1. Sự cần thiết của đề tài nghiên cứu
Việt Nam đang bước dài trên con đường hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Những chuyển biến quan trọng trong vài năm gần đây đã đưa nước ta đến với nhiều cơ hội và thách thức mới. Trong xu thế toàn cầu hoá đó, kiểm toán đã không còn là một khái niệm mới mẻ. Dần dần, kiểm toán, nhất là kiểm toán báo cáo tài chính, đã trở thành một bộ phận không thể thiếu của bất kỳ một hoạt động kinh doanh nào. Về thực chất, hoạt động kiểm toán Báo cáo tài chính là quá trình thu thập và đánh giá các bằng chứng về các Báo cáo tài chính dựa trên các cơ sở dẫn liệu của chúng. Theo Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam VSA 500: “Bằng chứng kiểm toán là tất cả các tài liệu, thông tin do kiểm toán viên thu thập được liên quan đến cuộc kiểm toán và dựa trên các thông tin này kiểm toán viên hình thành nên ý kiến của mình”. Các loại bằng chứng kiểm toán khác nhau sẽ ảnh hưởng khác nhau đến kết luận trên báo cáo kiểm toán. Do đó, kiểm toán viên và công ty kiểm toán cần nhận thức được vai trò của mỗi loại bằng chứng để có thể thu thập và đánh giá một cách đầy đủ và hợp lý nhất, từ đó đưa ra được ý kiến phù hợp về báo cáo tài chính được kiểm toán. Có thể nói, sự thành công của một cuộc kiểm toán phụ thuộc trước hết vào việc thu thập và sau đó là đánh giá bằng chứng kiểm toán của KTV.
Xuất phát từ mục tiêu đó, kiểm toán viên phải sử dụng các phương pháp kỹ thuật để thu thập các bằng chứng kiểm toán thích hợp và đầy đủ trong suốt quá trình thực hiện kiểm toán của mình. Các kỹ thuật thu thập bằng chứng kiểm toán bao gồm: kiểm tra đối chiếu, quan sát, điều tra - phỏng vấn, xác nhận, tính toán, phân tích. Những gì học được trên ghế nhà trường chỉ là khung lí thuyết chung nhất về các kỹ thuật thu thập bằng chứng kiểm toán. Thực tế, mỗi công ty kiểm toán lại vận dụng các kỹ thuật này rất khác nhau. Từ những kiến thức đã được học và được có được cơ hội thực tập tại phòng Kiểm toán Báo cáo tài chính của công ty Kiểm toán và kế toán AAC, đây là điều kiện tốt để cho tôi có thể đi sâu nghiên cứu để hiểu rõ việc vận dụng các kỹ thuật thu thập bằng chứng, từ đó có sự so sánh, làm rõ giữa lí thuyết và thực tế.
Từ đó, tôi đã chọn đề tài “Hoàn thiện kỹ thuật thu thập bằng chứng kiểm toán trong kiểm toán BCTC tại Công ty TNHH Kiểm toán và Kế toán AAC” cho luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Mục tiêu
Đề tài nghiên cứu nhằm các mục đích sau:
Thứ nhất: Hệ thống hóa về mặt lý luận về bản chất của bằng chứng kiểm toán và các kỹ thuật thu thập bằng chứng kiểm toán trong kiểm toán báo cáo tài chính.
Thứ hai: Tìm hiểu thực tế việc vận dụng các kỹ thuật thu thập bằng chứng kiểm toán của công ty TNHH Kiểm toán & Kế toán AAC tại khách hàng của công ty.
Thứ ba: Nhận xét và đề xuất giải pháp nhằm khắc phục các hạn chế góp phần hoàn thiện các kỹ thuật thu thập bằng chứng kiểm toán tại Công ty Kiểm toán & Kế toán AAC.
96 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 5503 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Hoàn thiện kỹ thuật thu thập bằng chứng kiểm toán trong kiểm toán BCTC tại Công ty TNHH Kiểm toán và Kế toán AAC, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phần I: Đặt vấn đề
Sự cần thiết của đề tài nghiên cứu
Việt Nam đang bước dài trên con đường hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Những chuyển biến quan trọng trong vài năm gần đây đã đưa nước ta đến với nhiều cơ hội và thách thức mới. Trong xu thế toàn cầu hoá đó, kiểm toán đã không còn là một khái niệm mới mẻ. Dần dần, kiểm toán, nhất là kiểm toán báo cáo tài chính, đã trở thành một bộ phận không thể thiếu của bất kỳ một hoạt động kinh doanh nào. Về thực chất, hoạt động kiểm toán Báo cáo tài chính là quá trình thu thập và đánh giá các bằng chứng về các Báo cáo tài chính dựa trên các cơ sở dẫn liệu của chúng. Theo Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam VSA 500: “Bằng chứng kiểm toán là tất cả các tài liệu, thông tin do kiểm toán viên thu thập được liên quan đến cuộc kiểm toán và dựa trên các thông tin này kiểm toán viên hình thành nên ý kiến của mình”. Các loại bằng chứng kiểm toán khác nhau sẽ ảnh hưởng khác nhau đến kết luận trên báo cáo kiểm toán. Do đó, kiểm toán viên và công ty kiểm toán cần nhận thức được vai trò của mỗi loại bằng chứng để có thể thu thập và đánh giá một cách đầy đủ và hợp lý nhất, từ đó đưa ra được ý kiến phù hợp về báo cáo tài chính được kiểm toán. Có thể nói, sự thành công của một cuộc kiểm toán phụ thuộc trước hết vào việc thu thập và sau đó là đánh giá bằng chứng kiểm toán của KTV.
Xuất phát từ mục tiêu đó, kiểm toán viên phải sử dụng các phương pháp kỹ thuật để thu thập các bằng chứng kiểm toán thích hợp và đầy đủ trong suốt quá trình thực hiện kiểm toán của mình. Các kỹ thuật thu thập bằng chứng kiểm toán bao gồm: kiểm tra đối chiếu, quan sát, điều tra - phỏng vấn, xác nhận, tính toán, phân tích. Những gì học được trên ghế nhà trường chỉ là khung lí thuyết chung nhất về các kỹ thuật thu thập bằng chứng kiểm toán. Thực tế, mỗi công ty kiểm toán lại vận dụng các kỹ thuật này rất khác nhau. Từ những kiến thức đã được học và được có được cơ hội thực tập tại phòng Kiểm toán Báo cáo tài chính của công ty Kiểm toán và kế toán AAC, đây là điều kiện tốt để cho tôi có thể đi sâu nghiên cứu để hiểu rõ việc vận dụng các kỹ thuật thu thập bằng chứng, từ đó có sự so sánh, làm rõ giữa lí thuyết và thực tế.
Từ đó, tôi đã chọn đề tài “Hoàn thiện kỹ thuật thu thập bằng chứng kiểm toán trong kiểm toán BCTC tại Công ty TNHH Kiểm toán và Kế toán AAC” cho luận văn tốt nghiệp của mình.
Mục tiêu
Đề tài nghiên cứu nhằm các mục đích sau:
v Thứ nhất: Hệ thống hóa về mặt lý luận về bản chất của bằng chứng kiểm toán và các kỹ thuật thu thập bằng chứng kiểm toán trong kiểm toán báo cáo tài chính.
v Thứ hai: Tìm hiểu thực tế việc vận dụng các kỹ thuật thu thập bằng chứng kiểm toán của công ty TNHH Kiểm toán & Kế toán AAC tại khách hàng của công ty.
v Thứ ba: Nhận xét và đề xuất giải pháp nhằm khắc phục các hạn chế góp phần hoàn thiện các kỹ thuật thu thập bằng chứng kiểm toán tại Công ty Kiểm toán & Kế toán AAC.
3. Phương pháp nghiên cứu
3.1. Phương pháp thu thập số liệu
Thu thập, nghiên cứu các chuẩn mực, chế độ kế toán và kiểm toán Việt Nam hiện hành cùng các tài liệu chuyên khảo có liên quan như giáo trình, sách báo về kỹ thuật thu thập bằng chứng kiểm toán trong kiểm toán BCTC.
Thu thập các tài liệu, hồ sơ năm trước liên quan tới kỹ thuật thu thập bằng chứng kiểm toán trong trong kiểm toán báo cáo tài chính tại Công ty TNHH Kiểm toán và Kế toán AAC.
Quan sát quá trình các KTV tiến hành thu thập bằng chứng kiểm toán và phỏng vấn KTV về quy trình tiến hành thu thập bằng chứng kiểm toán trong thực tế.
Trực tiếp tham gia quy trình kiểm toán với vai trò Trợ lý Kiểm toán viên.
3.2. Phương pháp xử lý số liệu
Sau khi thu thập số liệu, người viết tiến hành phân tích, tổng hợp, đối chiếu số liệu cũng như vận dụng các kiến thức và kinh nghiệm thực tế có được về kỹ thuật thu thập bằng chứng kiểm toán để từ đó có cái nhìn khái quát về vấn đề nghiên cứu.
Giới hạn và phạm vi nghiên cứu
a, Nội dung thực hiện: Do giới hạn về thời gian và không gian nên đề tài chỉ nghiên cứu việc sử dụng kỹ thuật thu thập bằng chứng kiểm toán do các kiểm toán viên của công ty Kiểm toán và Kế toán AAC đang áp dụng tại khách hàng là công ty cổ phần đường ABC.
c, Không gian: Đề tài được thực hiện tại Công ty TNHH Kiểm toán và Kế toán AAC.
d, Thời gian:
Số liệu thực hiện tại Công ty cổ phần đường ABC cho năm tài chính kết thúc vào ngày 31/12/2010. Thời gian nghiên cứu bắt đầu từ ngày 15/01/2011 đến ngày 15/04/2011.
Giá trị của đề tài
Đề tài “Hoàn thiện kỹ thuật thu thập bằng chứng kiểm toán trong kiểm toán BCTC tại Công ty TNHH Kiểm toán và Kế toán AAC” thực hiện mang lại kết quả sau:
- Về mặt khoa học: Đề tài được thực hiện dựa trên cơ sở nghiên cứu một cách tổng quát các vấn đề lý luận liên quan đến: bằng chứng kiểm toán, vai trò của bằng chứng kiểm toán, các kỹ thuật thu thập bằng chứng kiểm toán trong kiểm toán BCTC… Những vấn đề này sẽ giúp người đọc nắm bắt về bằng chứng kiểm toán và các kỹ thuật để thu thập bằng chứng kiểm toán một cách chung nhất, tổng quát nhất. Đồng thời đây cũng chính là tiền đề giúp người đọc tiếp cận thực tế về việc áp dụng các kỹ thuật thu thập bằng chứng kiểm toán trong quy trình thực hiện kiểm toán BCTC thực hiện tại đơn vị khách hàng mà công ty TNHH Kiểm toán và Kế toán AAC đã thực hiện.
- Về mặt thực tiễn: Đề tài tập trung vào việc áp dụng các kỹ thuật thu thập bằng chứng kiểm toán của Công ty TNHH Kiểm toán và Kế toán AAC tại một đơn vị khách hàng. Trong quá trình đọc và tiếp cận thực tế người đọc có thể nhận thấy một số điểm khác biệt giữa các vấn đề lý luận và các vấn đề thực tế, điều này được làm rõ trong các giải pháp mà đề tài đưa ra, nhằm hoàn thiện hơn các kỹ thuật thu thập bằng chứng kiểm toán tại Công ty TNHH Kiểm toán và Kế toán AAC. Chính vì vậy, đề tài được thực hiện mang tính thực tiễn rất cao, là nền tảng cho những nghiên cứu liên quan được thực hiện tại trường Đại học Kinh tế Huế.
Cấu trúc đề tài
Ngoài các phần Mở đầu và Kết luận, Luận văn gồm có 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về kỹ thuật thu thập bằng chứng trong kiểm toán BCTC.
Chương 2: Thực tế vận dụng kỹ thuật thu thập bằng chứng trong quá trình kiểm toán Báo cáo tài chính do công ty Kiểm toán và kế toán AAC thực hiện
Chương 3: Đánh giá và một số đề xuất nhằm góp phần hoàn thiện kĩ thuật kỹ thuật thu thập bằng chứng trong quá trình kiểm toán Báo cáo tài chính do công ty Kiểm toán và kế toán AAC thực hiện.
Phần II: Nội dung và kết quả nghiên cứu
Chương I: Cơ sở lý luận về kỹ thuật thu thập bằng chứng trong kiểm toán BCTC
Tổng quan về kiểm toán BCTC
Khái niệm kiểm toán BCTC
“Kiểm toán là quá trình thu thập và đánh giá bằng chứng về những thông tin được kiểm tra nhằm xác định và báo cáo về mức độ phù hợp giữa những thông tin đó với các chuẩn mực đã được thiết lập. Quá trình kiểm toán phải được thực hiện bởi các KTV đủ năng lực và độc lập” [1].
Căn cứ theo mục đích kiểm toán thì kiểm toán được chia thành: Kiểm toán hoạt động, Kiểm toán tuân thủ và Kiểm toán BCTC. Trong đó, kiểm toán báo cáo tài chính là một hoạt động đặc trưng của kiểm toán, với mục tiêu cụ thể là“đưa ra ý kiến xác nhận rằng Báo cáo tài chính có được lập trên cơ sở chuẩn mực và chế độ kế toán hiện hành (hoặc được chấp nhận), có tuân thủ pháp luật liên quan, có phản ánh trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu hay không” [4].
Đối tượng trực tiếp của kiểm toán Báo cáo tài chính là các Bảng khai tài chính, Báo cáo tài chính được định nghĩa trong Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam 200/4 như sau: “Báo cáo tài chính là hệ thống các báo cáo được lập theo chuẩn mực và chế độ kế toán hiện hành (hoặc được chấp nhận) phản ánh các thông tinh kinh tế, tài chính chủ yếu của đơn vị.”
Mục tiêu
Kiểm toán BCTC nhằm hướng đến hai mục tiêu:
Ø Làm cơ sở giúp KTV đưa ra ý kiến xác nhận rằng BCTC có được lập trên cơ sở chuẩn mực và chế độ kế toán hiện hành, tuân thủ pháp luật liên quan và có phản ánh trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu hay không?
Ø Làm cơ sở giúp cho đơn vị được kiểm toán thấy rõ những tồn tại, sai sót để khắc phục nhằm nâng cao chất lượng thông tin tài chính của đơn vị [4].
Vai trò
Ø Đối với đơn vị được kiểm toán, kiểm toán BCTC góp phần nâng cao độ tin cậy BCTC của đơn vị và nâng cao chất lượng thông tin tài chính của đơn vị.
BCTC là hệ thống báo cáo được lập theo chuẩn mực và chế độ kế toán hiện hành hoặc được chấp nhận nhằm trình bày bức tranh thông tin về kế toán tài chính chủ yếu của đơn vị. Việc lập BCTC là trách nhiệm của đơn vị. Kiểm toán BCTC được thực hiện bởi các KTV đủ năng lực và độc lập nhằm đưa ra ý kiến về BCTC. Do đó, báo cáo kiểm toán chấp nhận toàn phần sẽ góp phần nâng cao độ tin cậy của thông tin trên BCTC.
Trong quá trình kiểm toán, KTV cũng sẽ phát hiện những thiếu sót, những điểm tồn tại của bộ máy kế toán tài chính của đơn vị. Từ đó, kiểm toán viên sẽ góp ý nhằm hoàn thiện bộ máy này nhằm nâng cao chất lượng thông tin kế toán tài chính của đơn vị.
Ø Đối với người sử dụng thông tin, kiểm toán BCTC là căn cứ quan trọng để những người sử dụng thông tin BCTC có thể đưa ra các quyết định kinh tế chính xác.
Dựa vào BCTC đơn vị, các đối tượng sử dụng thông tin tài chính của đơn vị như chủ nợ, ngân hàng, nhà đầu tư, cơ quan chức năng... đưa ra các quyết định kinh tế quan trọng như tiếp tục cho vay vốn, mua cổ phiếu, thu thuế...
Ø Đối với tổng thể nền kinh tế, kiểm toán BCTC góp phần củng cố và nâng cao hiệu quả hoạt động kế toán tài chính nói riêng và quản lý kinh tế nói chung.
Hoạt động kế toán tài chính bao gồm rất nhiều mối quan hệ kinh tế đa dạng và phức tạp, thường xuyên biến đổi và cấu thành bởi hàng loạt nghiệp vụ cụ thể. Để hướng các nghiệp vụ này theo các chuẩn mực và quy định hiện hành, ngoài việc định hướng và thực hiện tốt các định hướng thì cần phải thường xuyên thực hiện việc soát xét quá trình thực hiện để hướng các nghiệp vụ vào quỹ đạo mong muốn.
Khái quát về một qui trình kiểm toán BCTC
Quy trình kiểm toán BCTC có thể phân thành ba giai đoạn chính là chuẩn bị, thực hiện và hoàn thành kiểm toán:
Ø Giai đoạn chuẩn bị kiểm toán bao gồm:
-Tiền kế hoạch là quá trình kiểm toán tiếp cận với khách hàng nhằm thu thập những thông tin cần thiết nhằm giúp cho họ hiểu về nhu cầu của khách hàng, đánh giá khả năng phục vụ... Theo đó, hai bên ký hợp đồng kiểm toán hoặc thư cam kết kiểm toán.
-Lập kế hoạch kiểm toán bao gồm thu thập thông tin về đặc điểm hoạt động kinh doanh, tìm hiểu HTKSNB, đánh giá rủi ro, xác lập mức trọng yếu... để lập kế hoạch và chương trình kiểm toán, nhờ đó sẽ nâng cao tính hữu hiệu và hiệu quả của cuộc kiểm toán.
Ø Giai đoạn thực hiện kiểm toán là quá trình thực hiện kế hoạch và chương trình kiểm toán nhằm thu thập những bằng chứng đầy đủ và thích hợp nhằm làm cơ sở cho ý kiến nhận xét của KTV. Trong giai đoạn này, KTV thực hiện chủ yếu hai loại thử nghiệm:
-Thử nghiệm kiểm soát nhằm thu thập bằng chứng nhằm đánh giá tính hữu hiệu của HTKSNB.
-Thử nghiệm cơ bản nhằm thu thập bằng chứng nhằm phát hiện các sai sót trọng yếu trong BCTC. Có hai loại thử nghiệm cơ bản gồm thủ tục phân tích và thử nghiệm chi tiết.
-Thủ tục phân tích là việc so sánh các thông tin, nghiên cứu xu hướng nhằm phát hiện biến động bất thường.
- Thử nghiệm chi tiết là việc kiểm tra số dư và nghiệp vụ bằng các phương pháp thích hợp.
ØGiai đoạn hoàn thành kiểm toán là quá trình tổng hợp và rà soát lại những bằng chứng thu thập được để KTV hình thành nên ý kiến nhận xét trên báo cáo kiểm toán. Có bốn loại ý kiến nhận xét là: chấp nhận toàn phần, chấp nhận từng phần, không chấp nhận và từ chối nhận xét [2].
Khái quát về bằng chứng kiểm toán trong kiểm toán BCTC
Khái niệm bằng chứng kiểm toán
Báo cáo kiểm toán đã đưa ra ý kiến xác nhận về tính trung thực và hợp lý của báo cáo tài chính đơn vị được kiểm toán. Để đánh giá, nhận xét và đưa ra ý kiến về báo cáo tài chính của đơn vị đã được kiểm toán, kiểm toán viên cần thu thập các bằng chứng kiểm toán làm cơ sở cho những kết luận của mình. BCKT quyết định tính đúng đắn, chính xác các nhận xét của KTV, quyết định sự thành công của cuộc kiểm toán. Việc thu thập BCKT là trung tâm của cuộc kiểm toán.
Theo Chuẩn mực kiểm toán số 500 ban hành theo quyết định số 219/2000/QĐ/BTC ngày 29/12/2000 của Bộ trưởng tài chính về BCKT ta có khái niệm về BCKT như sau: “Bằng chứng kiểm toán là tất cả những tài liệu, thông tin do kiểm toán viên thu thập được liên quan đến cuộc kiểm toán và dựa trên các thông tin này kiểm toán viên hình thành nên ý kiến của mình”.
Như vậy, BCKT bao gồm cả thông tin nhân chứng và thông tin vật chứng mà kiểm toán viên thu thập làm cơ sở cho ý kiến của mình về Báo cáo tài chính được kiểm toán. BCKT có tính đa dạng. Các loại BCKT khác nhau sẽ có ảnh hưởng khác nhau đến việc hình thành ý kiến kết luận kiểm toán. Do đó, kiểm toán viên cần có nhận thức cụ thể về các loại bằng chứng một cách hữu hiệu khi thực hành kiểm toán.
BCKT có một vai trò quan trọng, là cơ sở hình thành ý kiến kết luận kiểm toán. Từ đó, sự thành công của toàn bộ cuộc kiểm toán phụ thuộc trước hết vào việc thu thập và sau đó là đánh giá BCKT của kiểm toán viên. Việc kiểm toán gồm có hai chức năng cả hai chặt chẽ đều liên quan đến bằng chứng. Thứ nhất, là chức năng thu thập bằng chứng, thứ hai là đánh giá các bằng chứng. Một khi kiểm toán viên không thu thập đầy đủ và đánh giá đúng các bằng chứng thích hợp thì kiểm toán viên khó có thể đưa ra kết luận xác đáng về đối tượng được kiểm toán.
Do vai trò quan trọng của BCKT, Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 500 quy định: “Kiểm toán viên và Công ty kiểm toán phải thu thập đầy đủ các bằng chứng kiểm toán thích hợp để làm cơ sở đưa ra ý kiến của mình về Báo cáo tài chính của đơn vị được kiểm toán”.
Vai trò BCKT
Bằng chứng kiểm toán có vai trò quan trọng, là cơ sở hình thành kết luận kiểm toán. Các loại bằng chứng kiểm toán khác nhau sẽ có ảnh hưởng khác nhau đến việc hình thành ý kiến kiểm toán. Sự thành công của toàn bộ cuộc kiểm toán phụ thuộc vào việc thu thập và đánh giá bằng chứng kiểm toán của kiểm toán viên. Nếu kiểm toán viên không thu thập đầy đủ và đánh giá đúng các bằng chứng kiểm toán thích hợp thì kiểm toán viên đó khó có thể đưa ra một nhận xét xác đáng về đối tượng kiểm toán. Đối với các doanh nghiệp kiểm toán độc lập hoặc cơ quan kiểm toán Nhà nước, cơ quan pháp lý, bằng chứng kiểm toán còn là cơ sở để giám sát đánh giá chất lượng hoạt động của kiểm toán viên trong quá trình kiểm toán.
Báo cáo kiểm toán cần cung cấp những thông tin đáng tin cậy cho người sử dụng. Kiểm toán viên phải chịu trách nhiệm về tính trung thực và khách quan của báo cáo tài chính đưa ra. Do vậy, kiểm toán viên cần thu thập bằng chứng kiểm toán đảm bảo tính thích hợp và đầy đủ.
1.2.3 Phân loại BCKT
Trong thực tế có nhiều loại BCKT khác nhau. Để giúp cho việc nghiên cứu, xét đoán và sử dụng BCKT được tiện lợi và hữu hiệu cần phải tiến hành phân loại BCKT.
1.2.3.1 Phân loại bằng chứng kiểm toán theo nguồn gốc
Phân loại BCKT theo nguồn gốc là căn cứ vào nguồn gốc của thông tin, tài liệu có liên quan đến báo cáo tài chính mà kiểm toán viên thu thập được trong quá trình kiểm toán.
Theo cách phân loại này, BCKT được chia thành:
Ø BCKT do kiểm toán viên tự khai thác và phát hiện bằng cách:
- Kiểm kê tài sản thực tế : Như biên bản kiểm kê hàng tồn kho của tổ kiểm toán xác nhận tài sản thực tế…
- Tính toán lại các biểu tính toán của doanh nghiệp: như các số liệu, tài liệu do kiểm toán viên tính toán lại có sự xác nhận của doanh nghiệp hoặc những người liên quan là hợp lý.
- Quan sát hoạt động của hệ thống kiểm soát nội bộ: là những thông tin, tài liệu do kiểm toán viên ghi chép lại thông qua việc quan sát hệ thống kiểm soát nội bộ doanh nghiệp, có dẫn chứng theo thời gian khảo sát…
Ø BCKT do doanh nghiệp phát hành và luân chuyển đến các bộ phận nội bộ hoặc bên ngoài đơn vị và các thông tin mà doanh nghiệp cung cấp cho kiểm toán viên.
Chứng từ, tài liệu do doanh nghiệp phát hành và chuyển đến các đơn vị khác sau đó quay trở lại đơn vị như: các uỷ nhiệm chi…
Chứng từ, tài liệu do doanh nghiệp phát hành và luân chuyển trong nội bộ doanh nghiệp, như các phiếu chi, phiếu xuất vật tư, hoá đơn bán hàng
Các sổ kế toán, báo cáo kế toán của doanh nghiệp lập
Những thông tin (lời nói, ghi chép..) của cán bộ quản lý, cán bộ nghiệp vụ hoặc những giải trình của những người có liên quan trong đơn vị cho kiểm toán viên…
Ø BCKT do bên thứ 3 cung cấp từ các nguồn khác nhau
Các bằng chứng do những người bên ngoài đơn vị cung cấp trực tiếp cho kiểm toán viên, như: các bảng xác nhận nợ phải trả của các chủ nợ ; Bảng xác nhận các khoản phải thu của các khác nợ; hoặc số dư tiền gửi ngân hàng đã được ngân hàng xác nhận….
Các bằng chứng được lập do đối tượng bên ngoài doanh nghiệp có liên quan đến báo cáo tài chính của doanh nghiệp, như hoá đơn bán hàng cho doanh nghiệp, số phụ ngân hàng…
Các ghi chép độc lập hoặc các báo cáo thống kê tổng hợp theo chuyên ngành có liên quan đến doanh nghiệp…
1.2.3.2 Phân loại bằng chứng kiểm toán theo loại hình
Căn cứ vào loại hình hay còn gọi là dạng BCKT thì BCKT được chia thành các loại sau:
Ø Các bằng chứng vật chất là các bằng chứng mà kiểm toán viên thu thập được trong quá trình thanh tra hoặc quá trình kiểm kê các tài sản hữu hình như: hàng tồn kho, tài sản cố định hữu hình, tiền mặt, các loại chứng khoán…
Thuộc loại này gồm có các biên bản kiểm kê hàng tồn kho, biên bản kiểm kê quỹ tiền mặt, các chứng khoán, biên bản kiểm kê TSCĐ hữu hình….
Các bằng chứng vật chất có độ tin cậy cao nhất, bởi vì bằng chứng vật chất được đưa ra từ việc kiểm tra trực tiếp để xác minh tài sản có thực hay không
Ø Các bằng chứng tài liệu: là các bằng chứng mà kiểm toán viên thu thập được qua việc cung cấp tài liệu, thông tin của các bên liên quan theo yêu cầu của kiểm toán viên.
Thuộc loại này gồm:
Các ghi chép kế toán và ghi chép nghiệp vụ của doanh nghiệp, các báo cáo kế toán, các bản giải trình của các nhà quản lý doanh nghiệp…
Các chứng từ, tài liệu do các đối tượng bên ngoài doanh nghiệp cung cấp như: các văn bản các giấy xác nhận, các báo cáo của bên thứ 3 có liên quan đến báo cáo tài chính của doanh nghiệp được kiểm toán như cơ quan thuế, hải quan, bên bán, bên mua…
Các tài liệu tính toán lại của kiểm toán viên: thông qua việc xác minh, phân tích số liệu, tài liệu, kiểm toán viên tính toán lại số liệu của doanh nghiệp được kiểm toán để đưa ra những bằng chứng cho những ý kiến có lý của mình như: tính toán lại giá các hoá đơn, việc tính trích khấu hao TSCĐ, tính giá thành, phân bổ chi phí, khoá sổ kế toán, quá trình lấy số liệu để lập báo cáo kế toán..
Các bằng chứng tài liệu này củng cố tính thuyết phục, nhưng độ tin cậy không cao bằng những bằng chứng vật chất.
1.2.3.3 Các bằng chứng kiểm toán đặc biệt
Ngoài các kiểu bằng chứng kiểm toán cơ bản được thu thập đã nói ở trên, trong một số trường hợp đặc biệt kiểm toán viên cần thu thập thêm một số bằng chứng kiểm toán khác. Các bằng chứng này thường là các: ý kiến của chuyên gia, giải thích của ban giám đốc và nhân viên kế toán đơn vị, sử dụng tài liệu của kiểm toán viên nội bộ hay của kiểm toán viên khác, hoặc là bằng chứng về các bên liên quan....
a, Ý kiến của chuyên gia: Do kiểm toán viên không thể am tường tất cả mọi lĩnh vực của xã hội, vì vậy các chuẩn mực kiểm toán cho phép họ được sử dụng ý kiến của những chuyên gia có năng lực, kiến thức và kinh nghiệm cụ thể trong một lĩnh vực chuyên môn nào đó, ngoại trừ lĩnh vực kế toán và kiểm toán. Ví dụ như đánh giá giá trị của tài sản quý hiếm, công trình nghệ thuật...
b, Giải trình của ban giám đốc: kiểm toán viên cần phải thu thập bằng chứng về việc giám đốc đơn vị được kiểm toán thừa nhận trách nhiệm của mình trong việc lập và trình bày trung thực và hợp lý báo cáo tài chính phù hợp với chuẩn mực và chế độ kế toán hiện hành và đã phê duyệt báo cáo tài chính. Vì thế, “kiểm toán viên phải thu thập được các giải trình của giám đốc (hoặc người đứng đầu) đơn vị được kiểm toán ”[6]
c ,Tư liệu của kiểm toán viên nội bộ: Bộ phận kiểm toán nội bộ được tổ chức là để phục vụ cho các nhu cầu và lợi ích của đơn vị, tuy nhiên kết quả kiểm toán của bộ phận này có thể vẫn hữu ích cho kiểm toán viên