Hoạt động kinh doanh khách sạn đã thực sự trở thành một ngành kinh
doanh ở Việt Nam vào những năm đầu của thập niên 90. Từ đó đến nay,
ngành kinh doanh khách sạn của Việt Nam phát triển hết sức nhanh chóng.
Cùng với việc đời sống ngày càng được nâng cao, nhu cầu hưởng thụ các dịch
vụ du lịch, nghỉ dưỡng, vui chơi giải trí của người dân cũng tăng mạnh. Bên
cạnh đó, tác động tích cực của tiến trình hội nhập kinh tế thế giới và khu vực
đã khiến cho Việt Nam đã trở thành điểm đến đầy sức hấp dẫn của các hoạt
động du lịch quốc tế, hội thảo, tổ chức sự kiện, thể thao Hai nhân tố trên
đã góp phần thúc đẩy tốc độ tăng trưởng của ngành du lịch, mà trong đó kinh
doanh khách sạn chiếm một vai trò vô cùng quan trọng.
So với lịch sử hình thành và phát triển của ngành kinh doanh khách sạn
trên thế giới thì ngành kinh doanh khách sạn ở Việt Nam còn quá non trẻ và
đầy mới mẻ. Nhưng các nhà kinh doanh khách sạn của chúng ta đã phải sớm
đương đầu với nhiều khó khăn thách thức do tình trạng thiếu vốn, thiếu kiến
thức và kinh nghiệm quản lý điều hành khách sạn. Đặc biệt trong xu thế toàn
cầu hóa hiện nay, các khách sạn Việt Nam còn chịu áp lực cạnh tranh hết sức
khốc liệt từ các tập đoàn khách sạn hàng đầu thế giới.
Vậy thực trạng ngành kinh doanh khách sạn của Việt Nam hiện nay ra sao?
Đâu là giải pháp hiệu quả cho việc khắc phục những tồn tại và tăng tốc phát
triển trong hoạt động kinh doanh khách sạn ở Việt Nam?
Nhưng vấn đề trên đã thực sự thu hút được sự chú ý và hứng thú của em, và
cũng chính là lý do khiến em lựa chọn đề tài: “HO?T é?NG KINH DOANH
KHÁCH S?N T?I VI?T NAM – TH?C TR?NG VÀ GI?I PHÁP” cho
khóa luận tốt nghiệp của mình.
118 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 10504 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Hoạt động kinh doanh khách sạn tại Việt Nam – thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƢƠNG
KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ
CHUYấN NGÀNH KINH TẾ NGOẠI THƢƠNG
---------***---------
KHểA LUẬN TỐT NGHIỆP
Đề tài:
HOẠT ĐỘNG KINH DOANH KHÁCH SẠN TẠI
VIỆT NAM – THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
Sinh viờn thực hiện : Phan Thị Phƣơng
Thảo
Lớp : Trung 2
Khúa : 42G - KT&KDQT
Giỏo viờn hƣớng dẫn : ThS. Lờ Huyền
Trang
HÀ NỘI - 11/2007
Hoạt động kinh doanh khách sạn tại Việt Nam - Thực trạng và giải pháp
Lời nói đầu
Lý do chọn đề tài:
Hoạt động kinh doanh khách sạn đã thực sự trở thành một ngành kinh
doanh ở Việt Nam vào những năm đầu của thập niên 90. Từ đó đến nay,
ngành kinh doanh khách sạn của Việt Nam phát triển hết sức nhanh chóng.
Cùng với việc đời sống ngày càng được nâng cao, nhu cầu hưởng thụ các dịch
vụ du lịch, nghỉ dưỡng, vui chơi giải trí của người dân cũng tăng mạnh. Bên
cạnh đó, tác động tích cực của tiến trình hội nhập kinh tế thế giới và khu vực
đã khiến cho Việt Nam đã trở thành điểm đến đầy sức hấp dẫn của các hoạt
động du lịch quốc tế, hội thảo, tổ chức sự kiện, thể thao…Hai nhân tố trên
đã góp phần thúc đẩy tốc độ tăng trưởng của ngành du lịch, mà trong đó kinh
doanh khách sạn chiếm một vai trò vô cùng quan trọng.
So với lịch sử hình thành và phát triển của ngành kinh doanh khách sạn
trên thế giới thì ngành kinh doanh khách sạn ở Việt Nam còn quá non trẻ và
đầy mới mẻ. Nhưng các nhà kinh doanh khách sạn của chúng ta đã phải sớm
đương đầu với nhiều khó khăn thách thức do tình trạng thiếu vốn, thiếu kiến
thức và kinh nghiệm quản lý điều hành khách sạn. Đặc biệt trong xu thế toàn
cầu hóa hiện nay, các khách sạn Việt Nam còn chịu áp lực cạnh tranh hết sức
khốc liệt từ các tập đoàn khách sạn hàng đầu thế giới.
Vậy thực trạng ngành kinh doanh khách sạn của Việt Nam hiện nay ra sao?
Đâu là giải pháp hiệu quả cho việc khắc phục những tồn tại và tăng tốc phát
triển trong hoạt động kinh doanh khách sạn ở Việt Nam?
Nhưng vấn đề trên đã thực sự thu hút được sự chú ý và hứng thú của em, và
cũng chính là lý do khiến em lựa chọn đề tài: “HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
KHÁCH SẠN TẠI VIỆT NAM – THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP” cho
khóa luận tốt nghiệp của mình.
Phan Thị Phương Thảo 1 Lớp Trung 2 - K42G
Hoạt động kinh doanh khách sạn tại Việt Nam - Thực trạng và giải pháp
Nội dung khóa luận gồm 3 phần:
Chương I: Tổng quan về hoạt động kinh doanh khách sạn
Chương II: Thực trạng kinh doanh khách sạn tại Việt Nam
Chương Iii: Giải pháp nâng cao hiệu quả của hoạt động kinh doanh
khách sạn ở Việt Nam
Do thời gian nghiên cứu về vấn đề này chưa dài, chưa được chuyên sâu,
cùng kiến thức, hiểu biết của bản thân còn hạn chế nên bài khóa luận này
không tránh khỏi còn nhiều sai sót. Rất mong nhận được sự đánh giá, đóng
góp ý kiến quý giá từ các thầy cô và các bạn.
Qua đây tôi xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn nhiệt tình của cô Lê
Huyền Trang, cũng như các cô chú thuộc Vụ khách sạn - Tổng cục Du lịch
Việt Nam đã giúp đỡ tạo điều kiện thuận lợi cho tôi tiếp cận thêm tài liệu hoàn
thành bài khóa luận này.
Hà Nội, ngày 8 tháng 11 năm 2007
Sinh viên
Phan Thị Phương Thảo
Phan Thị Phương Thảo 2 Lớp Trung 2 - K42G
Hoạt động kinh doanh khách sạn tại Việt Nam - Thực trạng và giải pháp
Chương i
Tổng quan về hoạt động kinh doanh khách sạn
I. kháI quát chung về khách sạn
1. Khái niệm khách sạn
Thuật ngữ “Hotel” – khách sạn có nguồn gốc từ tiếng Pháp, thời trung
cổ nó được dùng để chỉ lâu đài của các lãnh chúa.Từ khách sạn theo
nghiã hiện đại được dùng ở Pháp vào cuối thế kỷ XVII, đến cuối thế kỷ XIX
mới được phổ biến ra các nước khác. Từ giữa thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX
sự phát triển của khách sạn thay đổi cả về chất và lượng. Bên cạnh các khách
sạn sang trọng phục vụ cho tầng lớp thượng lưu, một hệ thống các khách sạn
nhỏ cũng được xây dựng dành cho giới bình dân. Từ đó đã xuất hiện sự khác
biệt về phong cách phục vụ và cấp độ cung cấp dịch vụ trong các khách sạn.
Sự khác biệt còn tùy thuộc vào mức độ phát triển của ngành kinh doanh khách
sạn ở mỗi quốc gia. Đây là một trong các nguyên nhân dẫn đến có nhiều khái
niệm về khách sạn. Chẳng hạn một số nước khi đưa ra khái niệm khách sạn
đã quy định những đỉều kiện rất riêng về số lượng buồng và các trang thiết bị
tiện nghi bên trong.Ví dụ vương quốc Bỉ định nghĩa: “Khách sạn phải có ít
nhất từ 10 đến 15 buồng ngủ với các tiện nghi tối thiểu như phòng vệ sinh,
máy điện thoại…Nam Tư cũ định nghĩa: Khách sạn là một tòa nhà độc lập có
ít nhất 15 buồng ngủ để cho thuê”. Cộng hòa Pháp lại định nghĩa: “Khách
sạn là một cư sở lưu trú được xếp hạng, có các buồng và căn hộ với các trang
thiết bị tiện nghi nhằm thỏa mãn nhu cầu nghỉ ngơi của khách trong một thời
gian dài (có thể là hàng tuần hoặc hàng tháng nhưng không lấy đó làm nơi cư
trú thường xuyên), có thể có nhà hàng. Khách sạn có thể hoạt động quanh
năm hoặc theo mùa”. [1]
Phan Thị Phương Thảo 3 Lớp Trung 2 - K42G
Hoạt động kinh doanh khách sạn tại Việt Nam - Thực trạng và giải pháp
Theo quan điểm của hiệp hội khách sạn Mỹ thì:
“Khách sạn là nơi bất kỳ ai cũng có thể trả tiền để thuê buồng ngủ qua đêm ở
đó. Mỗi buồng ngủ cho thuê bên trong phải có ít nhất hai phòng nhỏ (phòng
ngủ và phòng tắm). Mỗi buồng khách đều phải có giường, điện thoại và vô
tuyến. Ngoài dịch vụ buồng ngủ có thể có thêm các dịch vụ khác như : dịch vụ
vận chuyển hành lý, trung tâm thương mại (với thiết bị photocpy), nhà hàng,
quầy bar và một số dịch vụ giải trí. Khách sạn có thể được xây dựng ở gần các
khu thương mại. khu du lịch nghỉ dưỡng hoặc các sân bay”.[4]
Trong quy định về tiêu chuẩn xếp hạng khách sạn ban hành kèm Quyết
định số 02/2001/QĐ-TCDL ngày 27/4/2001 của Tổng cục Du lịch về việc bổ
sung, sửa đổi Tiêu chuẩn xếp hạng khách sạn đã ghi rõ:
“Khách sạn (Hotel) là công trình kiến trúc được xây dựng độc lập, có quy
mô từ 10 buồng ngủ trở lên, đảm bảo chất lượng về cơ sở vật chất, trang thiết
bị, dịch vụ cần thiết phục vụ khách du lịch”.
Việc đưa ra một khái niệm mang tính khái quát đầy đủ về khách sạn không
hề đơn giản, điều đó phụ thuộc vào điều kiện, đặc trưng của từng vùng, từng
quốc gia. Mặt khác, việc tiếp cận dưới các góc độ khác nhau cũng có thể đưa
ra các khái niệm khác nhau. Với cách tiếp cận coi khách sạn là một cơ sở
cung cấp dịch vụ, có xét đến đặc điểm riêng của khách sạn tại Việt Nam,
Khoa Du lịch Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, trong cuốn sách “Giải thích
thuật ngữ du lịch và khách sạn” đã đưa ra một định nghiã như sau:
“ Khách sạn là cơ sở cung cấp các dịch vụ lưu trú (với đầy đủ tiện nghi),
dịch vụ ăn uống, dịch vụ vui chơi giải trí và các dịch vụ cần thiết khác cho
khách lưu lại qua đêm và thường được xây dựng tại các điểm du lịch”.[1]
Với cách tiếp cận này, cần phải nắm được những đặc trưng cần lưu ý đối
với khách sạn:
Thứ nhất, khách sạn là cơ sở cung cấp dịch vụ lưu trú (với tiện nghi đầy
đủ). Sự ra đời của khách sạn xuất phát từ việc đáp ứng nhu cầu ngủ, nghỉ cho
Phan Thị Phương Thảo 4 Lớp Trung 2 - K42G
Hoạt động kinh doanh khách sạn tại Việt Nam - Thực trạng và giải pháp
khách và cho đến nay, cho thuê buồng ngủ vẫn là hoạt động chủ đạo của tất cả
các khách sạn. Tuy nhiên, khách sạn không chỉ dừng lại ở việc cung cấp các
dịch vụ lưu trú thông thường mà còn phải đáp ứng đầy đủ tiện nghi cho khách,
tức là phải đảm bảo được cơ sở vật chất, trang thiết bị, dịch vụ cần thiết như
vận chuyển hành lý, giặt là… thỏa mãn nhu cầu của khách.
Thứ hai, khách sạn là nơi cung cấp dịch vụ ăn uống, vui chơi giải trí và
dịch vụ cần thiết khác. Cùng với sự phát triển của hoạt động du lịch cũng như
việc đi lại của con người giữa các vùng miền, quốc gia khác nhau, các khách
sạn đã bổ sung thêm cả dịch vụ ăn uống, các dịch vụ giải trí, thể thao, y tế,
thẩm mỹ… vào hoạt động của mình.
Thứ ba, khách sạn thường được xây tại các điểm du lịch, các thành phố lớn,
nơi tập trung dân cư. Điều này có liên quan mật thiết đến khái niệm khách của
khách sạn. Khách của khách sạn là tất cả những ai có nhu cầu tiêu dùng sản
phẩm của khách sạn. Trong đó, khách du lịch chỉ là một phân đoạn thị trường
của khách sạn nhưng lại là thị trường chính quan trọng nhất. Mà khách du lịch
thường tập trung tại các điểm du lịch nổi tiếng, nên khi xây dựng các khách
sạn tất nhiên người chủ đầu tư phải chọn địa điểm thích hợp để có khả năng
thu hút khách tối đa.
2. Phân loại khách sạn
Khách sạn là loại hình kinh doanh lưu trú chính, chiếm tỷ trọng lớn cả về
số lượng và loại kiểu trong hệ thống các cơ sở kinh doanh lưu trú của ngành
du lịch. Để hiểu rõ thêm về hoạt động kinh doanh khách sạn cần nắm được
những hình thức tồn tại của loại hình cơ sở kinh doanh này. Khách sạn có thể
được phân loại theo nhiều tiêu chí và góc độ nghiên cứu như: vị trí địa lý, mức
cung cấp dịch vụ, mức giá bán sản phẩm lưu trú, quy mô của khách sạn, hình
thức sở hữu và quản lý của khách sạn.[1]
Phan Thị Phương Thảo 5 Lớp Trung 2 - K42G
Hoạt động kinh doanh khách sạn tại Việt Nam - Thực trạng và giải pháp
2.1. Theo vị trí địa lý
Theo tiêu chí này, khách sạn được phân thành 5 loại:
- Khách sạn thành phố (City centre hotel): được xây dựng ở trung tâm
thành phố lớn, khu đô thị hoặc nơi đông dân cư, nhằm phục vụ các đối tượng
khách đi vì mục đích công vụ, tham gia hội nghị, hội thảo, thể thao, thăm thân,
tham quan văn hóa. Các khách sạn này hoạt động quanh năm. ở Việt Nam các
khách sạn thành phố có thứ hạng cao đều tập trung nhiều ở các thành phố lớn
như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh…
- Khách sạn nghỉ dưỡng (Resort Hotel): được xây dựng ở các khu du lịch
nghỉ dưỡng dựa vào nguồn tài nguyên thiên nhiên như các khách sạn nghỉ biển,
nghỉ núi. Khách đến đây với mục đích nghỉ ngơi thư giãn là chính (có số ít
khách có thể nghiên cứu về môi trường sinh thái). Các khách sạn nghỉ dưỡng
thường hoạt động theo thời vụ do phải chịu ảnh hưởng của thời tiết, khí hậu.
Khách sạn nghỉ dưỡng ở Việt Nam thường tập trung ở các thành phố biển như:
Nha Trang, Hạ Long, Đà Nẵng, Vũng Tàu…
- Khách sạn ven đô (Surburban Hotel): được xây dựng ở ngoại vi ven thành
phố hoặc trung tâm đô thị. Khách hàng chính của họ là khách đi nghỉ cuối
tuần, khách công vụ có khả năng thanh toán trung bình hoặc thấp. ở Việt
Nam loại hình khách sạn này chưa có thứ hạng cao và chưa phát triển do môi
trường ngoại thành ô nhiễm, giao thông không thuận tiện.
- Khách sạn ven đường (Hightway Hotel): xây dựng dọc các đường quốc lộ,
nhằm phục vụ đối tượng khách đi lại trên đường với phương tiện vận chuyển
là ô tô và mô tô.
- Khách sạn sân bay (Airport Hotel): có vị trí gần các sân bay quốc tế lớn,
chủ yếu phục vụ hành khách của các hãng hàng không dừng chân quá cảnh tại
các sân bay. Giá phòng của các khách sạn này thường nằm trong giá trọn gói
của các hãng hàng không.
Phan Thị Phương Thảo 6 Lớp Trung 2 - K42G
Hoạt động kinh doanh khách sạn tại Việt Nam - Thực trạng và giải pháp
2.2. Theo mức cung cấp dịch vụ
Bao gồm 4 loại:
- Khách sạn sang trọng (Luxury Hotel): có thứ hạng cao nhất, tương ứng
với khách sạn 5 sao ở Việt Nam. Là khách sạn có quy mô lớn, trang bị tiện
nghi đắt tiền, sang trọng, thường bán sản phẩm ra với mức giá cao nhất trong
vùng. Cung cấp các dịch vụ bổ sung ở mức cao nhất, đặc biệt là các dịch vụ bổ
sung tại phòng, dịch vụ giải trí ngoài trời, dịch vụ thẩm mĩ, phòng họp…
- Khách sạn với dịch vụ đầy đủ (Full Service Hotel): tương đương khách
sạn 4 sao của Việt Nam. Khách hàng của khách sạn này có khả năng thanh
toán tương đối cao. Khách sạn cung cấp dịch vụ đầy đủ thường phải có bãi đỗ
xe rộng, cung cấp dịch vụ ăn uống tại phòng, có nhà hàng và có một số dịch
vụ bổ sung ngoài trời được cung cấp một cách hạn chế.
- Khách sạn cung cấp số lượng hạn chế dịch vụ (Limited Service Hotel): có
quy mô vừa, tương ứng khách sạn 3 sao ở Việt Nam, nhằm vào đối tượng
khách có khả năng thanh toán trung bình. Các khách sạn này thường chỉ cung
cấp một số lượng rất hạn chế về dịch vụ, trong đó bắt buộc phải có: dịch vụ
giặt là, cung cấp thông tin và một số dịch vụ bổ sung khác, không nhất thiết
phải có phòng họp và dịch vụ giải trí ngoài trời.
- Khách sạn thứ hạng thấp (Khách sạn bình dân)-(Economy Hotel): là
những khách sạn có quy mô nhỏ, thứ hạng thấp (1-2 sao), mức giá buồng ở
mức thấp, không nhất thiết phải có dịch vụ ăn uống, nhưng phải có một số
dịch vụ bổ sung đơn giản như dịch vụ đánh thức khách vào buổi sáng, dịch vụ
giặt là, cung cấp thông tin.
2.3. Theo quy mô của khách sạn
Dựa vào số buồng ngủ theo thiết kế của khách sạn người ta chia khách sạn
thành:
- Khách sạn quy mô lớn.
- Khách sạn quy mô trung bình.
Phan Thị Phương Thảo 7 Lớp Trung 2 - K42G
Hoạt động kinh doanh khách sạn tại Việt Nam - Thực trạng và giải pháp
- Khách sạn quy mô nhỏ.
Việc phân chia này phải dựa vào số buồng thiết kế và mức độ phát triển
của ngành kinh doanh khách sạn ở từng quốc gia. Ví dụ ở Mỹ, khách sạn có từ
500 buồng trở lên được xếp vào loại quy mô lớn, từ 125-500 buồng là khách
sạn quy mô trung bình, có dưới 125 buồng là khách sạn loại nhỏ.
ở Việt Nam chưa có nhiều khách sạn lớn và rất lớn nên tạm thời được phân
loại như sau:
- Khách sạn quy mô lớn: là khách sạn có thứ hạng 5 sao (theo quy định
phải có quy mô lớn), tương ứng số lượng buồng thiết kế từ 200 trở lên.
- Khách sạn quy mô trung bình: có từ 50 buồng đến gần 200 buồng.
- Khách sạn quy mô nhỏ: từ 10- 50 buồng.
2.4. Theo hình thức sở hữu và quản lý
Được chia làm 3 loại:
- Khách sạn tư nhân: là khách sạn có một chủ đầu tư là cá nhân hay một
công ty TNHH. Chủ đầu tư tự quản lý điều hành kinh doanh khách sạn và tự
chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh.
- Khách sạn Nhà nước: là khách sạn có vốn đầu tư ban đầu của Nhà nước,
do một tổ chức hay công ty quốc doanh chịu trách nhiệm quản lý và điều hành
kinh doanh. Trong tương lai không xa loại hình này sẽ dần chuyển đổi sang
hình thức cổ phần hóa, Nhà nước sẽ là một cổ đông.
- Khách sạn liên doanh liên kết: là những khách sạn do 2 hoặc nhiều chủ
đầu tư bỏ tiền ra xây dựng và mua sắm trang thiết bị. Đồng thời cũng có thể
do 2 hay nhiều đối tác cùng tham gia điều hành quản lý. Kết quả kinh doanh
được chia theo tỷ lệ vốn góp của các chủ đầu tư hoặc theo thỏa thuận trong
hợp đồng liên doanh.
Các loại hình khách sạn liên doanh liên kết:
+ Khách sạn cổ phần: liên kết về sở hữu.
Phan Thị Phương Thảo 8 Lớp Trung 2 - K42G
Hoạt động kinh doanh khách sạn tại Việt Nam - Thực trạng và giải pháp
+ Khách sạn liên kết dặc quyền (Franchise Hotel): là khách sạn tư nhân
hoặc cổ phần về sở hữu, trong đó phía chủ đầu tư khách sạn (bên mua) phải tự
điều hành quản lý và chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh của khách sạn.
Bên mua thực hiện việc mua lại của một tập đoàn khách sạn (bên bán) quyền
độc quyền sử dụng thương hiệu về một loại hình kinh doanh khách sạn của tập
đoàn tại một địa phương nhất định, trong một khoảng thời gian nhất định, trên
cơ sở một bản hợp đồng ghi rõ quyền lợi và nghĩa vụ của mỗi bên tham gia.
Thực chất của loại hình liên doanh này là bên mua đã mua lại từ bên bán bí
quyết điều hành quản lý và một số đặc quyền trong khinh doanh do các tập
đoàn khách sạn cung cấp.
+ Khách sạn đồng quản lý (Management Contract Hotel): là khách sạn tư
nhân hoặc cổ phần về sở hữu, được điều hành quản lý bởi một nhóm các nhà
quản lý do chủ đầu tư thuê của một tập đoàn khách sạn trên cơ sở một bản hợp
đồng quản lý.
+ Khách sạn liên kết hỗn hợp: kết hợp giữa các hình thức trên.
2.5. Theo mức giá bán sản phẩm lưu trú
Tiêu chí này được xây dựng dựa trên kết quả khảo sát tất cả các khách sạn
trong nước, nghiên cứu ghi lại các mức giá buồng trung bình của chúng rồi tạo
nên một thước đo mà giới hạn trên của thước đo là mức giá cao nhất và giới
hạn dưới là mức giá buồng thấp nhất của các khách sạn trong quốc gia đó.
Thước đo này được chia làm 100 phần bằng nhau với đơn vị tính bằng tiền
(USD hoặc VND). Theo đó khách sạn được chia làm 5 loại:
- Khách sạn có mức giá cao nhất (Luxury Hotel): có mức giá bán sản phẩm
lưu trú khoảng từ nấc thứ 85 trở lên.
- Khách sạn có mức giá cao (Up-scale Hotel): có mức giá bán sản phẩm lưu
trú khoảng từ 70-85.
- Khách sạn có mức giá trung bình (Mid- price Hotel): có mức giá bán sản
phẩm lưu trú khoảng từ 40-70.
Phan Thị Phương Thảo 9 Lớp Trung 2 - K42G
Hoạt động kinh doanh khách sạn tại Việt Nam - Thực trạng và giải pháp
- Khách sạn có mức giá bình dân (Economy Hotel): có mức giá bán sản
phẩm lưu trú khoảng từ 20-40.
- Khách sạn có mức giá thấp nhất (Budget Hotel): có mức giá bán sản phẩm
lưu trú khoảng từ 20 trở xuống.
3. Xếp hạng khách sạn
Tiêu chuẩn xếp hạng khách sạn là những điều kiện cần thiết mà khách sạn
phải đảm bảo. Tiêu chuẩn này được dùng làm cơ sở để xây dựng các tiêu
chuẩn định mức cụ thể khác như tiêu chuẩn xây dựng thiết kế khách sạn, tiêu
chuẩn trang thiết bị tiện nghi trong từng bộ phận của khách sạn, tiêu chuẩn về
nhân viên phục vụ trong khách sạn, tiêu chuẩn vệ sinh…Đồng thời nó còn là
cơ sở xác định mức giá cả dịch vụ trong từng loại, hạng khách sạn; hỗ trợ cho
công tác quản lý, kiểm tra thường xuyên đối với các khách sạn. Thông qua
tiêu chuẩn xếp hạng, khách hàng của khách sạn có thể lựa chọn nơi ăn nghỉ
theo phù hợp với nhu cầu và khả năng thanh toán của mình.
Tiêu chí xếp hạng khách sạn trên thế giới thường dựa trên 4 yêu cầu cơ bản:
- Yêu cầu về kiến trúc khách sạn.
- Yêu cầu về trang thiết bị tiện nghi trong khách sạn.
- Yêu cầu về nhân viên phục vụ.
- Yêu cầu về các dịch vụ và mặt hàng phục vụ trong khách sạn.
Trong việc xếp hạng khách sạn, hầu hết các nước đều áp dụng phương
pháp phân hạng theo sao.[1]
II. kháI quát chung về hoạt động kinh doanh khách
sạn
1. Các khái niệm cơ bản về kinh doanh khách sạn
1.1. Khái niệm kinh doanh khách sạn
Đầu tiên, kinh doanh khách sạn chỉ là hoạt động kinh doanh cho thuê chỗ
ngủ qua đêm cho khách. Sau đó, cùng với nhu cầu ngày càng cao của của
Phan Thị Phương Thảo 10 Lớp Trung 2 - K42G
Hoạt động kinh doanh khách sạn tại Việt Nam - Thực trạng và giải pháp
khách du lịch và mong muốn thỏa mãn tối đa nhu cầu đó của các chủ khách
sạn, khách sạn tổ chức thêm hoạt động kinh doanh ăn uống. Như vậy, theo
nghĩa hẹp, kinh doanh khách sạn chỉ dừng lại ở việc phục vụ nhu cầu ngủ,
nghỉ cho khách. Còn theo nghĩa rộng, kinh doanh khách sạn là hoạt động cung
cấp các dịch vụ phục vụ nhu cầu nghỉ ngơi và ăn uống. Cùng với sự phát triển
của hoạt động du lịch, sự cạnh tranh giữa các khách sạn trong việc thu hút
khách, đặc biệt là nhóm khách hàng có khả năng thanh toán cao đã tăng tính
đa dạng trong hoạt động kinh doanh khách sạn. Ngoài hai hoạt động truyền
thống nói trên, kinh doanh khách sạn còn được bổ sung thêm các dịch vụ thể
thao, giải trí, y tế, chăm sóc sắc đẹp…
Kinh doanh khách sạn không chỉ cung cấp các dịch vụ do tự mình đảm
nhiệm, mà còn bán cả các sản phẩm thuộc các ngành và lĩnh vực khác như:
nông nghiệp, công nghiệp chế biến, ngân hàng, bưu chính viễn thông, vận
chuyển…
Trong kinh doanh khách sạn hai quá trình sản xuất và tiêu thụ các dịch vụ
thường đi kèm với nhau. Đa số các dịch vụ trong khách sạn phải trả tiền trực
tiếp, chỉ có một số dịch vụ không phải trả tiền trực tiếp như dịch vụ chăm sóc
khách hàng, cung cấp thông tin … nhằm tăng độ thỏa mãn nhu cầu của khách
hàng.
Khái niệm khách sạn lúc đầu dùng để chỉ hoạt động cung cấp chỗ ngủ cho
khách trong khách sạn và quán trọ. Khi nhu cầu của khách ngày càng phát
triển đa dạng, kinh doanh khách sạn đã mở rộng đối tượng và bao gồm cả làng
du lịch, bãi cắm trại, biệt thự du lịch…Nhưng khách sạn vẫn chiếm tỷ trọng
lớn và là cơ sở chính kinh doanh lưu trú, vì vậy loại hình này có tên là kinh
doanh khách sạn.
Kinh doanh khách sạn là hoạt động kinh doanh trên cơ sở cung cấp các
d