2.2.2.1. Tổ chức hạch toán ban đầu 39
2.2.2.2. Tài khoản sử dụng và phương pháp hạch toán 46
2.2.2.3. Tổ chức sổ kế toán 54
CHƯƠNG 3: HOÀN THIỆN KẾ TOÁN NGHIỆP VỤ TIÊU THỤ THÀNH PHẨM TẠI CÔNG TY SX&DVXK NGUYỄN HOÀNG 68
3.1. Đánh giá thực trạng kế toán nghiệp vụ tiêu thụ thành phẩm tại Công ty SX&DVXK Nguyễn Hoàng 68
3.1.1. Ưu điểm 68
3.1.1.1. Về tổ chức hạch toán ban đầu 68
3.1.1.2. Về tài khoản sử dụng và phương pháp hạch toán 69
3.1.1.3. Về tổ chức sổ kế toán 69
3.1.2. Những hạn chế trong công tác kế toán nghiệp vụ tiêu thụ thành phẩm tại Công ty SX&DVXK Nguyễn Hoàng 69
3.2. Sự cần thiết phải hoàn thiện kế toán nghiệp vụ tiêu thụ thành phẩm tại Công ty SX&DVXK Nguyễn Hoàng 71
3.3. Yêu cầu hoàn thiện kế toán nghiệp vụ tiêu thụ thành phẩm 72
3.4. Các giải pháp hoàn thiện kế toán nghiệp vụ tiêu thụ thành phẩm tại Công ty SX&DVXK Nguyễn Hoàng 73
3.4.1. Về tài khoản sử dụng 73
3.4.2. Về phương pháp hạch toán 74
3.4.3. Về tổ chức sổ kế toán 76
3.4.4. Các giải pháp khác 78
KẾT LUẬN 80
TÀI LIỆU THAM KHẢO 81
LỜI MỞ ĐẦU
Sản xuất ra của cải vật chất là điều kiện cho sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Cùng với xã hội, các hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp đã, đang và sẽ ngày càng được mở rộng, phát triển không ngừng.
Ngày nay, trong điều kiện nền kinh tế thị trường có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước, các doanh nghiệp đang có một môi trường sản xuất kinh doanh thuận lợi: tự do phát triển, tự do cạnh tranh và bình đẳng trước pháp luật, thị trường trong nước được mở cửa; song cũng vấp phải không ít khó khăn từ sự tác động của quy luật cạnh tranh của cơ chế mới. Để vượt qua quá trình chọn lọc, đào thải khắt khe của thị trường, các doanh nghiệp phải giải quyết tốt các vấn đề liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mình, trong đó, việc đẩy mạnh sản xuất và tiêu thụ sản phẩm là vấn đề mang tính sống còn của doanh nghiệp.
Thực hiện sản xuất kinh doanh trong cơ chế thị trường, kế toán là một trong những công cụ quản lý đắc lực ở các doanh nghiệp. Công tác kế toán bao gồm nhiều khâu, nhiều phần hành khác nhau nhưng giữa chúng có mối quan hệ hữu cơ gắn bó tạo thành một hệ thống quản lý hiệu quả. Trong số đó, kế toán tiêu thụ thành phẩm là một mắt xích quan trọng không thể thiếu được. Bởi nó phản ánh tình hình biến động của thành phẩm, quá trình tiêu thụ thành phẩm của doanh nghiệp.
Cùng với kiến thức đã được trang bị ở trường và thời gian thực tập tìm hiểu thực tế công tác kế toán tại Công ty SX&DVXK Nguyễn Hoàng, em đã lựa chọn đề tài: “Hoàn thiện kế toán nghiệp vụ tiêu thụ thành phẩm tại Công ty SX&DVXK Nguyễn Hoàng trong điều kiện vận dụng chuẩn mực kế toán số 14 “Doanh thu và thu nhập khác””
Đề tài được thực hiện nhằm nâng cao kiến thức của bản thân về chế độ kế toán hiện hành nói chung và kế toán nghiệp vụ tiêu thụ thành phẩm nói riêng. Bên cạnh đó, đề tài cũng đã đi sâu vào nghiên cứu kế toán tiêu thụ thành phẩm tại Công ty SX&DVXK Nguyễn Hoàng để thấy được những ưu điểm cũng như tồn tại của Công ty, từ đó đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện nó. Đề tài được nghiên cứu dựa trên phương pháp thu thập tài liệu, quan sát để gắn lý luận với thực tiễn.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, chuyên đề tốt nghiệp của em gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận cơ bản về kế toán nghiệp vụ tiêu thụ thành phẩm trong doanh nghiệp sản xuất.
Chương 2: Thực trạng kế toán nghiệp vụ tiêu thụ thành phẩm tại Công ty SX&DVXK Nguyễn Hoàng.
Chương 3: Hoàn thiện kế toán nghiệp vụ tiêu thụ thành phẩm tại Công ty SX & DV XK Nguyễn Hoàng.
Mặc dù đã hết sức cố gắng nhưng do hạn chế về thời gian, kiến thức cũng như kinh nghiệm thực tiễn nên những thông tin em thu nhận được mới chỉ là những thông tin sơ lược nhất về Công ty và cách giải quyết các vấn đề thực tiễn đặt ra vẫn chưa hoàn toàn thấu đáo.
Trong quá trình thực tập tại Công ty, em đã nhận được sự hướng dẫn nhiệt tình, chu đáo của cô giáo Nguyễn Phú Giang và sự giúp đỡ của các cô chú phòng kế toán tài chính Công ty SX&DVXK Nguyễn Hoàng.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà nội tháng 11 năm 2007
Sinh viên thực hiện
BÙI THU HÀ
CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ KẾ TOÁN NGHIỆP VỤ TIÊU THỤ THÀNH PHẨM TRONG DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT
1.1. ĐẶC ĐIỂM NGHIỆP VỤ TIÊU THỤ THÀNH PHẨM TRONG DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT
1.1.1. Khái niệm tiêu thụ thành phẩm
Trong doanh nghiệp sản xuất, tiêu thụ thành phẩm (hay còn gọi là bán hàng) là quá trình trao đổi để thực hiện giá trị của sản phẩm tức là chuyển hoá vốn của doanh nghiệp từ hình thái hiện vật sang hình thái giá trị. Tiêu thụ là khâu cuối cùng của chu trình sản xuất. Hàng đem đi tiêu thụ có thể là tập đoàn,.. thì gọi là tiêu thụ nội bộ.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, điều quan trọng và mối quan tâm hàng đầu của các doanh nghiệp là sản phẩm, hàng hoá của mình phải tiêu thụ được trên thị trường, được thị trường chấp nhận về các phương diện: giá cả, chất lượng, mẫu mã,.. Đây là vấn đề sống còn quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Quá trình tiêu thụ thành phẩm hoàn tất khi hàng hoá được chuyển giao cho người mua và doanh nghiệp đã thu tiền hàng hoặc khách hàng chấp nhận thanh toán.
1.1.2. Các phương thức tiêu thụ thành phẩm
Kết quả tiêu thụ thành phẩm trong doanh nghiệp sản xuất phụ thuộc vào việc sử dụng các hình thức, phương pháp và thủ thuật bán hàng, thiết lập và sử dụng hợp lý các kênh tiêu thụ, có chính sách đúng đắn, thực hiện tốt kế hoạch tiêu thụ hàng hóa của doanh nghiệp. Có nhiều phương thức bán hàng khác nhau, song có 3 phương thức bán hàng chủ yếu được áp dụng là bán buôn, bán lẻ và bán hàng đại lý.
1.1.2.1. Phương thức bán buôn:
Bán buôn là phương thức bán hàng cho người trung gian như các tổ chức kinh tế, các đơn vị thương mại hay các đơn vị sản xuất để họ tiếp tục chuyển bán hoặc tiếp tục gia công chế tạo sản phẩm mới.
Việc mua bán hàng hoá qua phương thức này thường được thực hiện thông qua các hợp đồng mua bán hàng hoá. Đặc điểm của phương thức bán buôn là hàng hoá sau khi bán vẫn còn trong khâu lưu thông, chưa đến tay người tiêu dùng cuối cùng. Khối lượng tiêu thụ tương đối lớn, bán theo từng lô.
Trong doanh nghiệp sản xuất thì chỉ áp dụng hình thức bán buôn qua kho. Đây là hình thức bán hàng mà hàng hoá phải xuất phát từ kho của doanh nghiệp. Bán buôn qua kho có 2 hình thức:
- Bán buôn trực tiếp qua kho: theo hình thức này, doanh nghiệp xuất hàng từ kho giao trực tiếp cho người do bên mua uỷ nhiệm đến nhận hàng từ kho của doanh nghiệp. Sau khi đại diện bên mua nhận đủ hàng, thanh toán tiền hàng hoặc chấp nhận nợ, hàng hoá được xác định là tiêu thụ. Khi đó, quyền sở hữu hàng hoá chuyển từ người bán sang người mua, mọi tổn thất mất mát trong quá trình vận chuyển do bên mua chịu trách nhiệm.
- Bán hàng qua kho theo phương thức chuyển hàng: theo hình thức này, doanh nghiệp xuất hàng từ kho, chuyển hàng đến cho bên mua tại địa điểm đã quy định theo hợp đồng bằng phương tiện vận tải tự có hoặc thuê ngoài. Chi phí vận chuyển do sự thoả thuận từ trước của hai bên. Nếu chi phí này do doanh nghiệp chịu thì được ghi nhận vào chi phí vận chuyển, nếu không thì sẽ thu tiền của bên mua. Hàng gửi đi bán vẫn thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp, khi nào bên mua ký nhận thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán thì số hàng gửi bán đó được coi là đã tiêu thụ.
1.1.2.2. Phương thức bán lẻ:
Bán lẻ là phương thức bán hàng trực tiếp cho người tiêu dùng, cho các tổ chức kinh tế, tập thể mua với hình thức tiêu dùng. Phương thức này có đặc điểm là khối lượng hàng hoá bán nhỏ nhưng rất đa dạng về chủng loại và mẫu mã. Sau khi hoạt động mua bán diễn ra, hàng hoá tách khỏi lĩnh vực lưu thông, đi vào lĩnh vực tiêu dùng, giá trị hàng hoá được thực hiện, bắt đầu vòng chu chuyển mới của hàng hoá.
Nếu phân loại theo hình thức phục vụ, bán lẻ có thể thực hiện dưới các hình thức sau:
+ Bán lẻ thu tiền trực tiếp: theo hình thức này, nhân viên bán hàng hoàn toàn chịu trách nhiệm vật chất về số lượng hàng đã nhận bán ở quầy. Nhân viên bán hàng trực tiếp thu tiền của khách và giao hàng cho khách. Nghiệp vụ bán hàng hoàn thành khi giao hàng cho khách mà không cần lập hoá đơn chứng từ cho từng nghiệp vụ bán hàng. Hết ca, hết ngày bán hàng, nhân viên bán hàng làm giấy nộp tiền và nộp tiền cho thủ quỹ. Đồng thời kiểm kê hàng hoá tồn quầy để xác định số lượng hàng đã bán trong ca, trong ngày và lập báo cáo bán hàng. Theo hình thức này, khách hàng không mất thời gian chờ thanh toán nhưng đòi hỏi nhân viên bán hàng phải có nghiệp vụ vững vàng, nhanh nhẹn, hoạt bát, có trách nhiệm cao để tránh tình trạng nhầm lẫn, mất mát khi đông khách.
+ Bán hàng thu tiền tập trung: Theo hình thức này, việc thu tiền của khách hàng và giao hàng cho khách hàng tách rời nhau. Mỗi quầy hàng sẽ có một nhân viên thu tiền, viết hoá đơn hoặc tích kê cho khách, khách hàng sẽ mang hoá đơn đó đến nhận hàng tại quầy hàng, trả lại hoá đơn, tích kê cho nhân viên bán hàng tại quầy. Cuối ca, hoặc cuối ngày, nhân viên thu tiền làm giấy nộp tiền bán hàng, còn nhân viên bán hàng tại quầy căn cứ vào hoá đơn hoặc tích kê giao hàng cho khách, xác định lượng hàng hoá đã bán, lập báo cáo bán hàng trong ca hoặc trong ngày. Hình thức này quản lý chặt chẽ tiền hàng nhưng không thuận tiện cho người mua nên chỉ hay áp dụng cho các loại hàng hoá có giá trị cao.
+ Bán lẻ tự phục vụ: theo hình thức này, khách hàng tự chọn hàng hoá, bỏ vào giỏ đựng hàng. Nhân viên bán hàng chỉ có trách nhiệm hướng dẫn, tư vấn cho khách hàng, bảo quản hàng hoá ở quầy hàng do mình phụ trách. Khi ra về, khách hàng sẽ nhận hoá đơn, thanh toán tiền hàng ở quầy thu ngân. Hình thức này ngày càng thể hiện tính ưu việt cao, thuận lợi cho người mua hàng.
+ Bán hàng tự động: Đây là phương thức bán lẻ đặc biệt, khi các doanh nghiệp sử dụng các máy bán hàng tự động chuyên dùng cho một hoặc một số loại hàng hoá nào đó, đặt tại các địa điểm công cộng. Sau khi người mua bỏ tiền, thường là tiền bằng kim loại vào máy, máy sẽ tự động đẩy hàng về phía người mua. Hình thức này rất phù hợp với công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tuy nhiên chưa áp dụng phổ biến tại Việt Nam.
Nếu phân loại theo hình thức thanh toán, bán lẻ có 2 hình thức thể hiện sau:
+ Bán hàng thu tiền một lần: theo hình thức này, người mua sẽ phải thanh toán tiền hàng một lần duy nhất, đúng bằng giá trị hàng hoá mua. Phương thức bán hàng này được áp dụng một cách rất phổ biến, rộng rãi trong bán lẻ, đặc biệt là đối với hàng hoá có giá trị thấp.
+ Bán trả góp: Theo hình thức này, người mua được thanh toán tiền hàng làm nhiều lần. Người mua ngoài số tiền trả theo giá bán thông thường, còn phải trả thêm một khoản lãi do trả chậm. Hình thức này giúp doanh nghiệp đẩy mạnh, tăng cường khối lượng hàng bán ra, nhưng thời gian thu hồi chậm. Hình thức này thường áp dụng cho các hàng hoá có giá trị lớn, người mua có thu nhập tương đối thấp.
1.1.2.3. Phương thức bán hàng giao nhận đại lý
Giao nhận đại lý là phương thức bán hàng mà trong đó bên chủ hàng (bên giao đại lý) xuất hàng giao cho bên bán, bên ký gửi (bên nhận đại lý) để các đơn vị này trực tiếp bán hàng và nhận tiền hàng. Bên nhận đại lý thường được hưởng hoa hồng hoặc chênh lệch giá bán. Số hàng giao cho cơ sở đại lý thanh toán tiền hàng hoặc chấp nhận thanh toán về số lượng hàng hoá đã bán được thì bên giao đại lý mới mất quyền sở hữu số hàng đó.
Khi phát sinh nghiệp vụ này, hai bên phải tiến hành ký kết hợp đồng, xác định rõ mặt hàng giao đại lý, giá bán chưa thuế GTGT, thuế GTGT, tỷ lệ hoa hồng bên nhận đại lý được hưởng, phương thức thanh toán và phương thức giao nhận, đồng thời quy định rõ quyền lợi và nghĩa vụ của từng bên.
- Đối với bên giao đại lý:
+Tổ chức theo dõi tiền hàng giao đại lý theo từng cơ sở từ khi giao đến khi xác định là đã tiêu thụ.
+Thanh toán đầy đủ tiền hoa hồng cho bên nhận đại lý, được ghi nhận vào chi phí bán hàng trong kỳ.
- Đối với bên nhận đại lý:
+Tổ chức quản lý số hàng nhận đại lý và bán số hàng đó.
+Sau khi bán phải thanh toán đầy đủ cho bên giao địa lý và nhận được tiền hoa hồng của mình, ghi nhận vào doanh thu trong kỳ.
1.1.3. Giá bán thành phẩm
Mục đích hoạt động của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường là lợi nhuận. Cũng như nhãn hiệu, bao gói, những đặc trưng kỹ thuật, giá cả là một yếu tố cực kỳ quan trọng góp phần tạo ra trong suy nghĩ người tiêu dùng hình ảnh về sản phẩm. Thông thường người tiêu dùng chấp nhận một mức giá nào đó phù hợp với chất lượng sản phẩm. Giá cả ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn chi phí và lợi nhuận cho doanh nghiệp.
Giá bán của thành phẩm được xác định bằng giá thành sản xuất cộng với một phần nhằm bù đắp chi phí và hình thành một khoản lãi nhất định, phần đó được gọi là thặng số thương mại.
Giá bán của thành phẩm được tính theo công thức:
Giá bán = Giá thành thực tế x (1 + % thặng số )
Trong đó, giá thành thực tế được xác định như sau:
+Đối với thành phẩm do doanh nghiệp tự sản xuất: giá thành thực tế bao gồm chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp và chi phí sản xuất chung
+Đối với những thành phẩm nhận gia công chế biến: giá thành thực tế bao gồm chi phí vật liệu phụ, chi phí nhân công và các chi phí khác có liên quan trực tiếp đến quá trình gia công.
Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp được toàn quyền xác định giá bán cho sản phẩm. Do đó, tỷ lệ phần trăm thặng số luôn biến động linh hoạt phù hợp với thị trường. Doanh nghiệp cần phải nghiên cứu kỹ thị trường khi xác định giá bán cho sản phẩm. Nếu đặt giá quá thấp có thể gây nghi ngờ cho người tiêu dùng về chất lượng sản phẩm. Còn với mức giá quá cao thì khó thu hút được khách hàng. Vì vậy, việc xác định đúng đắn giá cả sản phẩm sẽ giúp cho doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả, chiếm lĩnh được thị trường.
1.1.4. Các phương pháp xác định giá vốn
Các doanh nghiệp có thể tuỳ theo đặc điểm của thành phẩm, tình hình quản lý của mình để lựa chọn phương pháp hạch toán thích hợp nhưng phải đảm bảo áp dụng nhất quán từ kỳ này sang kỳ khác. Về nguyên tắc, thành phẩm phải được đánh giá theo trị giá vốn thực tế. Song, trong quá trình hạch toán, doanh nghiệp có thể sử dụng 2 cách đánh giá thành phẩm xuất kho: theo giá thực tế hoặc theo giá hạch toán.
*Đánh giá thành phẩm theo giá thực tế:
Theo cách này, trị giá của thành phẩm phản ánh trong kế toán tổng hợp phải được đánh giá theo giá thực tế theo một trong các phương pháp sau:
+Phương pháp tính theo giá đích danh: Phương pháp này dựa trên giá trị thực tế của từng thứ sản phẩm sản xuất ra nên chỉ áp dụng cho các doanh nghiệp có ít mặt hàng hoặc mặt hàng ổn định và nhận diện được.
+Phương pháp bình quân gia quyền: Theo phương pháp này, giá trị của từng loại hàng tồn kho được tính theo giá trị trung bình của từng loại hàng tồn kho đầu kỳ và giá trị từng loại hàng tồn kho được sản xuất trong kỳ. Giá trị trung bình có thể được tính theo từng kỳ hoặc sau từng lô hàng nhập về, phụ thuộc vào điều kiện cụ thể của mỗi doanh nghiệp.
+Phương pháp nhập trước, xuất trước (FIFO): Phương pháp này dựa trên giả định là giá trị hàng tồn kho còn lại cuối kỳ là giá trị hàng tồn kho được mua hoặc sản xuất gần thời điểm cuối kỳ. Giá trị hàng xuất kho trong kỳ được tính theo giá trị của lô hàng nhập kho ở thời điểm đầu kỳ hoặc gần đầu kỳ, giá trị của hàng tồn kho cuối kỳ được tính theo giá của hàng nhập kho ở thời điểm cuối kỳ hoặc gần cuối kỳ còn tồn kho.
+Phương pháp nhập sau, xuất trước (LIFO): Phương pháp này dựa trên giả định là giá trị hàng tồn kho được mua hoặc được sản xuất sau thì được xuất trước và giá trị hàng tồn kho còn lại cuối kỳ là giá trị hàng tồn kho được mua hoặc sản xuất trước đó. Theo phương pháp này thì giá trị hàng xuất kho được tính theo giá của lô hàng nhập sau hoặc gần sau cùng, giá trị hàng tồn kho được tính theo giá của hàng nhập kho đầu kỳ hoặc gần đầu kỳ còn tồn kho.
*Đánh giá thành phẩm theo giá hạch toán:
Do sự biến động thường xuyên và do cả việc xác định giá thực tế của thành phẩm sản xuất ra chỉ thực hiện được khi kết thúc chu kỳ sản xuất nên để ghi chép kịp thời giá trị thành phẩm nhập, xuất, doanh nghiệp có thể sử dụng một loại giá ổn định trong một thời gian dài. Đó là giá hạch toán. Giá có thể chọn hoặc làm cơ sở xây dựng giá hạch toán là giá thành kế hoạch hay giá thành thực tế của một kỳ nào đó. Cuối kỳ, tổng hợp giá thành thực tế thành phẩm nhập kho, xác định hệ số giá từng loại thành phẩm và tính thành thành phẩm xuất kho
1.1.5. Các phương thức và hình thức thanh toán.
Phương thức bán hàng trong thương mại thể hiện sự tín nhiệm, hiểu biết lẫn nhau của hai bên, đồng thời điều đó cũng nói lên sự vận động giữa hàng hoá và tiền vốn, đảm bảo cho hai bên cùng có lợi. Do đó, tuỳ thuộc vào mục đích, giá trị lô hàng bán, mức độ thường xuyên trong quan hệ mua bán, mức độ tín nhiệm lẫn nhau mà doanh nghiệp và người mua có thể lựa chọn sử dụng các phương thức, hình thức thanh toán khác nhau.
*Các phương thức thanh toán:
-Thanh toán ngay: là phương thức thanh toán mà đặc trưng cơ bản của nó là khoảng thời gian từ lúc thực hiện hợp đồng kinh tế đến lúc thanh toán tiền hàng là rất ngắn, sự vận động của hàng hoá gắn liền với sự vận đồng của tiền tệ. Phương thức này thường được sử dụng trong bán lẻ hàng hoá, thương vụ nhỏ, số tiền không quá lớn. Do vậy, đảm bảo khả năng thu hồi vốn nhanh, tránh được rủi ro trong thanh toán cho người bán.
-Thanh toán trả chậm: là phương thức thanh toán mà sau khi nhận hàng từ người bán, người mua không thanh toán ngay mà ký nhận nợ. Từ đó hình thành khoản công nợ phải thu của người mua. Ở hình thức này sự vận động của hàng hoá và tiền tệ có khoảng cách về không gian và thời gian. Phương thức này thường được áp dụng phổ biến trong hầu hết các giao dịch thương mại nhưng nó đem lại rủi ro cho người bán nếu không có sự tín nhiệm lẫn nhau.
*Các hình thức thanh toán:
-Hình thức thanh toán dùng tiền mặt: là hình thức thanh toán trực tiếp giữa người mua và người bán. Đây là phương thức được áp dụng phổ biến, rộng rãi trong bán lẻ hoặc thanh toán với những đối tác không có tư cách pháp nhân. Tuy nhiên,