Để tồn tại và phát triển, cá nhân hay tổ chức đều phải tham gia vào nhiều mối quan hệ xã hội khác nhau, trong đó việc các bên thiết lập với nhau những quan hệ để chuyển giao cho nhau các lợi ích vật chất nhất định nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng đóng vai trò quan trọng và là tất yếu đối với đời sống xã hội. Song việc chuyển giao các lợi ích vật chất này không phải tự nhiên thiết lập mà chỉ được hình thành khi có hành vi có ý chí của chủ thể, nói như C.Mác thì: “Tự chúng, hàng hóa không thể đi đến thị trường và trao đổi với nhau được. Muốn cho những vật đó trao đổi với nhau, thì những người giữ chúng phải đối xử với nhau như những người mà ý chí nằm trong các vật đó” [6, tr.577]. Theo đó, chỉ khi có sự thể hiện và thống nhất ý chí giữa các bên thì quan hệ trao đổi lợi ích vật chất mới được hình thành và được gọi là hợp đồng. Hợp đồng theo nghĩa chung nhất được hiểu là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ trong những quan hệ cụ thể.
Ở nước ta Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế đã ra đời từ những năm đầu của thời kỳ quá độ sang kinh tế thị trường đã tạo cơ sở pháp lý cho việc ký kết hợp đồng kinh tế và có tác dụng thúc đẩy các hoạt động kinh tế phát triển.
Khi đất nước chuyển sang nền kinh tế thị trường, đặc biệt là sau khi gia nhập WTO, các quan hệ kinh tế ngày càng phát triển mạnh mẽ. Cùng với tiến trình phát triển đó, một nền kinh tế thị trường mới đã được mở ra dựa trên sự thiết lập nền tảng pháp lý là quyền tự do kinh doanh trong quan hệ thương mại với phương thức hình thành chủ yếu là thông qua các quan hệ hợp đồng. Các quan hệ hợp đồng trong lĩnh vực thương mại cũng vì lẽ đó mà trở nên đa dạng và phức tạp hơn. Pháp luật hợp đồng với sứ mệnh là nền tảng pháp lý của mọi sự thỏa thuận tự nguyện luôn đóng vai trò quan trọng trong việc thiết lập các quan hệ hợp đồng bình đẳng, an toàn, cùng có lợi cho các tổ chức, cá nhân với mục đích đạt được lợi nhuận tối đa đã trở thành động lực trực tiếp của các bên tham gia quan hệ hợp đồng thương mại. Trong điều kiện như vậy, pháp luật về hợp đồng lĩnh vực thương mại có vai trò và tầm quan trọng lớn lao về nhiều mặt và khía cạnh khác nhau.
Hiện nay, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu được thực hiện, những tài liệu về hợp đồng được xuất bản ở nhiều hình thức khác nhau. Tuy nhiên, vấn đề pháp lý về hợp đồng trong lĩnh vực thương mại tại Việt Nam vẫn là một đề tài lớn còn gây nhiều ý kiến tranh luận khác nhau. Vì lẽ đó, em đã chọn đề tài “Một số vấn đề pháp lý về hợp đồng trong lĩnh vực thương mại tại Việt Nam” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp với mong muốn được đóng góp những tìm tòi và nghiên cứu của mình trong lĩnh vực pháp luật về hợp đồng, đặc biệt là về hợp đồng trong lĩnh vực thương mại.
Ngoài lời mở đầu, kết luận, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận có kết cấu gồm hai chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về hợp đồng trong lĩnh vực thương mại và pháp luật về hợp đồng trong lĩnh vực thương mại.
Chương 2: Các quy định của pháp luật hiện hành về hợp đồng trong lĩnh vực thương mại tại Việt Nam và một số kiến nghị.
Khóa luận tốt nghiệp của em chắc chắn vẫn không thể tránh khỏi những sơ xuất và thiếu sót trong quá trình thực hiện. Kính mong nhận được những đánh giá và nhận xét của các thày cô để em tiếp tục hoàn thiện đề tài cũng như vốn hiểu biết và kiến thức của mình.
Em xin chân thành cám ơn!
56 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2763 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Một số vấn đề pháp lý về hợp đồng trong lĩnh vực thương mại tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Để tồn tại và phát triển, cá nhân hay tổ chức đều phải tham gia vào nhiều mối quan hệ xã hội khác nhau, trong đó việc các bên thiết lập với nhau những quan hệ để chuyển giao cho nhau các lợi ích vật chất nhất định nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng đóng vai trò quan trọng và là tất yếu đối với đời sống xã hội. Song việc chuyển giao các lợi ích vật chất này không phải tự nhiên thiết lập mà chỉ được hình thành khi có hành vi có ý chí của chủ thể, nói như C.Mác thì: “Tự chúng, hàng hóa không thể đi đến thị trường và trao đổi với nhau được. Muốn cho những vật đó trao đổi với nhau, thì những người giữ chúng phải đối xử với nhau như những người mà ý chí nằm trong các vật đó” [6, tr.577]. Theo đó, chỉ khi có sự thể hiện và thống nhất ý chí giữa các bên thì quan hệ trao đổi lợi ích vật chất mới được hình thành và được gọi là hợp đồng. Hợp đồng theo nghĩa chung nhất được hiểu là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ trong những quan hệ cụ thể.
Ở nước ta Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế đã ra đời từ những năm đầu của thời kỳ quá độ sang kinh tế thị trường đã tạo cơ sở pháp lý cho việc ký kết hợp đồng kinh tế và có tác dụng thúc đẩy các hoạt động kinh tế phát triển.
Khi đất nước chuyển sang nền kinh tế thị trường, đặc biệt là sau khi gia nhập WTO, các quan hệ kinh tế ngày càng phát triển mạnh mẽ. Cùng với tiến trình phát triển đó, một nền kinh tế thị trường mới đã được mở ra dựa trên sự thiết lập nền tảng pháp lý là quyền tự do kinh doanh trong quan hệ thương mại với phương thức hình thành chủ yếu là thông qua các quan hệ hợp đồng. Các quan hệ hợp đồng trong lĩnh vực thương mại cũng vì lẽ đó mà trở nên đa dạng và phức tạp hơn. Pháp luật hợp đồng với sứ mệnh là nền tảng pháp lý của mọi sự thỏa thuận tự nguyện luôn đóng vai trò quan trọng trong việc thiết lập các quan hệ hợp đồng bình đẳng, an toàn, cùng có lợi cho các tổ chức, cá nhân với mục đích đạt được lợi nhuận tối đa đã trở thành động lực trực tiếp của các bên tham gia quan hệ hợp đồng thương mại. Trong điều kiện như vậy, pháp luật về hợp đồng lĩnh vực thương mại có vai trò và tầm quan trọng lớn lao về nhiều mặt và khía cạnh khác nhau.
Hiện nay, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu được thực hiện, những tài liệu về hợp đồng được xuất bản ở nhiều hình thức khác nhau. Tuy nhiên, vấn đề pháp lý về hợp đồng trong lĩnh vực thương mại tại Việt Nam vẫn là một đề tài lớn còn gây nhiều ý kiến tranh luận khác nhau. Vì lẽ đó, em đã chọn đề tài “Một số vấn đề pháp lý về hợp đồng trong lĩnh vực thương mại tại Việt Nam” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp với mong muốn được đóng góp những tìm tòi và nghiên cứu của mình trong lĩnh vực pháp luật về hợp đồng, đặc biệt là về hợp đồng trong lĩnh vực thương mại.
Ngoài lời mở đầu, kết luận, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận có kết cấu gồm hai chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về hợp đồng trong lĩnh vực thương mại và pháp luật về hợp đồng trong lĩnh vực thương mại.
Chương 2: Các quy định của pháp luật hiện hành về hợp đồng trong lĩnh vực thương mại tại Việt Nam và một số kiến nghị.
Khóa luận tốt nghiệp của em chắc chắn vẫn không thể tránh khỏi những sơ xuất và thiếu sót trong quá trình thực hiện. Kính mong nhận được những đánh giá và nhận xét của các thày cô để em tiếp tục hoàn thiện đề tài cũng như vốn hiểu biết và kiến thức của mình.
Em xin chân thành cám ơn!
CHƯƠNG 1:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỢP ĐỒNG TRONG LĨNH VỰC THƯƠNG MẠI VÀ PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG TRONG LĨNH VỰC THƯƠNG MẠI
1.1 Bản chất pháp lý của hợp đồng và hợp đồng trong lĩnh vực thương mại
Hiểu một cách khái quát và chung nhất theo nghĩa rộng, hợp đồng là sự thỏa thuận giữa hai hay nhiều bên về một vấn đề nhất định trong xã hội nhằm làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ của các bên đó. Bản chất thực sự của hợp đồng là sự tự nguyện và thống nhất ý chí thông qua thỏa thuận nhằm đạt được một hay nhiều lợi ích chung nào đó. Ở trong nền kinh tế thị trường, các quan hệ kinh tế xã hội hầu hết đều được xác lập và thực hiện thông qua các hình thức pháp lý là hợp đồng. Giao kết và thực hiện hợp đồng chính là cách thức cơ bản nhằm thực hiện hiệu quả các hoạt động kinh tế trong nền kinh tế thị trường.
Bộ Luật Dân Sự 2005 (BLDS 2005) đã đưa ra khái niệm về hợp đồng dân sự như sau: “Hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự” (Điều 388 BLDS 2005). Theo đó, phạm vi áp dụng của BLDS 2005, các quy định về hợp đồng dân sự được áp dụng cho các hợp đồng nói chung bao gồm cả các hợp đồng phát sinh từ quan hệ kinh doanh, thương mại. Do đó, khái niệm hợp đồng dân sự cũng là khái niện chung về hợp đồng, bao gồm cả hợp đồng trong lĩnh vực thương mại, đầu tư và kinh doanh.
Vì vậy, hợp đồng trong thương mại là một dạng cụ thể của hợp đồng dân sự. Tuy nhiên, bản thân nó cũng có những điểm riêng nhất định, khác biệt với những loại hợp đồng dân sự thông thường theo cách hiểu truyền thống. Khi nghiên cứu về hợp đồng trong lĩnh vực thương mại, chúng ta có thể đặt hợp đồng trong lĩnh vực thương mại trong mối liên hệ với hợp đồng dân sự theo nguyên lý “cái chung” và “cái riêng”. Theo cách tiếp cận này, những vấn đề cơ bản của hợp đồng trong lĩnh vực thương mại như giao kết hợp đồng, nguyên tắc và các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng, hợp đồng vô hiệu và cách xử lý hợp đồng vô hiệu sẽ được điều chỉnh bởi pháp luật và không có sự khác biệt nào với những hợp đồng dân sự thông thường. Tuy nhiên, trong thực tế vẫn sẽ vẫn gặp một số những quy định cụ thể dành riêng cho hợp đồng trong lĩnh vực thương mại do xuất phát từ đặc điểm và yêu cầu của hoạt động kinh doanh.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, để nhận diện hợp đồng trong thương mại, có thể căn cứ vào các tiêu chí pháp lý chủ yếu sau:
Thứ nhất, tiêu chí về chủ thể của hợp đồng:
Hợp đồng trong lĩnh vực thương mại thiết lập chủ yếu giữa các thương nhân. Theo Luật thương mại 2005 (LTM 2005): “thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động kinh doanh một cách độc lập, thường xuyên và có đăng kí kinh doanh” (Khoản 1, Điều 6).
Trong một số trường hợp, pháp luật quy định chủ thể hợp đồng đều phải là thương nhân (như hợp đồng đại diện cho thương nhân, hợp đồng đại lý thương mại, hợp đồng dịch vụ quảng cáo thương mại…). Tuy nhiên, cũng có những trường hợp khác hợp đồng trong thương mại chỉ đòi hỏi ít nhất một bên là thương nhân (như hợp đồng dịch vụ bán đấu giá hàng hóa, hợp đồng môi giới thương mại, hợp đồng dịch vụ xây dựng...).
Thứ hai, về hình thức của hợp đồng:
Hợp đồng trong lĩnh vực thương mại được thiết lập dựa trên cơ sở cách thức hai bên thỏa thuận theo ý chí tự nguyện, nó có thể được thể hiện dựa trên hình thức lời nói, văn bản hoặc cũng có thể là hành vi cụ thể của các bên giao kết. Trong thực tiễn, có một số trường hợp pháp luật bắt buộc các bên phải lập hợp đồng thành văn bản, ví dụ hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, hợp đồng dịch vụ khuyến mại, quảng cáo, hội chợ... LTM 2005 đồng thời cho phép các bên hợp đồng có thể thay thế hình thức văn bản bằng hình thúc khác có giá trị pháp lí tương đương bao gồm điện báo, telex, fax, thông điệp dữ liệu (Khoản 15, Điều 3, LTM 2005).
Thủ tục và hình thức của hợp đồng phải tuân theo những thể thức nhất định phù hợp với những quy định của pháp luật đối với từng loại hợp đồng.
Thứ ba, về mục đích của các bên trong hợp đồng:
Mục đích phổ biến của các bên trong hợp đồng lĩnh vực thương mại là lợi nhuận. Mục đích lợi nhuận luôn là đặc trưng trong các giao dịch kinh doanh thương mại do các bên hợp đồng đều nhằm thu được lợi nhuận từ việc thực hiện hợp đồng. Tuy vậy trong thực tế có một số trường hợp một bên chủ thể của hợp đồng không phải là thương nhân và họ giao kết hợp đồng không nhằm mục đích lợi nhuận. Theo quy định của LTM 2005, việc có áp dụng luật thương mại để điều chỉnh quan hệ hợp đồng này hay không sẽ do bên không có mục đích lợi nhuận quyết định (Khoản 3, Điều 1, LTM 2005).
1.2 Phân loại hợp đồng trong lĩnh vực thương mại
Việc phân loại hợp đồng nhằm mục đích xác định cơ chế điều chỉnh phù hợp với tính chất của từng loại hợp đồng, nâng cao hiệu quả điều chỉnh pháp luật đối với hợp đồng. Theo Điều 406 BLDS 2005, hợp đồng được phân loại theo những tiêu chí sau đây:
Thứ nhất, căn cứ vào mức độ tương xứng về quyền và nghĩa vụ giữa hai bên, hợp đồng nói chung được phân chia thành hợp đồng song vụ và hợp đồng đơn vụ.
Hợp đồng song vụ là hợp đồng mà mỗi bên đều có nghĩa vụ đối với nhau, nghĩa là mỗi bên chủ thể tham gia hợp đồng vừa là người có quyền lại vừa có nghĩa vụ. Do đó trong nội dung của hợp đồng này, quyền dân sự của chủ thể tham gia này đối lập tương ứng với nghĩa vụ của chủ thể tham gia hợp đồng kia và ngược lại. Ví dụ: trong hợp đồng mua bán hàng hóa, thì bên bán có nghĩa vụ giao hàng hóa cho bên mua và nhận tiền, còn bên mua có nghĩa vụ nhận hàng hóa và trả tiền cho bên bán. Mặc dù trong Bộ luật dân sự không quy định việc bắt buộc hợp đồng mua bán phải được thể hiện dưới hình thức cụ thể nào song trong trường hợp hợp đồng được giao kết theo hình thức văn bản thì phải lập thành nhiều văn bản để mỗi bên giữ một bản khi thực hiện. Khi các bên đã thoả thuận thời hạn thực hiện nghĩa vụ thì mỗi bên phải thực hiện nghĩa vụ của mình khi đến hạn, không được hoãn thực hiện với lý do bên kia chưa thực hiện nghĩa vụ đối với mình, trừ trường hợp tài sản của bên kia đã bị giảm sút nghiêm trọng đến mức không thể thực hiện được nghĩa vụ như đã cam kết cho đến khi bên kia có khả năng thực hiện được nghĩa vụ hoặc có người bảo lãnh, hoặc nếu bên thực hiện nghĩa vụ trước chưa thực hiện nghĩa vụ của mình khi đến hạn. Trong trường hợp các bên không thoả thuận bên nào thực hiện nghĩa vụ trước thì các bên phải đồng thời thực hiện nghĩa vụ đối với nhau. Nếu nghĩa vụ không thể thực hiện đồng thời thì nghĩa vụ nào khi thực hiện mất nhiều thời gian hơn thì nghĩa vụ đó phải được thực hiện trước.
Hợp đồng đơn vụ là hợp đồng mà chỉ một bên có nghĩa vụ. Điều này có nghĩa là trong hợp đồng đơn vụ, chỉ có một hay nhiều chủ thể có nghĩa vụ mà không có quyền gì đối với chủ thể kia, còn một hay nhiều chủ thể kia là người có quyền nhưng không phải thực hiện nghĩa vụ nào (ví dụ hợp đồng tặng cho một tài sản vật chất có giá trị). Do đó, nếu hợp đồng được giao kết dưới hình thức viết thì chỉ cần lập thành văn bản và giao cho bên có quyền giữ hợp đồng. Trong quá trình thực hiện hợp đồng, bên có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ đúng như đã thoả thuận.
Trong cách phân loại hợp đồng này, cơ sở để xác định một hợp đồng là song vụ hay hợp đồng đơn vụ chính là mối liên hệ giữa quyền và nghĩa vụ của các bên giao kết tại thời điểm hợp đồng có hiệu lực.
Thứ hai, căn cứ vào sự phụ thuộc lẫn nhau về hiệu lực giữa các quan hệ hợp đồng, hợp đồng được phân chia thành hợp đồng chính và hợp đồng phụ.
Hợp đồng chính là hợp đồng mà hiệu lực không phụ thuộc vào hợp đồng phụ. Theo đó, khi hợp đồng chính đã tuân thủ đầy đủ các điều kiện mà pháp luật quy định, thì đương nhiên phát sinh hiệu lực, nghĩa là phát sinh hiệu lực bắt buộc đối với các bên kể từ thời điểm giao kết.
Hợp đồng phụ là hợp đồng có hiệu lực khi có hai điều kiện sau: thứ nhất phải tuân thủ đầy đủ các điều kiện luật định về chủ thể, nội dung, đối tượng cũng như hình thức của hợp đồng và thứ hai là hợp đồng chính có hiệu lực.
Thứ ba, căn cứ vào chủ thể được hưởng lợi từ hợp đồng, hợp đồng được phân chia thành: hợp đồng vì lợi ích của các bên trong hợp đồng và hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba.
Hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba là hợp đồng mà các bên giao kết hợp đồng đều phải thực hiện nghĩa vụ và người thứ ba được hưởng lợi ích từ việc thực hiện nghĩa vụ đó. Khi thực hiện hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba thì người thứ ba có quyền trực tiếp yêu cầu bên có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ đối với mình. Nếu các bên có tranh chấp về việc thực hiện hợp đồng thì người thứ ba không có quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ cho đến khi tranh chấp được giải quyết. Bên có quyền cũng có thể yêu cầu bên có nghĩa vụ thực hiện hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba. Trong trường hợp người thứ ba từ chối lợi ích của mình trước khi bên có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ thì bên có nghĩa vụ không phải thực hiện nghĩa vụ nhưng phải báo cho bên có quyền và hợp đồng được coi là bị huỷ bỏ, các bên phải hoàn trả cho nhau những gì đã nhận. Nếu người thứ ba từ chối lợi ích của mình sau khi bên có nghĩa vụ đã thực hiện nghĩa vụ thì nghĩa vụ được xem là đã hoàn thành và bên có quyền vẫn phải thực hiện cam kết đối với bên có nghĩa vụ. Khi người thứ ba đã đồng ý hưởng lợi ích thì dù hợp đồng chưa được thực hiện, các bên giao kết hợp đồng cũng không được sửa đổi hoặc huỷ bỏ hợp đồng, trừ trường hợp được người thứ ba đồng ý.
Còn ở hợp đồng vì lợi ích của các bên trong hợp đồng, việc thực hiện nghĩa vụ của một bên nhằm mang lại lợi ích (đảm bảo quyền) của bên kia trong quan hệ hợp đồng.
Thứ tư, căn cứ vào nội dung của mối quan hệ kinh tế, hợp đồng được chia thành nhiều loại cụ thể như:
Hợp đồng mua bán hàng hóa, hợp đồng vận chuyển hàng hóa, hợp đồng trong xây dựng cơ bản, hợp đồng trong trung gian thương mại (đại diện cho thương nhân, môi giới kinh doanh, đại lý, ủy thác mua bán hàng hóa), hợp đồng dịch vụ trong xúc tiến thương mại (hợp đồng dịch vụ quảng cáo, hợp đồng dịch vụ trưng bày giới thiệu sản phẩm hàng hóa), hợp đồng tín dụng, hợp đồng bảo hiểm, hợp đồng trong lĩnh vực đầu tư (hợp đồng hợp tác kinh doanh, hợp đồng liên doanh…).
1.3. Lược sử hình thành và phát triển của chế định pháp lý về hợp đồng trong lĩnh vực thương mại tại Việt Nam
Bất cứ một quốc gia nào trên thế giới cũng luôn dành nhiều quan tâm đặc biệt cho việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về hợp đồng. Bởi lẽ, trong mọi thể chế kinh tế, hợp đồng luôn được coi là công cụ pháp lí quan trọng để các thương nhân tiến hành hoạt động kinh doanh thương mại tìm kiếm lợi nhuận. Việt Nam cũng không nằm ngoài quy luật chung tất yếu này.
Ở nước ta, ngay sau khi hai miền Nam - Bắc thống nhất, hòa bình lập lại sau 30 năm bền bỉ cả dân tộc đấu tranh chống ngoại xâm, ngay ngày 10/3/1975 Nhà nước đã ra Nghị định số 54/CP ban hành Điều lệ về chế độ hợp đồng kinh tế. Và sau đó không lâu, ngay từ những năm đầu của công cuộc “đổi mới” nền kinh tế, Pháp lệnh hợp đồng kinh tế (được Hội đồng nhà nước ban hành ngày 25/9/1989 và đã hết hiệu lực từ ngày 01/01/2006) tiếp tục ra đời thay thế cho Nghị định 54/CP, đánh dấu mốc quan trọng cho quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế từ kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường. Và cho tới ngày hôm nay, pháp luật về hợp đồng trong hoạt động thương mại đã có nhiều thay đổi căn bản, từ tư tưởng đến nội dung và hình thức.
1.3.1 Giai đoạn từ 1945 đến năm 1989
Đây là giai đoạn trước đổi mới nền kinh tế, là những cơ sở đầu tiên làm nền cho việc ra đời một chế định pháp lý về hợp đồng trong lĩnh vực thương mại hoàn chỉnh về sau.
Bắt đầu từ cách mạng tháng tám thành công năm 1945, đất nước ta giành lại được độc lập từ tay người Pháp, Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã ưu tiên dành nhiều chính sách, pháp luật để khuyến khích phát triển, khôi phục kinh tế đang kiệt quệ của đất nước sau 9 năm kháng chiến chống Pháp trường kì và gian khổ. Các quy định đầu tiên về hợp đồng đã ra đời. Do yếu tố hoàn cảnh lịch sử, các quy định pháp luật về hợp đồng kinh tế (hợp đồng trong thương mại) ra đời sớm hơn so với các quy định về hợp đồng dân sự. Ngay từ những năm 1956, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Điều lệ tạm thời về hợp đồng kinh doanh kèm theo Nghị định số 735/TTG ngày 10/4/1956. Theo bản Điều lệ đó, hợp đồng giữa các đơn vị kinh tế với nhau đã được gọi chung là hợp đồng kinh doanh, được kí kết trên nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng về quyền và nghĩa vụ. Tuy vậy, trong lĩnh vực dân sự, chủ tịch Hồ Chí Minh kí sắc lệnh số 77/SL ngày 22/5/1950 cho phép áp dụng các quy định của pháp luật dân sự thuộc chế độ cũ trong các quan hệ dân sự. Điều này đồng nghĩa với việc các bộ luật dân sự riêng biệt của ba miền là “Bộ luật Bắc Kì” ở miền Bắc, “Hoàng Việt Hộ luật” ở miền Trung và “Bộ dân luật giản yếu Nam Kì” của người An Nam ở miền Nam vẫn tiếp tục được duy trì áp dụng cho tới năm 1959, khi Chỉ thị số 772/CT-TANDTC của Tòa án nhân dân tối cao được ban hành, chính thức chấm dứt việc áp dụng các văn bản của chế độ phong kiến, thực dân cũ. Nhìn vào đó, có thể thấy suốt từ năm 1959 cho tới khi Pháp lệnh hợp đồng dân sự năm 1991, ở miền Bắc Việt Nam không hề có văn bản pháp luật riêng nào điều chỉnh quan hệ hợp đồng trong lĩnh vực dân sự.
Vậy là, do yếu tố thời đại và yếu tố lịch sử dân tộc đòi hỏi mà những chế định pháp lí về hợp đồng trong lĩnh vực kinh doanh đã nảy mầm từ rất sớm. Đó là kết quả tất yếu của một đất nước vốn bị ách đô hộ phong kiến tồn tại hàng trăm năm và chế độ thực dân, tay sai tồn tại hàng chục năm ròng.
Kể từ năm 1960, khi miền Bắc nước ta bước vào giai đoạn tiến lên xây dựng Chủ nghĩa xã hội trên cơ sở nền kinh tế kế hoạch tập trung, cả miền Bắc đã chuyển mình qua một bước ngoặt mới như một dấu mốc quan trọng. Nhà nước ta đã thực hiện cơ chế kế hoạch tập trung, tức là Nhà nước vừa là trung tâm quyền lực chính trị, vừa là trung tâm quyền lực kinh tế - chủ sở hữu duy nhất của đa số các tư liệu sản xuất chủ yếu lúc bấy giờ. Nền kinh tế đất nước được tập trung hóa cao độ bằng cả quản lí vĩ mô và quản lí vi mô, tức là Nhà nước xuất hiện với vai trò duy nhất, vừa thành lập các tổ chức kinh tế để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, vừa đồng thời lãnh đạo, tổ chức quản lí các tổ chức sản xuất kinh doanh. Việc sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào và sản xuất cho ai đều do Nhà nước quyết định. Các tổ chức, đơn vị kinh tế Xã hội chủ nghĩa thực hiện các quan hệ hợp đồng với nhau và với các bên có liên quan cũng đều chỉ nhằm thực hiện các kế hoạch và nhiệm vụ được Nhà nước giao. Vì vậy, ở giai đoạn này, hợp đồng không được hiểu theo nghĩa đích thực của nó là tự do thỏa thuận mà nó thực chất được hiểu là một dạng “hợp đồng kế hoạch”. Kí kết và thực hiện hợp đồng luôn song hành và gắn liền với kế hoạch nhà nước bởi đây là một kỉ luật bắt buộc mà Nhà nước đề ra.
Thực hiện công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội với các “kế hoạch” theo người anh cả Liên Xô, phải thừa nhận rằng pháp luật kinh tế Việt Nam giai đoạn này chịu ảnh hưởng sâu sắc của pháp luật kinh tế Liên Xô, bao gồm cả việc sử dụng thuật ngữ “hợp đồng kinh tế”. Thời kì này, kế hoạch hóa nền kinh tế quốc dân chính là hình thức quản lí kinh tế của Liên Xô, những kế hoạch Nhà nước không những mang tính định hướng, dự báo, kiểm tra mà nó còn là kỉ luật bắt buộc. Nói như tinh thần mà V.I. Lê nin đã chỉ ra thì: “Chủ nghĩa xã hội không có ý nghĩa nếu không có tập trung hóa kế hoạch nhà nước” [7]. Mô hình kế hoạch tập trung được áp dụng triệt để ở Liên Xô theo một thể thống nhất từ trung ương tới địa phương. Để thực hiện điều này, Liên Xô áp dụng theo mô hình vòng tròn, nghĩa là nhà nước xây dựng các chỉ tiêu, kế hoạch và giao cho các xí nghiệp quốc doanh của mình thực hiện. Sau đó, các xí nghiệp quốc doanh lại kí hợp đồng với nhau để thực hiện kế hoạch hoặc nhiệm vụ do chính nhà nước đã giao cho. Hợp đồng kinh tế ở Liên Xô thực chất là dạng hợp đồng được kí kết giữa các tổ chức xã hội chủ nghĩa nhằm đem lại những mục đích kinh tế nhất định gắn với kế hoạch chung của Nhà nước, là trách nhiệm mà Nhà nước giao phó. Trong thời kì kế hoạch hóa tập trung đó, ở Liên Xô, Luật kinh tế được coi là lĩnh vực pháp luật độc lập với pháp luật dân sự. Chịu ảnh hưởng sâu sắc của tư duy nước Nga Xô Viết, các nhà làm luật của Việt nam khi đó cũng đi theo hướng xây dựng pháp luật về hợp đồng kinh tế (hợp đồng trong lĩnh vực thương mại) cũng đi theo hướng độc lập với pháp luật về hợp đồng dân sự.
Ngày 04/01/1960, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Nghị định số 04/TTg ban hành Điều lệ tạm thời về hợp đồng kinh tế để thay thế cho Điều lệ tạm thời về hợp đồng kinh doanh (năm 1956). Điều lệ này được áp dụng trong một thời gian khá dài ở miền Bắc Việt Nam và chỉ chấm dứt sứ mệnh lịch sử của nó vào năm 1975, khi Nghị định số 54/CP ngày 10/3/1975