Kể từ những năm 90 của thế kỷ trước, khái ni ệm hội nh ập và mở cửa đã
trở th ành một kh ái ni ệm quen thuộc, phổ biến trong mọi ngành nghề cũng như
mọi lĩnh vực của nền kinh tế. Th ế nhưng bài toán hội nh ập và mở cửa như thế
nào, ở mức độ ra sao vẫn chưa bao giờ có một l ời gi ải x ác đáng. Khi Việt Nam
đang nỗ l ực đàm phán để kết thúc quá trình gia nhập WTO thì cũng là lúc chúng
ta ph ải tính đến một kị ch bản mới cho n ền kinh tế – kị ch bản hậu WTO.
Giờ đây, thành viên thứ 150 của tổ chức Thương mại thế giới đã được
xác định, hiện thực hoá quá trình hội nhập không còn là điều trong tưởng
tượng nữa. Dù muốn hay không chúng ta cũng phải tiến hành mở cửa sâu sắc
hơn nền kinh tế của mình. Lĩnh vực bảo hiểm là một lĩnh vực nhạy cảm của
nền kinh tế. Bảo hiểm không chỉ có tác dụng hạn chế hậu quả gây ra bởi rủi ro
đối với cá nhân hay tổ chức, nó còn đóng vai trò đảm bảo cho sự phát triển ổn
định của cả một ngành nghề, một lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội.
Với chính sách mở cửa được đánh giá là thông thoáng hơn các nước
láng giềng, trong gần 10 năm qua thị trường bảo hiểm Việt Nam đã chứng
kiến sự tham gia của rất nhiều các nhà bảo hiểm tên tuổi trên thế giới như
Prudential, Manulife, Great Eastern, ACE, Préveire ; phí bảo hiểm liên tục
tăng cùng với con số hợp đồng được ký mới cũng gia tăng nhanh chóng qua
các năm. Tuy nhiên, song song với những thành tựu đạt được từ quá trình mở
cửa, thị trường bảo hiể m Việt Nam cũng còn tồn tại nhiều hạn chế và bất cập:
bất cập về quy mô thị trường, về năng lực hoạt động, khả năng tài chính
Tham gia vào một sân chơi lớn, bình đẳng hơn nhưng cũng khó khă n
hơn, điều thiết yếu đặt ra đối với chúng ta là phải trang bị cho mình những bà i
học kinh nghiệm quý báu đồng thời xây dựng những định hướng rõ ràng để có
thể hội nhập và mở cửa một cách thành công.
99 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1848 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Mở cửa thị trường bảo hiểm của một số nước trong khu vực và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG
CHUYÊN NGÀNH KINH TẾ ĐỐI NGOẠI
------***-------
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
Đề tài:
MỞ CỬA THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM CỦA MỘT SỐ
NƯỚC TRONG KHU VỰC VÀ BÀI HỌC KINH
NGHIỆM ĐỐI VỚI VIỆT NAM
Họ và tên sinh viên : Đặng Thanh Phong
Lớp : Anh 13
Khóa : 41D - KTNT
Giáo viên hướng dẫn : ThS. Nguyễn Xuân Nữ
Hà Nội, 11/2006
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT
1. Bộ Thương mại và trường ĐH Ngoại thương (2003), Kỷ yếu hội thảo khoa
học Thương mại Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, NXB
Thống kê, Hà Nội.
2. Bộ tài chính (2005), Nhìn lại một năm thực hiện chiến lược phát triển thị
trường bảo hiểm Việt Nam, NXB Tài chính, Hà Nội.
3. Hồ Sĩ Sà (2000), Giáo trình bảo hiểm, NXB Thống kê, Hà Nội.
4. Hoàng Văn Châu (2006), Giáo trình bảo hiểm trong hoạt động kinh tế đối
ngoại, NXB Thống kê, Hà Nội.
5. Nguyễn Văn Định (2003), Giáo trình quản trị kinh doanh bảo hiểm, NXB
Thống kê, Hà Nội.
6. Nguyễn Văn Định (2005), Giáo trình bảo hiểm, NXB Thống kê, Hà Nội.
7. Tập đoàn tài chính Bảo Việt (2005 – 2006), Tạp chí Bảo hiểm, Hà Nội.
8. Trung tâm Kinh tế châu Á Thái Bình Dương (2006), Tạp chí Kinh tế Châu
Á Thái Bình Dương, Hà Nội.
9. Trường ĐH Ngoại thương (2004), Kỷ yếu hội thảo khoa học Thương mại
quốc tế và vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế, NXB Lý luận chính trị, Hà
Nội.
10. Viện khoa học xã hội Việt Nam (06/2006), Những vấn đề kinh tế và chính
trị thế giới, Hà Nội.
11. Viện khoa học xã hội Việt Nam (08/2006), Những vấn đề kinh tế và chính
trị thế giới, Hà Nội.
12. Viện khoa học tài chính (04/2005), Đánh giá tác động của việc mở cửa thị
trường đối với ngành bảo hiểm Việt Nam và giải pháp phát triển thị
trường bảo hiểm phù hợp với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, NXB Tài
chính, Hà Nội.
II. TÀI LIỆU TIẾNG ANH
1. Asian Insurance Review (06/2005), Bancassurance – Making it work. But
for whom?
2. Jerome Yeatman (1999), International textbook on insurance, Paris
National Insurance University, France.
3. Sivam Subamaniam (2004), Challenges facing regulators, insurers and
banks in the bancassurance arena, Hongkong.
4. Jorn F. Kristensen and Ang Yew-Lee (2006), The Singapore insurance
market, Singapore.
III. CÁC TRANG WEB
1.
2.
3. www.celent.com/.../20030731/ITSpendingIns.htm
4.
5.
6.
7.
8.
9. www.taiwanratings.com/.../sld013.htm
10.
Mở cửa thị trường bảo hiểm của một số nước trong khu vực và bài học kinh nghiệm
đối với Việt Nam
Đặng Thanh Phong Lớp: Anh 13 – K41D - KTNT 1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Kể từ những năm 90 của thế kỷ trước, khái niệm hội nhập và mở cửa đã
trở thành một khái niệm quen thuộc, phổ biến trong mọi ngành nghề cũng như
mọi lĩnh vực của nền kinh tế. Thế nhưng bài toán hội nhập và mở cửa như thế
nào, ở mức độ ra sao vẫn chưa bao giờ có một lời giải xác đáng. Khi Việt Nam
đang nỗ lực đàm phán để kết thúc quá trình gia nhập WTO thì cũng là lúc chúng
ta phải tính đến một kịch bản mới cho nền kinh tế – kịch bản hậu WTO.
Giờ đây, thành viên thứ 150 của tổ chức Thương mại thế giới đã được
xác định, hiện thực hoá quá trình hội nhập không còn là điều trong tưởng
tượng nữa. Dù muốn hay không chúng ta cũng phải tiến hành mở cửa sâu sắc
hơn nền kinh tế của mình. Lĩnh vực bảo hiểm là một lĩnh vực nhạy cảm của
nền kinh tế. Bảo hiểm không chỉ có tác dụng hạn chế hậu quả gây ra bởi rủi ro
đối với cá nhân hay tổ chức, nó còn đóng vai trò đảm bảo cho sự phát triển ổn
định của cả một ngành nghề, một lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội.
Với chính sách mở cửa được đánh giá là thông thoáng hơn các nước
láng giềng, trong gần 10 năm qua thị trường bảo hiểm Việt Nam đã chứng
kiến sự tham gia của rất nhiều các nhà bảo hiểm tên tuổi trên thế giới như
Prudential, Manulife, Great Eastern, ACE, Préveire…; phí bảo hiểm liên tục
tăng cùng với con số hợp đồng được ký mới cũng gia tăng nhanh chóng qua
các năm. Tuy nhiên, song song với những thành tựu đạt được từ quá trình mở
cửa, thị trường bảo hiểm Việt Nam cũng còn tồn tại nhiều hạn chế và bất cập:
bất cập về quy mô thị trường, về năng lực hoạt động, khả năng tài chính…
Tham gia vào một sân chơi lớn, bình đẳng hơn nhưng cũng khó khăn
hơn, điều thiết yếu đặt ra đối với chúng ta là phải trang bị cho mình những bài
học kinh nghiệm quý báu đồng thời xây dựng những định hướng rõ ràng để có
thể hội nhập và mở cửa một cách thành công.
Mở cửa thị trường bảo hiểm của một số nước trong khu vực và bài học kinh nghiệm
đối với Việt Nam
Đặng Thanh Phong Lớp: Anh 13 – K41D - KTNT 2
Việc tìm hiểu và học hỏi những kinh nghiệm, chính sách cũng như
đường lối của các nước trong khu vực, những nước có những đặc điểm kinh
tế xã hội tương đồng với chúng ta là một việc làm vô cùng quan trọng. Đó
cũng chính là việc làm nhằm tìm hiểu rõ hơn về thị trường bảo hiểm các nước
đồng thời cũng là quá trình đi tìm lời giải cho bài toán hội nhập của thị trường
bảo hiểm Việt Nam hiện nay.
Từ những yêu cầu thiết thực đó em đã lựa chọn đề tài “Mở cửa thị
trường bảo hiểm ở một số nước trong khu vực và bài học kinh nghiệm đối với
Việt Nam”. Đề tài nêu lên những kinh nghiệm và bài học quý báu của các
nước có thể áp dụng trong điều kiện của Việt Nam hiện nay và trong những
năm tới khi thị trường bảo hiểm Việt Nam đã hội nhập đầy đủ.
2. Mục đích nghiên cứu
Khoá luận đi sâu nghiên cứu các kinh nghiệm và chính sách mở cửa thị
trường bảo hiểm của các nước trong khu vực bao gồm những nước điển hình
như Trung Quốc, Thái Lan và Singapore. Từ đó, dựa trên những chính sách và
chủ trương của Nhà nước xuất phát từ nội tại nền kinh tế, khoá luận đưa ra
những bài học kinh nghiệm cho quá trình mở cửa của thị trường bảo hiểm Việt
Nam.
3. Nội dung nghiên cứu
Với mục đích như vậy, khoá luận tập trung nghiên cứu quá trình hình
thành và phát triển thị trường bảo hiểm tại các nước, thực trạng thị trường bảo
hiểm hiện nay và chính sách mở cửa của những nước này trên cơ sở nghiên
cứu và chọn lọc những đặc điểm sáng tạo nổi bật của các nước có thể áp dụng
với tình hình cụ thể của Việt Nam.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của khoá luận là bảo hiểm và thị trường bảo
hiểm. Đi vào chi tiết, khoá luận tìm hiểu những đặc điểm và hội nhập
Mở cửa thị trường bảo hiểm của một số nước trong khu vực và bài học kinh nghiệm
đối với Việt Nam
Đặng Thanh Phong Lớp: Anh 13 – K41D - KTNT 3
của thị trường bảo hiểm các nước trong khu vực, bao gồm Trung Quốc,
Thái Lan và Singapore.
- Về phạm vi nghiên cứu: Khoá luận giới hạn trong phạm vi thị trường
bảo hiểm một số nước trong khu vực, những kinh nghiệm và bài học
trong quá trình mở cửa của những nước này. Tuy nhiên để có được cái
nhìn toàn cảnh và nhằm đưa ra những bài học có ý nghĩa thực tiễn đối
với thị trường bảo hiểm trong nước, khoá luận cũng xem xét vấn đề
trên bình diện thị trường bảo hiểm thế giới và thực trạng của thị trường
bảo hiểm Việt Nam.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Khoá luận áp dụng những phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp chuyên gia,
- Phương pháp nghiên cứu tại bàn bao gồm tập hợp số liệu và phân tích,
thu thập tài liệu, quan sát và đánh giá.
- Phương pháp tư duy lô-gic
Trong quá trình nghiên cứu, với kiến thức và kinh nghiệm còn hạn chế
chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót. Em xin gửi lời cảm ơn chân
thành đến các thầy cô giáo đã truyền đạt những kiến thức quý báu trong suốt
thời gian học tập tại trường. Đặc biệt, em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới cô
giáo, Thạc sỹ Nguyễn Xuân Nữ, người đã tận tâm giúp đỡ em hoàn thành
khoá luận này.
Mở cửa thị trường bảo hiểm của một số nước trong khu vực và bài học kinh nghiệm
đối với Việt Nam
Đặng Thanh Phong Lớp: Anh 13 – K41D - KTNT 4
CHƢƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ BẢO HIỂM VÀ THỊ TRƢỜNG
BẢO HIỂM
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BẢO HIỂM
1. Định nghĩa bảo hiểm
Bảo hiểm là một lĩnh vực ra đời sau của thị trường tài chính nhưng nó
đã phát triển với tốc độ rất nhanh chóng. Có nhiều nghiên cứu về bảo hiểm và
do đó các định nghĩa về bảo hiểm cũng rất đa dạng, tập trung xem xét trên
những khía cạnh khác nhau. Có một số định nghĩa về bảo hiểm như: “Bảo
hiểm là một phương pháp lập quỹ dự trữ bằng tiền do những người có cùng
khả năng gặp một loại rủi ro nào đó đóng góp tạo nên”. Định nghĩa này mới
chỉ đề cập đến phương pháp lập quỹ dự trữ bảo hiểm, mà chưa rõ phương
thức sử dụng nó.
Một định nghĩa khác đơn giản hơn xét trên khía cạnh tổn thất và bồi
thường tổn thất: “Bảo hiểm là việc cam kết hoàn trả tiền trong trường hợp tổn
thất xảy ra cho một cá nhân hay tổ chức đã dự phòng thảm hoạ xảy ra và trả
tiền trước đó cho công ty bảo hiểm”
Theo khía cạnh luật pháp và kinh tế học, bảo hiểm là một dạng kiểm
soát rủi ro trước hết được dùng để bảo đảm đối với những nguy cơ rủi ro có
thể xảy ra gây thiệt hại về tài chính. Một cách chính xác, bảo hiểm được định
nghĩa là việc chuyển nguy cơ rủi ro từ một chủ thể sang một chủ thể khác
tương ứng theo mức phí xác định hợp lý.
Và, một cách chung nhất và mang tính bản chất nhất, có thể định nghĩa
bảo hiểm như sau: “Bảo hiểm là hoạt động thể hiện người bảo hiểm cam kết
bồi thường (theo quy luật thống kê) cho người tham gia bảo hiểm trong từng
trường hợp xảy ra rủi ro thuộc phạm vi bảo hiểm với điều kiện người tham
gia nộp một khoản phí cho chính anh ta hoặc cho người thứ ba”. Điều này có
Mở cửa thị trường bảo hiểm của một số nước trong khu vực và bài học kinh nghiệm
đối với Việt Nam
Đặng Thanh Phong Lớp: Anh 13 – K41D - KTNT 5
nghĩa là người tham gia chuyển giao rủi ro cho người bảo hiểm bằng cách nộp
khoản phí để hình thành quỹ dự trữ. Khi người tham gia gặp rủi ro dẫn đến
tổn thất, người bảo hiểm lấy quỹ dự trữ trợ cấp hoặc bồi thường thiệt hại
thuộc phạm vi bảo hiểm cho người tham gia. Phạm vi bảo hiểm là những rủi
ro mà người tham gia đăng ký với người bảo hiểm.
2. Những nguyên tắc của bảo hiểm
2.1 Nguyên tắc số đông bù số ít
Đây là nguyên tắc xuyên suốt, không thể thiếu được trong bất kỳ một
nghiệp vụ bảo hiểm nào, theo đó hậu quả rủi ro xảy ra đối với một hoặc một
số ít người sẽ được bù đắp bằng số tiền huy động được từ rất nhiều người có
khả năng cùng gặp rủi ro như vậy.
Theo nguyên tắc này, càng nhiều người tham gia bảo hiểm thì quỹ bảo
hiểm tích tụ được càng lớn, việc chi trả càng trở nên dễ dàng hơn, rủi ro được
san sẻ cho nhiều người hơn. Thông thường, một sản phẩm bảo hiểm chỉ có thể
được triển khai khi có nhiều nhu cầu về cùng một loại bảo đảm nào đó.
2.2 Rủi ro có thể được bảo hiểm
Nguyên tắc này đảm bảo cho các công ty bảo hiểm những điều kiện cần
thiết để không bị bồi thường những rủi ro không phải do hành động bất ngờ
không lường trước được xảy ra. Chẳng hạn, những rủi ro do cố ý của người
được bảo hiểm hoặc những rủi ro gần như chắc chắn xảy ra, ví dụ như một
chiếc thuyền đi biển đã cũ, tuổi tàu già và không đảm bảo các điều kiện kỹ
thuật cần thiết.
Như vậy, các rủi ro đã xảy ra, chắc chắn hoặc gần như chắc chắn sẽ xảy
ra thì bị từ chối bảo hiểm. Thêm vào đó, nguyên nhân gây ra rủi ro có thể
được bảo hiểm phải là nguyên nhân khách quan, không cố ý.
Để đảm bảo nguyên tắc này, trong đơn bảo hiểm luôn có các rủi ro loại
trừ tuỳ thuộc vào từng nghiệp vụ bảo hiểm khác nhau. Đối với các rủi ro được
Mở cửa thị trường bảo hiểm của một số nước trong khu vực và bài học kinh nghiệm
đối với Việt Nam
Đặng Thanh Phong Lớp: Anh 13 – K41D - KTNT 6
nhận bảo hiểm lại có thể xem xét để phân loại, sắp xếp theo từng mức độ khác
nhau nếu cần thiết và áp dụng mức phí thích hợp.
2.3 Phân tán rủi ro
Khi nhận bảo hiểm từ người tham gia bảo hiểm nghĩa là công ty bảo
hiểm đã tự mình ràng buộc trách nhiệm đối với những tổn thất và hư hại xảy
ra đối với đối tượng được bảo hiểm. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, các
công ty bảo hiểm với tiềm lực tài chính chưa mạnh, quỹ bảo hiểm chưa nhiều
trong khi giá trị bảo hiểm lại lớn mà trong điều kiện kinh tế thị trường, các
công ty không thể từ chối khách hàng của mình. Điều này dẫn đến việc họ
phải phân tán rủi ro để tự bảo hiểm cho hoạt động của chính mình. Phân tán
rủi ro có thể thực hiện qua hai hình thức: đồng bảo hiểm và tái bảo hiểm. Về
mục đích, hai phương thức này đều giống nhau song về hình thức lại khác
nhau. Đồng bảo hiểm là hình thức nhiều nhà bảo hiểm cùng nhận bảo hiểm
cho một rủi ro có giá trị lớn. Trong khi đó, tái bảo hiểm là hình thức một công
ty bảo hiểm nhận bảo hiểm cho một loại rủi ro nhất định sau đó nhượng bớt
một phần rủi ro cho một hoặc nhiều nhà bảo hiểm khác.
2.4 Trung thực tuyệt đối
Nguyên tắc trung thực tuyệt đối áp dụng cho cả hai bên tham gia trong
hợp đồng bảo hiểm, đó là người mua – bên tham gia bảo hiểm và người bán –
công ty nhận bảo hiểm.
Đối với công ty bảo hiểm, họ phải đảm bảo đưa ra những điều kiện hợp
đồng phù hợp, minh bạch, đảm bảo quyền lợi của tất cả các bên. Khi xảy ra
tổn thất, quyền lợi của người được bảo hiểm, việc thanh toán số tiền bảo
hiểm, các thủ tục giải quyết có nhanh chóng và thuận lợi hay không là tuỳ
thuộc vào tính “trung thực tuyệt đối” của người bán sản phẩm bảo hiểm.
Ngược lại, đối với người tham gia bảo hiểm, anh ta phải tạo điều kiện
thuận lợi cho công ty bảo hiểm trong việc xác minh đối tượng bảo hiểm để
Mở cửa thị trường bảo hiểm của một số nước trong khu vực và bài học kinh nghiệm
đối với Việt Nam
Đặng Thanh Phong Lớp: Anh 13 – K41D - KTNT 7
làm điều kiện cần thiết cho việc xây dựng hợp đồng bảo hiểm. Trung thực
tuyệt đối trong khai báo và giám định khi tổn thất xảy ra.
Nói tóm lại, trung thực tuyệt đối là điều kiện bắt buộc của cả người bán
và người mua trong hợp đồng bảo hiểm, không những thế nó còn thể hiện
thiện chí của các bên tham gia – một điều hết sức cần thiết trong kinh doanh.
2.5 Quyền lợi có thể được bảo hiểm
Nhằm tránh việc trục lợi từ các hợp đồng bảo hiểm của người tham gia
bảo hiểm, trong bất kỳ mọi trường hợp người tham gia bảo hiểm phải có mối
quan hệ với đối tượng được bảo hiểm và được pháp luật công nhận. Mối quan
hệ này có thể thể hiện bằng quyền sở hữu, quyền chiếm hữu, quyền tài sản
hay nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng đối với đối tượng được bảo hiểm.
3. Tác dụng của bảo hiểm
Là đứa con sinh sau đẻ muộn trong thị trường tài chính nhưng thị
trường bảo hiểm đã có tốc độ phát triển nhanh chóng trong những thập niên
qua. Trên thế giới, doanh thu từ bảo hiểm ngày càng chiếm thị phần lớn hơn
trong GDP của các nước. Không phải ngẫu nhiên bảo hiểm lại có thể được ưu
ái như vậy, nó có một chỗ đứng thiết thực không chỉ trong nền kinh tế mà cả
trong đời sống chính trị, xã hội của một quốc gia.
- Trước hết, bảo hiểm góp phần ổn định tài chính cho người tham gia trước
những tổn thất xảy ra. Rủi ro do thiên tai hay tai nạn bất ngờ đều gây thiệt
hại về kinh tế, ảnh hưởng đến đời sống, thu nhập, sản xuất kinh doanh của
các cá nhân và đơn vị. Tổn thất đó được bảo hiểm trợ cấp hoặc bồi thường
về tài chính để người tham gia nhanh chóng khắc phục hậu quả, ổn định
đời sống và hoạt động sản xuất kinh doanh. Tác dụng này phù hợp với
mục tiêu kinh tế nên thu hút được số đông tham gia.
- Bảo hiểm góp phần đề phòng và hạn chế tổn thất, giúp cho cuộc sống con
người an toàn hơn, xã hội trật tự hơn, giảm bớt nỗi lo cho các cá nhân,
doanh nghiệp.
Mở cửa thị trường bảo hiểm của một số nước trong khu vực và bài học kinh nghiệm
đối với Việt Nam
Đặng Thanh Phong Lớp: Anh 13 – K41D - KTNT 8
- Bảo hiểm góp phần ổn định chi tiêu của ngân sách Nhà nước. Với quỹ huy
động từ sự tham gia của các thành viên, công ty bảo hiểm sẽ trợ cấp hoặc bồi
thường tổn thất thuộc phạm vi bảo hiểm cho người tham gia để họ khôi phục
đời sống, nhà nước do đó giảm được một phần ngân sách trợ giúp. Mặt khác,
hoạt động bảo hiểm nhất là bảo hiểm thương mại có trách nhiệm đóng góp
vào ngân sách thông qua thuế và các khoản đóng góp khác.
- Bảo hiểm là một phương thức huy động vốn, là một công cụ trên thị
trường tài chính. Bảo hiểm thu hút nguồn vốn đầu tư để phát triển kinh tế
xã hội.
- Bảo hiểm còn góp phần thúc đẩy phát triển quan hệ kinh tế giữa các nước
thông qua hoạt động tái bảo hiểm.
- Bảo hiểm thu hút một số lượng lao động nhất định của xã hội, góp phần
giảm bớt tình trạng thất nghiệp cho xã hội.
- Cuối cùng, bảo hiểm là chỗ dựa tinh thần cho mọi người, mọi tổ chức
kinh tế xã hội, giúp họ yên tâm và ổn định trong cuộc sống, sinh hoạt và
trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
Nói một cách hình ảnh, bảo hiểm chính là cánh tay vịn cho nền kinh tế,
chính trị, xã hội của mỗi quốc gia.
II. THỊ TRƢỜNG BẢO HIỂM
1. Khái niệm thị trƣờng bảo hiểm
Thị trường là một phạm trù kinh tế gắn liền với nền sản xuất hàng hoá.
Nền sản xuất hàng hoá tạo điều kiện cho sự ra đời của thị trường và ngược lại,
thị trường thúc đẩy nền sản xuất hàng hoá phát triển. Quan niệm chung nhất
về thị trường là “thị trường bao gồm toàn bộ các hoạt động trao đổi hàng hoá
được diễn ra trong sự thống nhất hữu cơ với các mối quan hệ do chúng phát
sinh gắn liền với một không gian nhất định” [5].
Mở cửa thị trường bảo hiểm của một số nước trong khu vực và bài học kinh nghiệm
đối với Việt Nam
Đặng Thanh Phong Lớp: Anh 13 – K41D - KTNT 9
Trong thị trường diễn ra hành vi cơ bản là mua và bán. Thông qua mua
và bán các sản phẩm hoặc dịch vụ, người mua tìm được cái mình cần và
người bán bán được cái mình có với giá cả được thoả thuận một cách tự do.
Như vậy, thị trường bảo hiểm có thể hiểu đơn giản là nơi mua và bán
các sản phẩm bảo hiểm. Sản phẩm bảo hiểm là loại sản phẩm dịch vụ đặc
biệt; là loại sản phẩm vô hình không thể cảm nhận được hình dáng, màu sắc,
kích thước, quy mô… Sản phẩm bảo hiểm còn đặc biệt ở chỗ nó không được
bảo hộ bản quyền, do vậy một sản phẩm bảo hiểm của công ty này cũng giống
như một loại hình bảo hiểm ở công ty khác, sản phẩm bảo hiểm ở nước này
cũng tương tự như sản phẩm bảo hiểm ở một nước khác. Trên thị trường bảo
hiểm, người ta bỏ tiền mua cái mà người ta không mong đợi sự kiện bảo hiểm
đó sẽ đến với mình để được bồi thường hay trả tiền bảo hiểm.
Tham gia thị trường bảo hiểm có người mua, tức khách hàng, người
bán và các tổ chức trung gian – những người môi giới bảo hiểm. Người mua
có thể là cá nhân hay tổ chức sở hữu tài sản hay có trách nhiệm dân sự trước
pháp luật, tính mạng hoặc thân thể có thể gặp rủi ro không lường trước được.
Việc chống lại rủi ro là không thể do vậy người ta tìm cách hạn chế hậu quả
của rủi ro đó bằng cách mua bảo hiểm cho những rủi ro có thể xảy ra. Khách
hàng gồm có khách hàng hiện tại và khách hàng tiềm năng – khách hàng
tương lai. Khách hàng hiện tại là khách hàng đang tham gia quá trình mua và
sử dụng một dịch vụ bảo hiểm nào đó. Khách hàng tiềm năng là khách hàng
có thể sẽ mua và sử dụng sản phẩm đó trong tương lai. Người bán là các
doanh nghiệp bảo hiểm. Theo tính chất sở hữu, doanh nghiệp bảo hiểm có thể
chia thành nhiều loại như doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp cổ phần,
doanh nghiệp liên doanh…; theo quy mô tổ chức có thể chia thành tổng công
ty, công ty…; hoặc theo loại hình kinh doanh có thể chia doanh nghiệp bảo
hiểm nhân thọ, doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ, bảo hiểm dầu khí… Các
tổ chức trung gian đóng vai trò là cầu nối giữa người mua với người bán. Tổ
Mở cửa thị trường bảo hiểm của một số nước trong khu vực và bài học kinh nghiệm
đối với Việt Nam
Đặng Thanh Phong Lớp: Anh 13 – K41D - KTNT 10
chức trung gian gồm các công ty môi giới hoặc các đại lý bảo hiểm. Hình
thức tổ chức và đặc trưng của các công ty này có thể khác nhau.
2. Những đặc trƣng cơ bản của thị trƣờng bảo hiểm
2.1 Những đặc trưng chung
Cũng giống như các thị trường khác, thị trường bảo hiểm có những đặc
trưng chung của các thị trường thông thường đó là:
2.1.1 Vận động của thị trường bảo hiểm tuân theo quy luật giá trị