Trong một nền sản xuất xã hội của bất kỳ một quốc gia nào,lao động và tiền lương luôn luôn là các vấn đề thu hút sự quan tâm sâu sắc của người lao động cũng như người làm công tác quản lý, sử dụng lao động. Phạm trù này hàm chứa nhiều mối quan hệ giữa sản xuất và phân phối, trao đổi, giữa tích luỹ và tiêu dùng, giữa thu nhập và nâng cao mức sống của các thành phần dân cư.
Khi nền kinh tế nước ta chuyển từ nền kinh tế kế hoạch tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, các doanh nghiệp phải tự chủ trong sản xuất kinh doanh, tự hạch toán mọi chi phí, thì lao động và tiền lưong càng trở thành vấn đề quan trọng.
Đối với các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, để tồn tại và phát triển thì họ phải tìm mọi cách nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Muốn vậy, công tác quản lý lao động và tiền lương phải được chú ý đúng mức. Những việc làm khác sẽ không thể phát huy được tác dụng, thậm chí là không có hiệu quả nếu công tác này không được chú trọng và thường xuyên củng cố.
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, tổ chức quản lý lao động và tiền lương là nội dung quan trọng trong công tác quản trị kinh doanh của doanh nghiệp, nó là một trong những nhân tố quan trọng nhất quyết định số lượng, chất lượng sản phẩm hàng hoá. Tổ chức công tác, sử dụng tiền lương giúp cho việc quản lý lao động của doanh nghiệp đi vào nền nếp, thúc đẩy người lao động hăng say làm việc, chấp hành tốt kỷ luật lao động nhằm tăng năng suất và hiệu quả công việc đồng thời cũng tạo cơ sở tính lương đúng với nguyên tắc phân phối theo lao động. Nếu tổ chức tốt công tác lao động – tiền lương, quản lý tốt quỹ lương và đảm bảo trả lương, trợ cấp, bảo hiểm xã hội theo đúng chế độ chính sách sẽ tạo được cơ sở hợp lý cho việc phân bổ chi phí nhân công vào giá thành sản phẩm một cách chính xác, điều này đặc biệt có ý nghĩa quan trọng đối với doanh nghiệp có quy mô và số lượng cán bộ công nhân viên lớn.
Công ty liên doanh khách sạn Thống Nhất Metropole là một trong những liên doanh đầu tiên về lĩnh vực kinh doanh khách sạn tại Hà Nội. Đây là khách sạn “5 sao” chịu sự quản lý trực tiếp của tập đoàn ACCOR. Để có thể cạnh tranh với hàng loạt các khách sạn lớn khác thì vấn đề đặt ra hàng đầu đối với Công ty liên doanh khách sạn Thống Nhất Metropole là công tác quản lý lao động và tiền lương. Làm thế nào để xây dựng được một cơ cấu lao động hợp lý, một hệ thống tiền lương đảm bảo được quyền lợi của người lao động, từ đó phát huy tối đa khả năng của người lao động, đem lại hiệu quả kinh doanh cao trong toàn khách sạn. Chính vì lẽ đó, Công ty liên doanh khách sạn Thống Nhất Metropole đã rất chú trọng tới công tác quản lý nhân lực và tiền lương của mình.
76 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2143 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Một số vấn đề về cải cách hệ thống quản lý nhân sự và hệ thống tiền lương trong các nhà hàng và khách sạn (cụ thể công ty liên doanh khách sạn thống nhất Metropole), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Trong một nền sản xuất xã hội của bất kỳ một quốc gia nào,lao động và tiền lương luôn luôn là các vấn đề thu hút sự quan tâm sâu sắc của người lao động cũng như người làm công tác quản lý, sử dụng lao động. Phạm trù này hàm chứa nhiều mối quan hệ giữa sản xuất và phân phối, trao đổi, giữa tích luỹ và tiêu dùng, giữa thu nhập và nâng cao mức sống của các thành phần dân cư.
Khi nền kinh tế nước ta chuyển từ nền kinh tế kế hoạch tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, các doanh nghiệp phải tự chủ trong sản xuất kinh doanh, tự hạch toán mọi chi phí, thì lao động và tiền lưong càng trở thành vấn đề quan trọng.
Đối với các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, để tồn tại và phát triển thì họ phải tìm mọi cách nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Muốn vậy, công tác quản lý lao động và tiền lương phải được chú ý đúng mức. Những việc làm khác sẽ không thể phát huy được tác dụng, thậm chí là không có hiệu quả nếu công tác này không được chú trọng và thường xuyên củng cố.
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, tổ chức quản lý lao động và tiền lương là nội dung quan trọng trong công tác quản trị kinh doanh của doanh nghiệp, nó là một trong những nhân tố quan trọng nhất quyết định số lượng, chất lượng sản phẩm hàng hoá. Tổ chức công tác, sử dụng tiền lương giúp cho việc quản lý lao động của doanh nghiệp đi vào nền nếp, thúc đẩy người lao động hăng say làm việc, chấp hành tốt kỷ luật lao động nhằm tăng năng suất và hiệu quả công việc đồng thời cũng tạo cơ sở tính lương đúng với nguyên tắc phân phối theo lao động. Nếu tổ chức tốt công tác lao động – tiền lương, quản lý tốt quỹ lương và đảm bảo trả lương, trợ cấp, bảo hiểm xã hội theo đúng chế độ chính sách sẽ tạo được cơ sở hợp lý cho việc phân bổ chi phí nhân công vào giá thành sản phẩm một cách chính xác, điều này đặc biệt có ý nghĩa quan trọng đối với doanh nghiệp có quy mô và số lượng cán bộ công nhân viên lớn.
Công ty liên doanh khách sạn Thống Nhất Metropole là một trong những liên doanh đầu tiên về lĩnh vực kinh doanh khách sạn tại Hà Nội. Đây là khách sạn “5 sao” chịu sự quản lý trực tiếp của tập đoàn ACCOR. Để có thể cạnh tranh với hàng loạt các khách sạn lớn khác thì vấn đề đặt ra hàng đầu đối với Công ty liên doanh khách sạn Thống Nhất Metropole là công tác quản lý lao động và tiền lương. Làm thế nào để xây dựng được một cơ cấu lao động hợp lý, một hệ thống tiền lương đảm bảo được quyền lợi của người lao động, từ đó phát huy tối đa khả năng của người lao động, đem lại hiệu quả kinh doanh cao trong toàn khách sạn. Chính vì lẽ đó, Công ty liên doanh khách sạn Thống Nhất Metropole đã rất chú trọng tới công tác quản lý nhân lực và tiền lương của mình.
Để hoàn thành đề tài khoá luận tốt nghiệp của mình là “ Một số vấn đề về cải cách hệ thống quản lý nhân sự và hệ thống tiền lương trong các nhà hàng và khách sạn “ ( cụ thể ở đây là Công ty liên doanh khách sạn Thống Nhất Metropole), em đã nhận được sự hướng dẫn tận tình của các thầy cô giáo cùng sự hỗ trợ của các cán bộ, nhân viên phòng tổ chức nhân sự, phòng Kế toán của Công ty liên doanh khách sạn Thống Nhất Metropole.
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUẢN LÝ LAO ĐỘNG VÀ TIỀN LƯƠNG
I. Quản lý lao động và tiền lương trong doanh nghiệp.
Cơ sở lý luận chung về quản lý lao động.
Khái niệm quản lý lao động
Quản lý lao động là hoạt động quản lý lao động con người trong một tổ chức nhất định trong đó chủ thể quản trị tác động lên khách thể bị quản trị nhằm mục đích tạo ra và đảm bảo lợi ích chung của cả tổ chức. Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp được đặt trong một bối cảnh cạnh tranh quyết liệt. Vì vậy, để có thể tồn tại, cạnh tranh và phát triển, doanh nghiệp phải thường xuyên tìm cách nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Trong đó công việc quan trọng phải quan tâm hàng đầu là quản trị lao động. Những việc làm khác sẽ trở nên vô nghĩa nếu công tác quản lý lao động không được chú ý đúng mức, không được thường xuyên hoàn thiện và cải tiến. Một doanh nghiệp dù có điều kiện thuận lợi trong kinh doanh, có đầy đủ điều kiện vật chất và kỹ thuật để kinh doanh có lãi, một đội ngũ công nhân viên đủ mạnh nhưng khoa học quản lý không được áp dụng một cách có hiệu quả thì doanh nghiệp đó cũng không thể tồn tại và phát triển được.
Ngày nay, với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật và sự chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường đã làm cho những mối quan hệ giữa con người ngày càng trở nên phức tạp. Nhiệm vụ của quản lý lao động là điều hành chính xác, trọn vẹn các mối quan hệ ấy để sản xuất được tiến hành liên tục, nhịp nhàng và đem lại hiệu quả cao. Vì vậy, vai trò của quản lý lao động đối với doanh nghiệp là rất quan trọng. Quản lý lao động là một bộ phận không thể tách rời của quản trị sản xuất kinh doanh; nó hướng tới mục đích củng cố, duy trì đầy đủ số lượng cũng như chất lượng của người lao động ở mức cần thiết cho tổ chức để đạt được mục tiêu đề ra, tìm kiếm và phát triển những hình thức, phương pháp tốt nhất để con người có thể đóng góp nhiều sức lực phục vụ cho các mục tiêu của tổ chức đồng thời cũng tạo cơ hội để phát triển không ngừng chính bản thân con người. Sử dụng có hiệu quả nguồn lực con người là mục tiêu của quản lý lao động.
1.2. Các quan điểm về quản lý lao động trong doanh nghiệp
Nền kinh tế nước ta đang từng bước chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN với chính sách “ đổi mới “ hội nhập với các nước trong khu vực và trên thế giới. Yếu tố con người, yếu tố trí tuệ được đề cao hơn yếu tố vốn và kỹ thuật, trở thành nhân tố quyết định tới sự thành bại của mỗi doanh nghiệp. Do vậy, yêu cầu về trình độ và năng lực của con người của mỗi doanh nghiệp cũng khác trước. Mọi doanh nghiệp ở mức tối thiểu dều yêu cầu đội ngũ công nhân viên của mình hoàn thành nhiệm vụ, tiêu chuẩn định mức đặt ra, chấp hành những chính sách, những quy định của công ty.
Tuy vậy, thực tế kinh doanh, các doanh nghiệp ngày càng yêu cầu đội ngũ nhân lực của mình nhiều hơn mức tối thiểu. Doanh nghiệp không chỉ yêu cầu nhân viên hoàn thành công việc mà còn phải biết sáng tạo, cải tiến, tìm ra những giải pháp mới; không chỉ chấp hành quy chế mà còn phải nhiệt huyết, gắn bó với doanh nghiệp, có trách nhiệm với kết quả chung của doanh nghiệp. Mặt khác, không phải chỉ có những yêu cầu, đòi hỏi từ phía doanh nghiệp đối với người lao động mà đội ngũ người lao động cũng có những đòi hỏi nhất định đối với doanh nghiệp mà họ đang làm việc. ở một mức tối thiểu, công nhân yêu cầu doanh nghiệp phải trả lương đầy đủ, đúng hạn, hợp lý và các điều kiện lao động an toàn. Người lao động yêu cầu tham gia vào quá trình xây dựng chiến lược, chính sách của doanh nghiệp. Người lao động muốn phát triển năng lực cá nhân bằng cách nâng cao và tiếp thu những kiến thức, những kỹ năng mới. Họ muốn cống hiến, vận động đi lên trong hệ thống các vị trí, chức vụ công tác của doanh nghiệp, được chủ động tham gia đóng góp quan trọng vào kết quả hoạt động của doanh nghiệp. Với một nền kinh tế đang trên đà phát triển mạnh, tạo nên sự cạnh tranh đầu vào về lao động giữa các doanh nghiệp ngày càng cao. Người lao động do đó phải trang bị cho mình những kiến thức và rèn luyện kỹ năng đáp ứng yêu cầu của doanh nghiệp. Ngược lại, doanh nghiệp cần phải có chính sách thích hợp đáp ứng yêu cầu nguyện vọng của người lao động, tạo nên một môi trường làm việc có hiệu quả để doanh nghiệp đạt được lợi nhuận tối đa.
Quản lý lao động là quản lý một nhân tố cơ bản nhất, quyết định nhất của lực lượng sản xuất đó là nhân tố con người. Trong cơ chế thị trường cạnh tranh hiện nay, các cơ sở doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển được đều rất cần được trang bị máy móc, thiết bị hiện đại, có sự nhảy vọt thay đổi về chất. Tuy nhiên nếu thiếu nhân tố con người, thiếu một đội ngũ lao động có trình độ, có tổ chức thì cũng không thể phát huy hết được tác dụng của những nhân tố kia.
Nói tóm lại, để quản lý lao động tốt thì phải giải quyết các nhiệm vụ sau:
Thứ nhất là sử dụng lao động một cách hợp lý có kế hoạch, phù hợp với điều kiện tổ chức, kỹ thuật, tâm sinh lý người lao động nhằm không ngừng tăng năng suất lao động trên cơ sở kết hợp chặt chẽ với các yếu tố khác của quá trình sản xuất nhằm khai thác có hiệu quả nhất mọi nguồn lực của sản xuất kinh doanh.
Thứ hai là bồi dưỡng đội ngũ lao động về trình độ văn hoá, chính trị, tư tưởng, chuyên môn nghiệp vụ, đạc biệt là nâng cao mức sống vật chất cũng như tinh thần nhằm đảm bảo tái sản xuất sức lao động, phát triển con người một cách toàn diện.
Quản lý lao động nhằm sử dụng và bồi dưỡng lao động là hai mặt khac nhau nhưng lại có sự liên quan mật thiết với nhau. Nếu tách rời hoặc đối lập hai công việc này thì đó là một sai lầm nghiêm trọng.
2. Cơ sở lý luận chung về tiền lương
Tiền lương được hiểu là số tiền mà người lao động nhận được từ người sử dụng lao động tương ứng với số lượng và chất lượng lao động mà họ đã tiêu hao trong quá trình tạo ra của cải, vật chất cho xã hội.
Như vậy, tiền lương được biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá sức lao động. Ở nước ta hiện nay có sự phân biệt rõ ràng giữa các yếu tố trong tổng thu nhập từ lao động sản xuất kinh doanh của người lao động: tiền lương
( lương cơ bản ), phụ cấp, tiền thưởng và phúc lợi xã hội. Theo quan điểm của chính phủ về chính sách tiền lương thì tiền lương là giá cả sức lao động, được hình thành thông qua thoả thuận giữa người lao động và người sử dụng lao động phù hợp với quan hệ cung cầu sức lao động trong nền kinh tế thị trường. Tiền lương của người lao động do hai bên thoả thuận trong hợp đồng lao động và được trả theo năng suất, chất lượng lao động và hiệu quả công việc.
2.1. Bản chất của tiền lương.
Để tiến hành quá trình sản xuất kinh doanh cần phải có các yếu tố cơ bản như: lao động, tư liệu lao động, đối tượng lao động; trong đó lao động là yếu tố chính có tính chất quyết định. Lao động không có giá trị riêng biệt mà lao động là hoạt động tạo ra giá trị. Cái mà người ta mua bán không phải là lao động mà là sức lao động. Khi lao động trở thành hàng hoá thì giá trị của nó được đo bằng lao động kết tinh trong một sản phẩm cụ thể. Người lao động bán sức lao động và nhận được giá trị sức lao động dưới hình thái tiền lương.
Theo quan điểm tiền lương là số lượng tiền tệ mà người sử dụng lao động trả cho người lao động để hoàn thành công việc theo chức năng, nhiệm vụ quy định thì bản chất tiền lương là giá cả hàng hoá sức lao động được hình thành thông qua sự thoả thuận giữa người lao động và người sử dụng lao động đồng thời chịu sự chi phối của các quy luật kinh tế trong đó có quy luật cung cầu. Tiền lương người lao động nhận được phải đảm bảo là nguồn thu nhập, nguồn sống của bản thân người lao động cũng như gia đình của họ, là điều kiện để người lao động hoà nhập với xã hội.
Cũng như các loại giá cả hàng hoá khác trên thị trường, tiền lương và tiền công của người lao động ở khu vực sản xuất kinh doanh do thị trường quyết định. Nguồn tiền lương và thu nhập của người lao động bắt nguồn từ kết quả của hoạt động sản xuất kinh doanh. Sự quản lý vĩ mô của Nhà nước về lĩnh vực này bắt buộc các doanh nghiệp phải đảm bảo cho người lao động có mức thu nhập thấp nhất phải bằng mức lương tối thiểu do Nhà nước quy định.
Trong các yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất, sức lao động là yếu tố mang tính quyết định. Do đó, có thể nói tiền lương là phạm trù của sản xuất, yêu cầu phải tính đúng, tính đủ trước khi trả hoặc cấp phát cho người lao động. Cũng chính vì sức lao động là yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất cần phải được bù đắp sau khi đã hao phí nên tiền lương cũng phải được thông qua quá trình phân phối và phân phối lại thu nhập quốc dân dựa trên hao phí, hiệu quả lao động. Và ở đây tiền lương lại thể hiện là một phạm trù phân phối. Sức lao động là hàng hoá cũng như các loại hàng hoá khác nên tiền lương cũng là phạm trù trao đổi. Nó cũng đòi hỏi phải ngang giá với giá cả của các tư liệu tư dùng, sinh hoạt cần thiết nhằm tái sản xuất sức lao động cần thiết nhằm tái sản xuất sức lao động, sức lao động cần phải được tái sản xuất thông qua quỹ tiêu dùng cá nhân và do đó tiền lương lại là phạm trù thuộc lĩnh vực tiêu dùng.
Như vậy, tiền lương là một phạm trù kinh tế gắn liền lao động, tiền tệ và nền sản xuất hàng hoá. Tiền lương là biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá sức lao động mà người lao động sử dụng để bù đắp hao phí lao động đã bỏ ra trong quá trình sản xuất kinh doanh. Mặt khác, về hình thức, trong điều kiện tồn tại của nền sản xuất hàng hoá và tiền tệ thì tiền lương là một bộ phận cấu thành nên giá trị sản phẩm do lao động tạo nên. tuỳ theo cơ chế quản lý mà tiền lương có thể được xác định là một bộ phận của chi phí sản xuất cấu thành nên giá thành sản phẩm hay là một bộ phận của thu nhập.
2.2. Chức năng của tiền lương.
Tiền lương là một nhân tố hết sức quan trọng của quá trình quản lý nói chung và quản lý lao động tiền lương nói riêng. Có thể kể ra một số chức năng cơ bản của tiền lương như sau:
- Kích thích lao động: chức năng này nhằm duy trì năng lực làm việc lâu dài có hiệu quả, dựa trên cơ sở tiền lương phải đảm bảo bù đắp sức lao động đã hao phí để khuyến khích tăng năng suất. Về mặt nguyên tắc, tiền lương phải đảm bảo lợi ích kinh tế cho người lao động, tạo niềm hứng khởi trong công việc, phát huy tinh thần sáng tạo tự học hỏi để nâng cao trình độ nghiệp vụ, chuyên môn để từ đó giúp họ làm việc với hiệu quả cao nhất và mức lương nhận được thoả đáng nhất.
- Giám sát lao động: giúp nhà quản trị tiến hành kiểm tra, theo dõi, giám sát người lao động làm việc theo kế hoạch của mình nhằm đạt được những mục tiêu mong đợi, đảm bảo tiền lương chi ra phải đạt hiệu quả cao. Hiệu quả của việc chi trả lương không chỉ tính theo tháng, quý mà còn được tính theo từng ngày, từng giờ trong toàn doanh nghiệp hoặc ở các bộ phận khác nhau.
- Điều hoà lao động: đảm bảo vai trò điều phối lao động hợp lý, người lao động sẽ từ nơi có tiền lương thấp đến nơi có tiền lương cao hơn. Với mức lương thoả đáng, họ sẽ hoàn thành tốt các công việc được giao.
- Tích luỹ: với mức tiền lương nhận được, người lao động không những duy trì cuộc sống hàng ngày mà còn để dự phòng cho cuộc sống sau này khi họ đã hết khả năng lao động hoặc gặp rủi ro bất ngờ.
2.3. Quỹ tiền lương, các hình thức ( phương pháp )trả lương và các loại tiền thưởng.
2.3.1 Quỹ tiền lương trong doanh nghiệp.
Căn cứ vào kết quả thực hiện nhiệm vụ sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp xác định nguồn quỹ lương tương ứng để trả cho người lao động. Nguồn này bao gồm:
Quỹ tiền lương theo đơn giá tiền lương được giao
Quỹ tiền lương bổ xung theo chế độ quy định của Nhà nước
Quỹ tiền lương từ các hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ khác ngoài đơn giá tiền lương được giao
Quỹ tiền lương dự phòng từ năm trước chuyển sang
Nguồn quỹ tiền lương nêu trên được gọi là quỹ tổng tiền lương.
Như vậy, cán bộ công nhân viên sẽ nhận tiền lương phụ cấp từ quỹ tiền lương của doanh nghiệp. Trong doanh nghiệp, việc quản lý quỹ lương đòi hỏi phải hết sức chặt chẽ, hợp lý, hiệu quả và việc cấp phát lương phải đảm bảo nguyên tắc phân phối theo lao động....nhằm tăng năng suất lao động và hạ giá thành sản phẩm. Quản lý và kiểm tra việc thực hiện quỹ lương ở các doanh nghiệp phải do cơ quan chủ quản của doanh nghiệp tiến hành trên cơ sở đối chiếu, so sánh thường xuyên quỹ lương thực hiện với quỹ lương kế hoạch của doanh nghiệp trong mối quan hệ với việc thực hiện kế hoạch sản xuát kinh doanh của doanh nghiệp. Mặt khác thực hiện việc quản lý tiền lương là xác định mối quan hệ giữa người sử dụng lao động và người lao động với Nhà nước về phân chia lợi ích sau một thời kỳ, hay khoảng thời gian sản xuất kinh doanh nhất định cùng với một số chỉ tiêu tài chính khác. Việc xác định hao phí sức lao động cho một đơn vị sản phẩm, cho 1000đ doanh thu hay lợi nhuận là hết sức quan trọng và cần thiết. Đó là chi phí hợp lệ trong gía thành, là căn cứ để xác định lợi tức chịu thuế, là công cụ để Nhà nước quản lý tiền lương và thu nhập trong các doanh nghiệp. Cụ thể, Nhà nước quyết định đơn giá tiền lương của các sản phẩm trọng yếu, đặc thù, các sản phẩm còn lại thì doanh nghiệp tự tính giá tiền lương theo hướng dẫn chung ( Thông tư số 13/LDTBXH-TT ban hành ngày 10/04/1997 ). Doanh nghiệp sẽ tự quyết định đơn giá tiền lương nhưng phải đăng ký với cơ quan chủ quản. Việc xác định đơn giá tiền lương có thể dựa trên các chỉ tiêu sau:
Tổng sản phẩm ( kể cả sản phẩm quy đổi ) bằng hiện vật.
Tổng doanh thu.
Tổng thu trừ tổng chi
Lợi nhuận.
Doanh nghiệp sẽ xác định đơn giá tiền lương tuỳ theo tính chất, đặc điểm hoạt động, sản xuất kinh doanh, cơ cấu tổ chức và chỉ tiêu kinh tế gắn với việc trả lương có hiệu quả của doanh nghiệp.
Sử dụng tổng quỹ tiền lương: để đảm bảo quỹ tiền lương không vượt chi so với quỹ tiền lương được hưởng, dồn chi quỹ tiền lương vào các tháng cuối năm hoặc để dự phòng quỹ tiền lương quá lớn cho năm sau, có thể quy định phân chia tổng quỹ tiền lương theo các quỹ sau:
Quỹ tiền lương trả trực tiếp cho người lao động theo lương khoán, lương sản phẩm, lương thời gian, ít nhất bằng 76% tổng quỹ lương.
Quỹ khen thưởng từ quỹ lương đối với người lao động có năng suất, chất lượng cao, có thành tích tốt trong công tác, tối đa không quá 10% tổng quỹ tiền lương.
Quỹ khuyến khích người lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao, tay nghề giỏi, tối đa không quá 2% tổng quỹ lương
Quỹ dự phòng cho các năm sau: tối đa không quá 12% tổng quỹ lương.
2.3.2. Các hình thức ( phương pháp ) trả lương.
Hiện nay, tại các doanh nghiệp người ta thường áp dụng hai hình thức trả lương chủ yếu sau:
Trả lương theo thời gian
Hình thức tiền lương theo thời gian là hình thức tiền lương mà số tiền trả cho người lao động căn cứ vào thời gian làm việc và tiền lương của một đơn vị thời gian ( giờ hoặc ngày ). Như vậy, tiền lương theo thời gian phụ thuộc vào hai yếu tố:
+ Mức tiền lương trong một đơn vị sản phẩm.
+ Thời gian đã làm việc
Tiền lương trả theo thời gian chủ yếu áp dụng với những người làm công tác quản lý; còn đối với công nhân sản xuất thì chỉ nên áp dụng ở những bộ phận không thể tiến hành định mức một cách chặt chẽ và chính xác hoặc vì tính chất hạn chế do việc trả công theo sản phẩm sẽ không đảm bảo được chất lưọng sản phẩm, không đem lại hiệu quả thiết thực. Tuỳ theo yêu cầu và trình độ quản lý, việc tính và trả tiền lương theo thời gian có thể thực hiện theo hai cách:
* Trả lương theo thời gian giản đơn: ( giờ, ngày, tháng )
Chế độ trả lương theo thời gian giản đơn là chế độ trả lương mà tiền lương nhận được của mỗi người công nhân do mức lương cấp bậc cao hay thấp và thời gian làm việc thực tế nhiêù hay ít quyết định.
Tiền lương trả cho người lao động được tính theo công thức:
L = Lcb x T h
Trong đó: L : lương nhận được
Lcb: lương cấp bậc
Th: thời gian làm việc thực tế
Chế độ trả lương này chỉ áp dụng ở những nơi khó định mức lao động, khó đánh giá công việc một cách chính xác. Có ba loại tiền lương theo thời gian đơn giản:
Lương giờ: tính theo mức lương cấp bậc và số giờ làm việc.
Lương ngày: tính theo mức lương cấp bậc và số ngày làm việc thực tế
Lương tháng: tính theo mức lương cấp bậc tháng.
Hình thức này có ưu điểm là đơn giản, dễ tính toán. Hơn nữa, người lao động có thể tự tính toán được tiền công mà mình được lĩnh. Bên cạnh đó, hình thức trả lương này cũng có những nhược điểm là nó mang tính chất bình quân nên không khuyến khích việc sử dụng hợp lý thời gian làm việc, tiết kiệm nguyên vật liệu, không tập trung công suất của máy móc thiết bị để tăng năng suất lao động.
* Trả lương theo thời gian có thưởng
Theo hình thức này thì tiền lương người lao động nhận đượcgồm tiền lương thời gian giản đơn và một khoản tiền thưởng khi đạt được những chỉ tiêu về số lượng hoặc chất lượng đã quy định như: nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, tiết kiệm vật tư hoặc đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao...
Hình thức này chủ yếu áp dụng với người lao động phụ, làm việc phục v